THỰC HÀNH THANH TỊNH TÂM TRÍ – PRACTICING PURIFICATION OF THE MIND

Practicing Purification of the Mind – Thực hành thanh tịnh tâm trí

(Mr. S. N. Goenka delivered following public discourse at Hyderabad, India in1993)

(Ông S. N. Goenka trình bày dựa theo khóa học cộng đồng ở Hyderabad, Ấn Độ, năm 1993)

Friends: we have assembled here again this evening on the bank of the Ganges of Dharma—pure Dharma, non-sectarian Dharma—to understand what pure Dharma is. Let us understand how to practice pure Dharma: how to live a life of pure Dharma, and how to get benefited by pure Dharma.

Những người bạn: chúng ta tập hợp ở đây lần nữa vào buổi chiều ở bờ sông Ganges của Dharma- Dharma thuần túy (Dharma nguyên sơ) không phe nhánh Dharma-để hiều điều gì là Dharma thuần túy. Hãy để chúng ta hiểu thế nào là thực  hành Dharma thuần túy: sống một cuộc đời Dharma thuần túy là như thế nào, và làm thế nào để đạt được lợi ích từ Dharma thuần túy.

Dharma should be kept aloof from sectarian terminologies. Dharma should never be confused with Hindu-Dharma, Buddhist-Dharma, Jain-Dharma, Muslim-Dharma, Christian-Dharma, Sikh-Dharma, etc. Dharma is the universal law of nature. It is applicable to everyone, everywhere, at all times. It is the law of nature which will keep our minds free from impurities, free from negativities, free from any kind of defilement. Practicing Dharma makes the mind pure—full of love, full of compassion, full of sympathetic joy, full of equanimity. A pure mind will help you to live a good life, a healthy life, a wholesome life, which is good for you, and at the same time good for others. Such a Dharmic life can be lived by anyone.

Dharma nên được giữ cách xa thuật ngữ những phe nhánh. Dharma không bao giờ nên nhầm lẫn với Hindu-Dharma, Phật giáo-Dharma, Jain-Dharma (đạo Jaina ở Ấn Độ), Hồi giáo-Dharma, Cơ Đốc giáo-Dharma, Sikh-Dharma (đạo Sikh ở Ấn Độ), và nhiều nữa. Dharma là quy luật chung của tự nhiên. Nó ứng vào mọi người, mọi nơi và mọi lúc. Nó là quy luật của tự nhiên để giữ tâm trí của chúng ta thoát khỏi những bất tịnh, tự do thoát khỏi những tiêu cực, tự do thoát khỏi bất cứ tạp niệm nào. Thực hành Dharma làm tâm trí thanh tịnh-tràn đầy tình yêu, tràn đầy lòng trắc ẩn, tràn đầy sự hân hoan đồng cảm, tràn đầy sự bình thản. Thanh tịnh tâm trí sẽ giúp bạn sống tốt, sống khỏe, sống có ích, điều đó tốt cho bạn, và cũng tốt cho tất cả mọi người. Như vậy sống theo Dharma có thể thực hiện cho bất cứ ai.

One may keep calling oneself a Hindu, a Muslim, a Buddhist, a Jain, a Sikh or a Parsi: it makes no difference. One may call oneself a Brahmin or a non-Brahmin: it makes no difference. One may call oneself a Punjabi or a Tamilian: it makes no difference. One may call oneself an Indian or a Pakistani: it makes no difference. A human being is a human being. If one understands the basic law of nature, and lives in accordance with the law of nature, without breaking this law of nature, one is bound to live a very peaceful life, harmonious life. Out of ignorance, if one breaks this law of nature, he or she is bound to become unhappy, bound to become miserable. One may call oneself by this name or that name; one may perform this rite or that ritual; one may believe in this particular philosophy or that particular philosophy: it makes no difference at all. The law is the law. Dharma is Dharma. Purity of mind is Dharma; defilement of the mind is adharma. One has to come out of adharma and live the life of Dharma.

Ai đó có thể gọi người khác là một người Hindu, một người Hồi giáo, một Phật tử, một người theo đạo Jaina hoặc đạo Sikh hoặc một người Parsi: nó không khác gì nhau. Một người có thể gọi một ai đó là người theo đạo Bà la môn hoặc không phải Bà la môn: không có gì khác nhau. Một người có thể gọi một ai đó là người dân Punja hay người Tamilian: nó không khác gì nhau. Một người có thể gọi ai đó là người Ấn độ hay Pakistan: không có gì khác nhau. Con người là con người. Nếu ai đó hiểu quy luật cơ bản của tự nhiên, và sống phù hợp với quy luật của tự nhiên, không phá vỡ quy luật của tự nhiên, sẽ đến được một cuộc sống yên bình, một cuộc sống hài hòa. Vì vô minh, nếu một ai đó phá vỡ quy luật tự nhiên, anh ấy hoặc cô ấy sẽ trở nên không hạnh phúc, trở nên khốn khổ. Một người có thể gọi ai đó bằng tên này hay tên kia; một người có thể thực hiện nghi lễ này hay thói lệ kia, ai tin tưởng vào triết lý sống cá biệt này hay triết lý sống cá biệt kia: không có gì khác nhau cả. Luật là luật. Dharma là Dharma. Thanh tịnh tâm trí là Dharma; bất tịnh của tâm trí là adharma. Phải từ bỏ adharma và sống cuộc sống của Dharma.

The base of Dharma is morality, sīla. One should not perform any action, physical or vocal, which disturbs the peace and harmony of other beings. One should not perform any action, physical or vocal, which will hurt other beings, which will harm other beings. The base of Dharma is sīla, morality.

Nền tảng của Dharma là đạo đức, sīla. Không nên thể hiện bằng bất cứ hành động, thể chất hay lời nói nào mà làm nhiễu loạn sự yên bình và sự hài hòa của của vạn vật. Không nên thể hiện bằng bất cứ hành động thể chất hay lời nói nào mà làm tổn thương hay nguy hại đến vạn vật. Nền tảng của Dharma là sīla, đạo đức.

How can one practice morality? One must attain mastery over the mind. Our ancestors, the enlightened ones, gave us a very scientific technique for this. Dharma is a pure science of mind and matter, the interaction of mind and matter. Because of this interaction and because of our ignorance as to what is happening deep inside ourselves, we keep generating negativities. And we keep multiplying these negativities, which means that we keep multiplying our misery. We make ourselves unhappy and we make others unhappy.

Làm thế nào ta có thể thực hành đạo đức? Đó là phải đạt tới sự tinh thông ngoài tâm trí. Tổ tiên của chúng ta, đã khai sáng nhiều điều, cho chúng ta kỹ thuật thuộc về khoa học cho điều này. Dharma là khoa học thuần túy của tâm trí và vấn đề. Bởi vì sự ảnh hưởng lẫn nhau và sự thiếu hiểu biết của chúng ta về những điều sâu trong bản thân chúng ta, chúng ta tạo ra những tiêu cực. Và chúng ta làm tăng những tiêu cực này lên, đồng nghĩa là chúng ta làm tăng sự khốn khổ của chúng ta. Chúng ta làm chính chúng ta không hạnh phúc và làm những người khác không hạnh phúc.

One should understand this law of nature not merely at the intellectual level. We cannot understand the law of nature merely by listening to discourses, by listening to Dharma talks, by reading scriptures, by discussions, by intellectualization or by emotionalization. These may make us more and more confused. The only way to understand Dharma, to understand the law of nature, is to experience it. We should have direct experience of the truth, of the law of nature. We have to keep understanding the universal law with every step that we take on the path of Dharma.

Nên hiểu rằng quy luật tự nhiên không chỉ thuộc về mức độ trí tuệ. Chúng ta không thể hiểu quy luật tự nhiên chỉ bằng lắng nghe những bài giảng, những bài Pháp thoại, hay chỉ bằng đọc Kinh thánh, hay chỉ bằng những cuộc tranh luận, sự trí thức hóa hay xúc cảm. Những cái này có thể làm chúng ta hoang mang nhiều hơn nữa. Chỉ có một con đường để hiểu Dharma, là phải hiểu quy luật tự nhiên, trải nghiệm nó. Chúng ta nên trải nghiệm trực tiếp với chân lý của quy luật tự nhiên. Chúng ta phải hiểu mỗi bước của quy luật tự nhiên để chúng ta tiến bước trên con đường của Dharma.

Morality is the base of Dharma. At the apparent level, it appears that we are not harming other members of society when we live a moral life. So it seems that we are obliging other people, by allowing them to live a peaceful and happy life; by not harming them, by not hurting them. But at a deeper level—at the level of the law, the law of Dharma, the universal law of nature—we are actually obliging ourselves.

Đạo đức là nền tảng của Dharma. Ở mức độ bên ngoài, nó xuất hiện thì sẽ không gây nguy hại cho những người khác trong xã hội khi sống một cuộc sống nguyên tắc. Tuy vậy nó dường như sẽ làm chúng ta biết ơn người khác, bằng cách chấp nhận họ để sống yên bình và hạnh phúc; không làm hại họ, không làm họ tổn thương. Nhưng ở mức độ sâu hơn-mức độ của luật, luật của Dharma, quy luật chung của tự nhiên-chính chúng ta thậm chí bắt buộc phải tuân theo.

Those who walk on the path of Dharma should keep understanding that every time you break any sīla, any moral precept—any time you hurt or harm anybody at the physical or vocal level—you have started harming yourself. Actually, you harm yourself first and then you harm others, because you have to generate a tremendous amount of negativity in your mind—anger, hatred, ill will, animosity, passion, jealousy or ego, some impurity or the other—before you can perform a physical action or a vocal action which is harmful to others.

Những người bước đi trên con đường Dharma nên giữ sự hiểu biết rằng tại mỗi thời điểm bạn phá vỡ bất cứ nguyên tắc xử thế sīla nào, bất cứ lời dạy về đạo đức nào-bất cứ khi nào bạn làm tổn thương hoặc làm hại bất cứ ai bằng hành động hoặc lời nói-bạn bắt đầu làm hại chính bạn. Dĩ nhiên, bạn làm hại chính bạn trước tiên và sau đó bạn làm hại những người khác, bởi vì bạn phải tạo ra một sự tiêu cực rất lớn trong tâm trí bạn-giận dữ, căm ghét, ác tâm, sự thù oán, lòng ghen tức hay vị kỷ, một số tạp niệm hay nhiều thứ khác-trước khi bạn có thể thực hiện một hành động thuộc về thể chất hoặc lời nói gây hại đến người khác.

And as soon as we generate any negativity, any impurity, any defilement in the mind, nature starts punishing us. Nature does not discriminate. Nature—Dharma—is very impartial. Anybody who breaks the law is bound to be punished here and now, and anybody who lives a life of Dharma is bound to be rewarded here and now. This is the law, applicable to everyone. With this understanding, we realize that we must live a life of morality, which is good for ourselves and good for others also. Therefore we must control our minds. We must master our minds.

Và ngay khi ta tạo ra bất cứ tiêu cực nào, bất cứ tạp niệm nào hay bất cứ hỗn độn nào trong tâm trí, tự nhiên bắt đầu trừng phạt ta. Tự nhiên không phân biệt đối xử. Tự nhiên-Dharma-công bằng, không thiên vị. Bất cứ ai phá vỡ luật sẽ bị trừng phạt ở tại đây và ngay bây giờ, và bất cứ ai sống theo Dharma sẽ được tặng thưởng tại đây và ngay bây giờ. Đây là luật, áp dụng cho mọi người. Với sự hiểu biết này, chúng ta nhận ra rằng ta phải sống có đạo đức, những gì mà tốt cho chính ta thì cũng tốt cho những người khác. Vì vậy ta phải  kiểm soát tâm trí ta. Ta phải làm chủ tâm trí của ta.

As we were discussing yesterday, we can train the mind to get concentrated with the help of many objects. But when we walk on the path of Dharma, scientific Dharma—where no blind faith is involved, where no imagination is involved, where no speculation is involved— we have to work with the truth, the truth as it is.

Như chúng ta đã thảo luận hôm qua, chúng ta có thể rèn luyện tâm trí để đạt được sự tập trung với sự giúp đỡ của nhiều chủ thể. Nhưng khi ta bước đi trên con đường Dharma, khoa học Dharma-nơi mà niềm tin rộng mở phải có, nơi không bao gồm sự tưởng tượng, nơi không bao gồm sự suy đoán-chúng ta phải làm với hiện thực, hiện thực như chính nó là.

Therefore the object of concentration should be the truth as it is: the truth pertaining to oneself, the truth pertaining to your physical structure, which you keep calling “I, I, mine, mine.” We have a tremendous amount of identification with this physical structure, and a tremendous amount of attachment towards this physical structure. Similarly with the truth pertaining to the mental structure, which we keep calling “I, I, mine, mine”—a tremendous amount of identification with this mental structure, and a tremendous amount of attachment towards this mental structure. One should understand what is this “I.” What is this “mine”? What is this physical structure? What is this mental structure? And one should understand it at the experiential level.

Vì vậy chủ thể của sự tập trung nên là sự thật như nó là: hiện thực gắn liền với một ai đó, hiện thực thuộc về tổ chức thể chất của bạn, nó là cái bạn gọi là “Tôi, tôi, của tôi, của tôi”. Chúng ta có rất nhiều sự nhận diện với tổ chức thể chất này, và rất nhiều cái kèm theo hướng về tổ chức thể chất này. Tương tự với hiện thực gắn liền với tổ chức tinh thần, nó là cái bạn gọi là “Tôi, tôi, của tôi, của tôi”-có nhiều sự nhận diện với tổ chức tinh thần. Một điều nên hiểu là cái này là gì “ Tôi”. Điều gì là cái này “ của tôi”. Điều gì là tổ chức vật chất? Điều gì là tổ chức tinh thần? Và ai nên hiểu nó là cấp độ thuộc về trải nghiệm.

The whole process of training the mind to get concentrated should simultaneously train the mind to become pure. Purification of the mind and mastery over the mind should develop side by side. Otherwise one learns only to concentrate the mind, with which one can get much power. Every concentrated mind is a very powerful mind, and it can be misused. If the base is impure, and the mind is concentrated, it is a dangerous mind. Unwholesome actions can be performed with a concentrated mind. You must have seen a crane, standing at the bank of a pond, on one leg, fully concentrated. Concentrated on what?—on looking for a fish to devour. Or a cat at a mouse hole is concentrated on waiting for a mouse to come out, so it can devour it. To be successful, your mind has to be concentrated with every action that you perform. Even one who is a pickpocket has to keep his mind concentrated to pick pockets. These are all concentrations. Someone with a double barrelled-gun is fully concentrated on the prey, ready to shoot and kill it.

Toàn bộ quá trình rèn luyện tâm trí để đạt được sự tập trung nên rèn luyện đồng thời với rèn luyện để tâm trí trở nên thanh tịnh. Sự thanh tịnh và sự tinh thông của tâm trí nên phát triển cùng nhau. Mặt khác ta chỉ học tập trung vào tâm trí để có thể nhận được nhiều năng lượng.  Mỗi tâm trí tập trung là mỗi tâm trí mạnh mẽ, và nó có thể bị lạm dụng. Nếu nền tảng là tạp niệm, và tâm trí thì tập trung, nó là một tâm trí nguy hiểm. Những  hành động không lành mạnh có thể được thực hiện khi tâm trí tập trung. Bạn phải nhìn kỹ, đứng bên dòng nước, trên một chân, tập trung hết khả năng. Tập trung vào điều gì?-nhìn chăm chú vào một chú cá. Hay như một con mèo nhìn con chuột trong hang, tập trung và chờ đợi con chuột ra ngoài để có thể ăn thịt nó. Để thành công, tâm trí bạn phải tập trung vào mỗi hành động mà bạn thực hiện. Cho dù ai đó là một kẻ móc túi cũng phải giữ tâm trí tập trung để móc túi. Những điều này là tất cả sự tập trung. Một người với cây súng hai nòng tập trung hoàn toàn vào con mồi, sẵn sàng bắn và giết nó. 

These kinds of concentration are not Dharma. When the base is craving or hatred, this is not right concentration, not Dharmic concentration. The base must be free from craving, free from aversion, and always based on the truth. There should be no imagination, no speculation, no auto-suggestions, no outer suggestions, but the truth as it is.

Những thể loại tập trung này không phải là Dharma. Khi nền tảng là sự tham muốn hoặc căm ghét, nó không phải là sự tập trung đúng đắn, không phải là sự tập trung thuộc về Dharma. Nền tảng phải là không tham muốn, không ghét bỏ, và luôn luôn trung thực. Không có sự tưởng tượng, không có sự suy đoán, không có sự tự kỷ ám thị, không có yêu cầu từ bên ngoài, nhưng sự thật vẫn là sự thật.

To realize the truth, India’s enlightened people of the past gave us this technique. You sit down, close your eyes, close your mouth, and do nothing at the physical or vocal level. The whole process is a process of truth-realization, a process of self-realization, the truth pertaining to yourself at the experiential level—not what the books say, not what the scriptures say, not what your guru says, not what your tradition says, not what your belief says; but the truth that you experience from moment to moment. The truth pertaining to yourself.

Để nhận ra sự thật, những người Ấn Độ đã được giải thoát khi xưa đã cho chúng ta kỹ thuật này. Bạn ngồi xuống, nhắm mắt lại, ngậm miệng lại, và không làm gì hay nói gì. Toàn bộ quá trình là quá trình của sự nhận thức sự thật, một quá trình của sự tự nhận thức, sự thật thuộc về chính bạn tại mức độ trãi nghiệm-không phải sách vở nói gì, không phải kinh thánh nói gì, không phải bậc giác ngộ nói gì, không phải truyền thuyết nói gì, không phải niềm tin của bạn nói gì; nhưng sự thật là bạn trãi nghiệm từ từng khoảnh khắc. Hiện thực thuộc về chính bạn.

What is happening at this moment? There is no physical action going on, no vocal action going on. You are just observing, observing what is happening within the framework of your body. The first thing you will observe is the flow of respiration. There is a constant flow of respiration. The breath coming in and the breath going out, the breath coming in and the breath going out: you start with that. The breath is real; there is no imagination involved. The breath pertains to your own self, the reality pertaining to yourself. This reality is very gross, but it doesn’t matter—truth is truth.

Điều gì đang xảy ra ở khoảnh khắc này? Không có bất cứ hành động thuộc về thể chất nào xảy ra, không có lời nói nào. Bạn chỉ tiếp tục quan sát, quan sát những gì xảy ra trong phạm vi cơ thể của bạn. Điều đầu tiên bạn quan sát là sự luân chuyển của hơi thở. Đó là sự luân chuyển liên tục không ngừng. Hơi thở đến và hơi thở đi, hơi thở đến và hơi thở đi: bạn bắt đầu như thế. Hơi thở là hiện thực; không có bất cứ sự tưởng tượng nào theo nó. Hơi thở gắn liền với chính bạn, hơi thở là hiện thực thuộc về chính bạn. Hiện thực thì rất thuần, nhưng nó không tầm thường-hiện thực là hiện thực.

You have started with the truth. If you are on the Path, you will notice that every step you take will be a step on the path of truth, truth, truth. You will start with the gross truth, and you will move towards subtler, subtler, subtler truth. You will reach the subtlest truth pertaining to your physical structure, the subtlest truth pertaining to your mental structure. A time will come when it will become very easy for you to transcend the entire field of mind and matter and experience something which is indescribable, which is eternal, which does not arise, which does not pass away. It is there all the time.

Bạn phải bắt đầu với hiện thực. Nếu bạn đang trên đường, bạn sẽ nhận thấy rằng mỗi bước bạn bước đi trên đường là hiện thực, hiện thực, hiện thực. Bạn sẽ bắt đầu với hiện thực thuần túy, và bạn sẽ di chuyển hướng đến sự tinh tế hơn, tinh tế hơn, hiện thực tinh tế hơn. Bạn sẽ chạm đến hiện thực tinh tế nhất gắn liền với cấu trúc thể chất của bạn, hiện thực tinh tế nhất gắn liền với tổ chức tinh thần của bạn. Thời điểm sẽ đến khi nó trở nên rất dễ dàng cho bạn để vượt quá toàn bộ lĩnh vực của tâm trí và sự việc và kinh nghiệm nào đó mà là không thể mô tả được, là vĩnh hằng, là không xuất hiện, là không ra vô liên tục. Nó là tất cả.

This has to be experienced, and for that you have to experience the entire field of mind and matter, the field which keeps arising, passing, arising, passing. A constant process of change is taking place. This is not just to be believed; it has to be experienced. And for that experience, you start with your respiration—the breath coming in, the breath going out; natural breath, normal breath, as it comes in naturally, as it goes out naturally.

Điều này phải được trải nghiệm, và bạn phải trải nghiệm toàn bộ lĩnh vực tâm trí và vật chất, lĩnh vực mà có sự nảy sinh, sự ra vào, nảy sinh, ra vào. Một quy trình liên tục thay đổi đang diễn ra. Đây không chỉ là được tin tưởng; nó phải được trãi nghiệm. Và cho sự trãi nghiệm đó, bạn bắt đầu với hơi thở của bạn-hơi thở đến, hơi thở đi; hơi thở tự nhiên, hơi thở bình thường, như nó đến một cách tự nhiên, như nó đi một cách tự nhiện.

Do not use any verbalization. From my own experience, and from the experience of so many others, I know that if you start using a word along with the awareness of respiration, your mind will get concentrated very easily, very quickly, without any disturbance. In that practice, you keep repeating any word, any name, any mantra, in which you have faith, and at the same time you observe your respiration. But in this technique of truth-realization, you are not allowed to use any word, because concentration is not the aim. Concentration with purity is the aim. If mere concentration were the aim, then all these verbalizations, visualizations, imaginations, speculations and philosophizations would be helpful. You could have used them. But because this is the analytical study of your own self, the scientific study of the mind and matter within yourself, don’t use any imagination, verbalization or visualization. Just be with the truth as it is.

Không nói bằng lời. Từ kinh nghiệm của chính bản thân mình, và từ kinh nghiệm của nhiều người khác, tôi biết rằng nếu bạn bắt đầu sử dụng một từ ngữ cùng với nhận thức về sự thở, tâm trí bạn sẽ có được sự tập trung dễ dàng, nhanh chóng mà không có sự nhiễu loạn nào. Trong cách thực hành đó, bạn tiếp tục lặp lại bất cứ một từ nào đó, một cái tên nào đó, một câu thần chú nào đó trong đức tin của bạn, và cùng lúc đó bạn quan sát hơi thở của bạn. Nhưng trong kỹ thuật nhận thức hiện thực này, bạn không được phép sử dụng bất cứ từ ngữ nào, bởi vì sự tập trung không phải là mục tiêu. Sự tập trung thanh tịnh mới là mục tiêu. Nếu chỉ có tập trung là mục tiêu, thì tất cả những phát biểu bằng lời nói, sự hình dung, sự tưởng tượng, sự suy đoán và sự luận bàn sẽ hữu ích. Bạn có thể sử dụng chúng. Nhưng bởi vì đây là sử dụng phép phân tích của chính bạn, kỹ năng khoa học của tâm trí và vật chất trong giới hạn của chính bạn, không sử dụng bất kỳ sự tưởng tượng, lời nói hoặc sự hình dung nào. Chỉ là hiện thực như chính nó là.

And don’t use a breathing exercise. Don’t control the breath, as is done in prāṇāyāma. Don’t control the breath. Just be aware of the breath as it comes in naturally, as it goes out naturally. If it is deep, it is deep. You are just aware that it is deep. If it is shallow, it is shallow. You are just aware that it is shallow. If it is passing through the left nostril, you are just aware that it is passing through the left nostril. If it is passing through the right nostril, you are just aware that it is passing through the right nostril. If it is passing through both nostrils, you are just aware that it is passing through both nostrils. Don’t try to change the natural flow of respiration. Just observe. Mere observation, bare observation, silent observation.

Và không sử dụng thực hành thở. Không kiểm soát hơi thở, để nó diễn ra trong prāṇāyāma. Không kiểm soát hơi thở. Chỉ nhận thức hơi thở như nó đến một cách tự nhiên, như nó đi một cách tự nhiên. Nếu thở sâu, hơi thở sâu. Bạn chỉ nhận thức rằng nó sâu. Nếu thở nông, hơi thở nông. Bạn chỉ nhận thức rằng nó nông. Nếu thở qua lỗ mũi bên trái, bạn chỉ nhật thức rằng hơi thở đi qua mũi bên trái. Nếu thở qua lỗ mũi bên phải, bạn chỉ nhận thức rằng hơi thở đi qua mũi bên phải. Nếu thở ở cả hai bên lỗ mũi, bạn chỉ nhận thức rằng hơi thở đi qua hai bên lỗ mũi. Không cố gắng thay đổi sự lưu thông tự nhiên của hơi thở. Chỉ quan sát. Chỉ có sự quan sát, quan sát thuần, quan sát thinh lặng.

In the ancient Indian language this was called taṭastha, which means somebody sitting at the bank of a river. The river is flowing. One who is sitting at the bank of a river has nothing to do with the flow of the river. It is just there, the natural flow of the river. This person sitting at the bank of the river is just observing, observing the natural flow. It may be fast, it may be slow. The water might be very transparent, or it might be muddy. Whatever it is, he doesn’t try to change it; he doesn’t make any effort.

Trong ngôn ngữ cổ xưa của Ấn Độ điều này gọi là taṭastha, với ý nghĩa là người nào đó đang ngồi bên bờ sông. Con sông vẫn đang trôi. Một người đang ngồi lặng yên bên bờ sông không làm gì với dòng chảy của sông. Chỉ ở đó, dòng sông trôi tự nhiên. Người này ngồi bên bờ sông chỉ đang quan sát, quan sát dòng chảy tự nhiên. Nó có thể nhanh, có thể chậm. Dòng nước có thể rất trong suốt, hoặc có thể lấm đầy bùn. Bất kể nó như thế nào, ông ấy không cố gắng thay đổi nó; ông không tạo ra bất kỳ sự cố gắng nào. 

It is an effortless observation of the truth as it is, from moment to moment, from moment to moment. This is what one has to do: observe the breath as it is. As it is, not as you would like it to be, but as it is; as it is. It is a very easy exercise. You don’t have to do anything. Nature is playing its own role. The breath is just coming in naturally and going out naturally. You are just sitting at the bank of the river and observing the flow of respiration, coming in, going out, coming in, going out. What is difficult about this? It is very easy.

Đó là sự quan sát dễ dàng hiện thực như nó chính là, từ khoảnh khắc đến khoảnh khắc, từ khoảnh khắc đến khoảnh khắc. Đây là một việc phải làm: quan sát hơi thở như nó là. Như nó là, không phải như bạn thích nó là, nhưng như nó là; như nó chính là nó. Đó là một bài thực hành dễ dàng. Bạn không phải làm gì. Tự nhiên đang đóng vai của nó. Hơi thở chỉ đến một cách tự nhiên và đi một cách tự nhiên. Bạn chỉ đang ngồi bên bờ sông và quan sát lưu thông của sự thở, hít vào, thở ra, hít vào, thở ra. Có gì khó đâu nào? Rất là dễ dàng.

But if you decide to come to a ten-day course and start working with the breath, you will find it so difficult, so difficult. It is quite easy to understand: “Well, I just have to observe the breath, natural breath.” But when you start observing it, you won’t observe even a couple of breaths before the mind wanders away. Suddenly you realize: “What happened? I was here to observe my breath.” And again you bring your attention back to the breath. Again you observe just one or two breaths, and again the mind has gone somewhere else. You feel very irritated: “What’s wrong with me? What sort of mind do I have? It cannot even do this easy job of observing the breath!” You get annoyed with yourself.

Nhưng nếu bạn quyết định đến với khóa học 10 ngày và bắt đầu thực hành với hơi thở, bạn sẽ thấy nó cũng khó khăn. Nó khá dễ dàng để hiểu: “ Tốt thôi, tôi chỉ quan sát hơi thở, hơi thở tự nhiên”. Nhưng khi bạn bắt đầu quan sát hơi thở, bạn sẽ không quan sát chỉ hơi thở ra và hơi thở vào trước khi tâm trí lang thang đi mất. Bất thình lình bạn nhận ra: “ Điều gì đã xảy ra? Tôi đã ở đây để quan sát hơi thở của tôi. Và lần nữa bạn tập trung trở lại vào hơi thở. Bạn tiếp tục chỉ quan sát một hoặc hai hơi thở và lần nữa tâm trí sẽ lang thang ở đâu đó. Bạn cảm thấy rất tức tối: “ Tôi đã làm gì sai? Tâm trí tôi sắp xếp gì trong đó? Nó không thể đều đặn thực hiện việc quan sát hơi thở!” Bạn bị bực bội với chính mình.

Then your guide at the Vipassana centre will say: “Don’t get annoyed. Don’t generate anger. Whether you generate anger towards somebody else, or you generate anger towards yourself, it makes no difference. Just accept the reality that the mind has wandered away.” You are observing the breath and your mind has wandered away. You realize: “Look, the mind has wandered away.” Smilingly accept the reality. This is the reality of this moment: the mind has wandered away. All right, the breath is still there, and you start again. You start again, and again the mind wanders away. Again you realize: “Oh look, it has wandered away.” Again come back to the breath. Like this, you have to work—very patiently, very patiently. It takes a day or two, then your mind starts calming down.

Lúc bấy giờ người hướng dẫn tại trung tâm Vipassana sẽ nói: “Đừng bực bội. Đừng tạo ra giận dữ. Có chăng bạn sẽ tạo ra giận dữ hướng đến những người khác, hoặc bạn sẽ tạo ra giận dữ với chính mình, nó không khác gì nhau. Chỉ chấp nhận hiện thực rằng tâm trí lang thang liên tục. “Bạn đang quan sát hơi thở và tâm trí bạn lang thang liên tục. Bạn nhận ra: “Nhìn kìa, tâm trí lang thang liên tục.” Một cách tươi cười chấp nhận hiện thực này. Đây là hiện thực tại khoảnh khắc này: tâm trí lang thang liên tục. Dù vậy, hơi thở vẫn ở đó, và bạn lại bắt đầu lại. Bạn bắt đầu lại, và tâm trí lại đi lang thang. Bạn lại nhận ra: “Ồ nhìn kìa, tâm trí đang lang thang”. Lần nữa trở lại với hơi thở. Như vậy, bạn phải làm việc-một cách rất kiên nhẫn, rất kiên nhẫn. Nó mất một hoặc hai ngày, sau đó tâm trí bạn bắt đầu bình tâm.

You were asked to observe your breath. Observing the breath, observing the breath, you have started observing your mind also: “See, this mind keeps wandering away, it keeps wandering away.” You have started making an analytical study of your own mind and the truth as it is, in a very scientific way. Where has the mind wandered? To which subject has it wandered? Again it has wandered. Where? To which subject? You can’t keep a diary or make notes of where it wandered, to which subject it wandered. It wandered.

Bạn được yêu cầu quan sát hơi thở của bạn. Vừa đang quan sát hơi thở, bạn vừa bắt đầu quan sát tâm trí: “Nhìn kìa, tâm trí này vẫn lang thang liên tục, nó vẫn lang thang liên tục. “Bạn bắt đầu phép phân tích tâm trí và hiện thực như chính nó là, trong cách thức khoa học. Tâm trí lang thang đi đâu? Nó lang thang đến chủ thể nào? Nó lại tiếp tục lang thang. Ở đâu? Đến chủ thể nào? Bạn không thể viết lại như nhật ký hoặc ghi chú lại nơi mà tâm trí lang thang, chủ thể mà tâm trí lang thang đến. Nó vẫn lang thang.

But you will notice that there are only two fields where the mind keeps wandering. Either it wanders in a memory of the past, this memory or that memory, and it keeps rolling in that: “This happened,” or “That happened.” Or it will jump to the future—”Oh, I want this to happen in the future,” or “I don’t want this to happen in the future”—and it keeps rolling in the future.

Như bạn sẽ biết rằng chỉ có hai lĩnh vực nơi mà tâm trí tiếp tục lang thang. Hoặc nó lang thang trong ký ức của quá khứ, ký ức này hoặc ký ức kia, và nó tiếp tục trôi trong đó: “Sự việc này đã xảy ra,” hoặc “sự việc kia đã xảy ra.” Hoặc nó sẽ đi đến tương lai-“Ồ, tôi muốn điều này xảy ra trong tương lai,” hoặc “Tôi không muốn điều này xảy ra trong tương lai”-và nó tiếp tục trôi trong tương lai.

As a research scholar, you will start understanding the nature of your mind. It is a slave of its own habit pattern, constantly rolling in either the past or in the future, either the past or the future. It does not want to live in the present. And you have to live in the present; you can’t live in the past. The past is gone, gone forever. All the money in the world will not buy back the moment that is gone; this is impossible. You can’t relive the past; it is gone forever. You can’t live in the future, unless the future becomes the present. You have to live in the present, and the behaviour pattern of the mind is that it does not want to live in the present. This is one reason why it remains agitated.

Với tư cách như một học giả nghiên cứu, bạn sẽ bắt đầu hiểu bản chất tự nhiên của tâm trí bạn. Tâm trí là nô lệ của chính thói quen khuôn mẫu, liên tục trôi trong quá khứ hoặc tương lai. Nó không muốn tồn tại ở hiện tại. Và bạn phải sống ở hiện tại; bạn không thể sống ở quá khứ. Quá khứ đã trôi qua, trôi qua mãi mãi. Tất cả tiền bạc trên thế giói sẽ không thể mua được khoảnh khắc đã trôi qua; nó là không khả thi. Bạn không thể sống lại trong quá khứ; nó đã trôi qua mãi mãi. Bạn không thể sống ở tương lại, mặc dù tương lai sẽ trở thành hiện tại. Bạn phải sống ở hiện tại, và tập tính khuôn mẫu của tâm trí là nó không muốn tồn tại ở hiện tại. Đây là một lý do tại sao tâm trí giữ lại sự bối rối.

You start understanding one reason why the mind remains agitated: it does not know the art of living. With this technique of observing respiration, observing respiration, you are training your mind in the art of living, to learn how to live in the present moment. The reality of the present moment is that the breath is coming in, or the breath is going out. Be with that, as it is: live in the present. Again the mind runs away because of its old habit pattern, and again you bring it back to the present moment. You are understanding the behaviour of your mind to some extent; a beginning has been made.

Bạn bắt đầu hiểu một nguyên nhân tại sao tâm trí giữ lại sự bối rối: nó không biết cách sống. Với kỹ thuật quan sát hơi thở này, quan sát hơi thở, bạn đang rèn luyện tâm trí bạn cách sống, để học cách sống như thế nào ở khoảnh khắc hiện tại. Hiện thực của khoảnh khắc hiện tại là hơi thở đang đến, hơi thở đang đi. Sống với nó, như nó chính là: sống ở hiện tại. Lần nữa tâm trí liên tục vận hành bởi vì đó là thói quen khuôn mẫu cũ, và lần nữa bạn mang tâm trí trở lại khoảnh khắc hiện tại. Bạn đang hiểu tập tính của tâm trí bạn ở một mức độ nào đó; một khởi đầu đã được tạo ra.

Another reality that you will observe: on the second or third day, it will become clear that whether the mind wanders in the past, or it wanders in the future, there are only two types of thoughts that keep coming. They are either pleasant or unpleasant. A memory of the past may be pleasant or unpleasant. A thought of the future may be pleasant or unpleasant. You observe, “Look, a pleasant thought has arisen.”

Một thực tế khác là bạn sẽ quan sát: trong ngày thứ hai hoặc ngày thứ ba, nó sẽ trở nên sáng tỏ rằng có chăng tâm trí lang thang trong quá khứ, hoặc lang thang ở tương lai, có chỉ hai dạng suy nghĩ xuất hiện. Chúng là dễ chịu hoặc khó chịu. Ký ức của quá khứ có thể sẽ dễ chịu hoặc không dễ chịu. Suy nghĩ về tương lai có thể sẽ dễ chịu hoặc không dễ chịu. Bạn quan sát, “hãy nhìn kìa, suy nghĩ dễ chịu đã bắt đầu xuất hiện”

Whether it is a thought of the past or a thought of the future, you will notice that one part of the mind starts rolling in this pleasant thought, and another part of the mind starts reacting to it: “Ah, wonderful. This happened in the past, and it was so good. It was wonderful, I liked it.” Or: “I want this to happen because I like it, it is wonderful.” There is a reaction of liking which very soon turns into craving, which very soon turns into clinging. Craving, clinging, craving, clinging.

Có chăng nó là một suy nghĩ trong quá khứ hoặc một suy nghĩ về tương lai, bạn sẽ nhận thấy rằng một phần của tâm trí bắt đầu trôi trong suy nghĩ dễ chịu, và phần khác của tâm trí bắt đầu phản ứng lại nó: “À, thật tuyệt vời. Điều này đã xảy ra trong quá khứ, và nó rất dễ chịu. Nó tuyệt vời, tôi thích nó. Hoặc: Tôi muốn điều này xảy ra bởi vì tôi thích nó, nó thật tuyệt vời.” Có sự phản ứng thích thú chẳng mấy chốc nữa sẽ hướng vào nỗi khát khao, chẳng mấy chốc sẽ hướng vào sự gắn bó. Khát khao, gắn bó, khát khao, gắn bó.

An unpleasant thought comes—of the past or of the future—and you will notice that one part of the mind rolls in this unpleasant thought, and the other part of the mind reacts to it: “Unpleasant, no good. I don’t like it, I don’t like it.” Aversion, hatred, aversion, hatred. Then it becomes clear that your mind is not silent for a moment: every moment there is some thought or the other, which is either pleasant or unpleasant. Whenever there is a pleasant thought, you react with craving, craving, craving. And whenever there is an unpleasant thought you react with aversion, aversion, aversion. Rāga, dveśha, rāga, dveśha. The mind is constantly rolling in rāga or in dveśha, in rāga or in dveśha.

Một suy nghĩ không dễ chịu đến-của quá khứ hoặc tương lai-và bạn sẽ nhận thấy rằng một phần của tâm trí trôi trong suy nghĩ không dễ chịu này, và một phần khác phản ứng lại nó: “ Không dễ chịu, không tốt. Tôi không thích nó, tôi không thích nó.” Cái mình ghét, lòng căm ghét, cái mình ghét, lòng căm ghét. Sau đó nó trở nên rõ ràng rằng tâm trí bạn không lặng im trong từng khoảnh khắc: mỗi khoảnh khắc có một vài suy nghĩ này hoặc suy nghĩ khác, mặc mặc dù dễ chịu hoặc không dễ chịu. Mỗi khi có một suy nghĩ dễ chịu, bạn phản ứng lại với sự khát khao, khát khao, khát khao. Và mỗi khi có một suy nghĩ không dễ chịu, bạn phản ứng lại với sự căm ghét, căm ghét, căm ghét. Rāga, dveśha, rāga, dveśha. Tâm trí thì liên tục trôi trong raga hoặc trong dveśha, trong Rāga hoặc trong dveśha.

Whenever you generate rāga, craving, you lose the balance of your mind. Whenever you generate dveśha, aversion, you lose the balance of your mind, you are no longer equanimous. There is no equilibrium of the mind, there is no equipoise of the mind. When you become unbalanced, you become agitated and you become miserable. So the cause of misery becomes clearer and clearer. The root of all the defilements is rāga and dveśha. And whenever you generate any defilement in the mind, every moment it is with rāga or dveśha, rāga ordveśha.

Mỗi khi bạn tạo ra rāga, nỗi khát khao, bạn đánh mất sự cân bằng của tâm trí. Mỗi khi bạn tạo ra dveśha, lòng căm ghét, bạn đánh mất sự cân bằng của tâm trí, bạn sẽ không có sự bình thản lâu dài. Không có sự điềm tĩnh của tâm trí, không có sự thăng bằng tâm trí. Khi bạn trở nên mất cân bằng, bạn trở nên bối rối và trở nên khốn khổ. Do vậy nguyên nhân của sự khốn khổ trở nên rõ ràng hơn. Cội rễ của tất cả các bất tịnh là rāgadveśha. Và mỗi khi bạn tạo ra bất kỳ sự bất tịnh nào trong tâm trí, mỗi khoảnh khắc đó là với rāga hoặc dveśha, rāga hoặc dveśha.

This is not a philosophical thought, a philosophical game, a devotional game or an emotional game; it is very scientific, very rational. You are researching how the mind works, and you are experiencing the truth about your mind. You are rolling in rāga, rolling in dveśha and becoming miserable. Then you bring your attention back to the awareness of respiration. At that moment, when the mind is with the awareness of respiration, there is no craving. You are with the present moment. You don’t start craving for the breath:”I want more breath, I want more breath.” The breath is there, so there is no use craving for it. When the breath is coming in, you don’t have aversion towards the breath: “Go away, I don’t like this breath.” There is neither craving nor aversion, there is no rāga, there is no dveśha.

Đây không phải là một suy nghĩ thuộc về triết học, một trò chơi nghiên cứu triết học, một trò chơi mộ đạo hay một trò chơi cảm xúc; nó rất khoa học, rất hợp lý. Bạn đang nghiên cứu xem tâm trí mình hoạt động như thế nào, và bạn đang trãi nghiệm sự thật về tâm trí bạn. Bạn đang trôi trong rāga, trôi trong dveśha và trở nên khốn khổ. Sau đó bạn đem sự chú ý của bạn trở lại với hơi thở trong nhận thức, không có sự khát khao. Bạn ở giây phút hiện tại. Bạn không bắt đầu khao khát về  hơi thở: “ Tôi muốn nhiều hơi thở hơn, tôi muốn nhiều hơi thở hơn. “ Hơi thở ở đó, vì vậy không cần khao khát về nó. Khi hơi thở đến, bạn không có sự căm ghét hướng đến hơi thở: “ Đi đi, tôi không thích hơi thở này.” Không cái nào, sự khao khát hay sự căm ghét, không có rāga, không co dveśha.

As you keep working for the whole day, you will start to experience very tiny moments when your mind is really with the breath—no craving, no aversion. You are training your mind not merely to be concentrated, but also to be free from craving, free from aversion, free from impurities. This is the proper, scientific way of developing mastery over the mind. And anybody can do it, because one is working with truth. This is not a belief. The breath is there, and the breath is not Hindu, Muslim or Christian breath, Brahmin or non-Brahmin breath, Indian or American breath. The breath is the breath—natural breath, a natural phenomenon: the breath coming in and the breath going out. And the mind that is observing it is not a Hindu mind, a Muslim mind, or a Christian mind. This is how everybody’s mind is working, and you are examining your own mind, how it is working.

Như là bạn tiếp tục làm việc cả ngày, bạn bắt đầu trãi nghiệm mỗi khoảnh khắc ngắn ngủi khi tâm trí bạn thật sự ở cùng hơi thở-không khao khát, không căm ghét. Bạn đang rèn luyện tâm trí bạn không chỉ là tập trung, nhưng cũng là tự do thoát khỏi sự khao khát, tự do thoát khỏi sự căm ghét, tự do thoát khỏi sự hỗn độn. Đây là đúng đắn, một cách thức khoa học để phát triển sự tinh thông vượt ngoài tâm trí. Và ai cũng có thể thực hiện nó, bởi vì duy nhất là thực hiện với hiện thực. Đây không phải là niềm tin. Hơi thở ở đó, và hơi thở không phải là Hindu, Muslim hoặc hơi thở Chritian, hơi thở Brahmin hay hơi thở không phải Brahmin, hơi thở India hay American. Hơi thở là hơi thở-hơi thở tự nhiên, một hiện tượng tự nhiên: hơi thở đến và hơi thở đi. Và tâm trí đang quan sát hơi thở thì không phải là tâm trí Hindu, tâm trí Muslim, hay tâm trí Christian. Đây là cách tâm trí mỗi người hoạt động, và bạn đang thi với tâm trí của bạn, xem nó hoạt động như thế nào.

The whole process is so scientific, so result-oriented. You get results here and now. You understand your problem, and you start coming out of your problem in a very scientific way, a very rational way. No blind faith is involved, no gurudom is involved, no exploitation is involved, no dogmatism is involved. This is the truth. This is the science of mind and matter. Great scientists of India discovered the science of mind and matter, the interaction of mind and matter.

Cả quy trình rất khoa học, rất chú trọng vào kết quả. Bạn đạt được những kết quả ở đây và bây giờ. Bạn hiểu vấn đề của bạn, và bạn bắt đầu thoát khỏi vấn đề của bạn một cách rất khoa học, một cách rất hợp lý. Không đòi hỏi niềm tin mù quáng, không đòi hỏi người thầy tinh thần nào, không đòi hỏi sự khai thác, không đòi hỏi chủ nghĩa giáo điều. Đây là hiện thực. Đây là khoa học về tinh thần và thể chất. Các nhà khoa học vĩ đại của Ấn Độ đã khám phá khoa học về tinh thần và thể chất, sự tác động qua lại của tinh thần và thể chất.

By observing the breath, observing the breath, you will very soon reach the stage where you understand how mind and matter are interrelated. At the apparent level, the respiration appears to be merely a physical exercise, a physical activity. The breath comes in and goes out, comes in and goes out because the lungs are pumping. So does it pertain only to your physical structure? This idea is totally wrong.

Bằng cách quan sát hơi thở, quan sát hơi thở, bạn sẽ sớm đến được lối vào nơi mà bạn hiểu tâm trí và thể chất tác động qua lại với nhau như thế nào. Ở mức độ bên ngoài, sự thở xuất hiện chỉ là sự tập luyện thể chất, là hoạt động thể chất. Hơi thở đến và đi, đến và đi ra bởi vì phổi đang hô hấp. Vì vậy nó chỉ gắn liền với cấu trúc thể chất của bạn? Đây là ý kiến rất sai.

When you observe it objectively, in a scientific way, it becomes so clear that your breath is also strongly related to your mind, and also very strongly related to the mental impurities. As you are observing your breath, observing your breath, some thought of the past comes and you start reacting with anger. As soon as you generate anger, you will notice that the breath has lost its normality. It is no longer normal; it becomes slightly fast, slightly hard. And once that impurity has gone away, again it becomes normal. So the breath is strongly related to your mind and strongly related to your body.

Khi bạn quan sát nó một cách khách quan, một cách khoa học, nó trở nên rõ ràng rằng hơi thở của bạn cũng liên quan mạnh mẽ đến tâm trí bạn, và cũng liên quan mạnh mẽ đến những hỗn độn tinh thần. Khi bạn đang quan sát hơi thở, một vài suy nghĩ trong quá khứ đến và bạn bắt đầu có phản ứng giận dữ. Rất sớm thôi bạn sẽ tạo ra giận dữ, bạn sẽ thấy rằng hơi thở mất đi trạng thái bình thường. Nó không kéo dài bình thường; nó trở nên hơi nhanh, hơi nặng nhọc. Và có lần khi sự hỗn độn đi khỏi, hơi thở trở nên bình thường trở lại. Vì vậy hơi thở liên quan mạnh mẽ đến tâm trí bạn và cơ thể bạn.

You are here to understand the nature of mind and matter, the interaction of mind and matter—the currents, crosscurrents, undercurrents that are going on within the framework of this body. You are going to examine that. That is why you have chosen the breath. And pure breath, natural breath, without any verbalization, without any visualization, without any imagination, without any kind of philosophical belief. It has nothing to do with all those. Observe the breath as breath, and this will take you further towards subtler truths.

Bạn ở đây để hiểu bản chất tự nhiên của tâm trí và thể chất, tác động qua lại của tâm trí và thể chất-sự lưu hành, các dòng chảy đang diễn ra trong khuôn khổ cơ thể này. Bạn sẽ kiểm tra điều đó. Đó là lý do vì sao bạn chọn hơi thở. Và hơi thở thuần khiết, hơi thở tự nhiên, không có bất cứ lời nói nào, không có bất cứ hình ảnh nào, không có bất cứ sự tưởng tượng nào, không có bất cứ niềm tin mang tính triết học nào. Hơi thở không làm gì với tất cả những cái đó. Quan sát hơi thở như nó chính là, và điều này sẽ mang bạn đi xa hướng đến những hiện thực quan trọng.

The saints of India understood how to make a true analytical study of the truth. That is why Guru Nānak said:

Những vị thánh của Ấn Độ đã hiểu làm thế nào để phân tích xác thực sự nghiên cứu hiện thực. Đó là vì sao Guru Nānak đã nói:

“Ādī saca, jugādī saca, hai bhī saca, Nānaka hosi bhi saca.”

“Ādī saca, jugādī saca, hai bhī saca, Nānaka hosi bhi saca.”

 

-Start with the truth, and when every step is with the truth, you will reach the ultimate truth.

– Bắt đầu với hiện thực, và mỗi bước luôn đi cùng hiện thật, bạn sẽ chạm đến hiện thực cuối cùng.

If you start with imagination, you may get involved with a bigger imagination, under the delusion that you have experienced the truth. But you are far away from the truth. Be with the truth, however gross it may be, and you will notice that you are moving further towards the truth— subtler truth, subtler truth, subtler truth.

Nếu bạn bắt đầu với sự tưởng tượng, bạn có thể nhận được sự tưởng tượng lớn hơn, bên dưới sự ảo tượng rằng bạn đã trãi nghiệm hiện thực. Nhưng thực tế bạn lại cách rất xa hiện thực. Chỉ với hiện thực, dù thế nào đi nữa, bạn sẽ thấy rằng bạn đang tiến xa đến hiện thực-hiện thực quan trọng, hiện thực quan trọng.

At this stage, a warning: having listened to this discourse, please do not start trying it on your own. It is a very delicate job—very simple, and yet very delicate. You are making a surgical operation of your own mind, moving from the surface level to the deeper, deeper, deepest level of the mind. When you make a surgical operation of the mind, deep-rooted complexes might come to the surface, and you should know how to face them. Therefore, the first time that you learn this technique, you should learn it with somebody who is experienced. Spend ten days with an experienced teacher. But after you have learned the technique in ten days, you are your own master. You have to work on it, and it is a long path. You have to walk on the Path. Nobody else will carry you on his shoulders and bring you to the final goal. You have to walk. You have to work out your own salvation. But to learn the technique, initially you must work with somebody who has experience on the Path, who has walked on the Path.

Ở tình trạng này, sự cảnh báo là: phải có sự lắng nghe bài giảng, vui lòng không bắt đầu tự mình cố gắng. Đó là một công việc tinh tế-rất đơn giản, và cho đến bây giờ vẫn rất tinh tế. Bạn đang làm một cuộc phẫu thuật sự vận hành tâm trí của chính bạn, đi từ bề mặt đến mức sâu hơn, sâu hơn, và đến mức sâu nhất của tâm trí. Khi bạn làm một cuộc phẫu thuật sự vận hành tâm trí, sâu đến cội rễ phức tạp thì có thể đến được bề mặt, và bạn nên biết làm thế nào để đối mặt với chúng. Vì vậy, lần đầu tiên bạn học kỹ thuật này, bạn nên học với một ai đó đã có kinh nghiệm. Trãi nghiệm mười ngày với giảng viên có kinh nghiệm. Nhưng sau khi bạn học kỹ thuật này trong mười ngày, bạn là chủ nhân của chính bạn. Bạn phải làm việc với nó, và nó là một con đường dài. Bạn phải bước đi trên con đường này. Không ai sẽ mang bạn trên vai và đem bạn đến mục tiêu cuối cùng. Bạn phải tự bước đi. Bạn phải rèn luyện cho sự giải thoát của chính bạn. Nhưng để học kỹ thuật này, ban đầu bạn phải làm việc với một ai đó đã có kinh nghiệm trên con đường giải thoát này, ai đó đã bước đi trên con đường này.

So—observing the breath, observing the breath, keeping your attention at the entrance of the nostrils, and in that area, observing the breath coming in, going out, coming in, going out—by the time you reach the third or fourth day, something will start happening there. Actually something is happening all the time, some biochemical or electromagnetic reaction is taking place on every little particle of the body, at every moment. Wherever there is life, there is a biochemical reaction, an electromagnetic reaction. But one does not know this because the mind is so gross that one cannot feel what is happening.

Vì vậy-quan sát hơi thở, quan sát hơi thở, giữ sự chú tâm vào lối vào của lỗ mũi, và ở phạm vi này, quan sát hơi thở đến, hơi thở đi, hơi thở đến, hơi thở đi-ở thời điểm bạn hướng đến ở ngày thứ ba hoặc ngày thứ tư, một số thứ sẽ bắt đầu xuất hiện ở đó. Dĩ nhiên một số thứ đang xuất hiện suốt cả thời gian, một số phản ứng hóa học hoặc phản ứng điện từ đang nói đến ở mỗi phần nhỏ của cơ thể, ở mỗi khoảnh khắc. Mọi nơi đó là cuộc sống, đó là phản ứng hóa học, phản ứng điện từ. Nhưng một điều không biết là vì sao tâm trí rất tinh tế mà lại không thể cảm nhận được điều gì đang diễn ra.

After practicing for two or three days, one reaches the stage where one starts experiencing some sensation or the other—ordinary, physical sensations. Maybe heat, maybe perspiration, maybe throbbing, pulsing, vibrating, tingling, heaviness, numbness—something or the other is happening in that small area. Again, your guide will say, “Just observe; do nothing. Just observe. Don’t react. Just observe—taṭastha. Observe objectively.”

Sau khi thực hành hai hoặc ba ngày, một khi chạm đến được sự hướng dẫn nơi mà bắt đầu trãi qua một số cảm giác hoặc những cái khác-cảm giác bình thường, cảm giác về thể chất. Có thể nóng, có thể ra mồ hôi, có thể rộn ràng, mạch đập nhanh, lúc lắc, râm ran, nặng nề, tê cóng-vài thứ gì đó hoặc những cái khác đang diễn ra trong khu vực nhỏ đó. Lần nữa, người hướng dẫn của bạn sẽ nói, “ Chỉ quan sát; không làm gì. Chỉ quan sát. Không phản ứng. Chỉ quan sát- taṭastha. Quan sát một cách khách quan.”

Nature—the truth—has started revealing itself at a subtler level. Neither like nor dislike it; just observe. And observing its nature, you will notice that it arises, and sooner or later passes away. Then something else arises, and sooner or later it passes away. It is a changing phenomenon. It keeps arising, passing away, arising, passing away. On the third or fourth or fifth day, you will reach the stage where you will feel the entire physical structure, from the top of the head to the tips of the toes, full of sensations. And in a few days’ time—in some cases on the seventh or eighth or ninth day, in some cases not on the first course but on the second or third course—the entire solidity of the body gets dissolved. There is no imagination involved; this is the truth.

Tự nhiên-hiện thực-đã bắt đầu biểu lộ chính nó ở mức độ tinh tế. Không có gì thích hay không thích; chỉ quan sát. Và quan sát hiện thực tự nhiên, bạn sẽ thấy rằng nó xuất hiện, và sớm hay muộn sẽ trôi qua liên tục. Sau khi điều gì đó xuất hiện, và sớm hay muộn sẽ trôi qua liên tục. Nó là một hiện tượng đang thay đổi. Nó tiếp tục xuất hiện, trôi qua, xuất hiện, trôi qua. Vào lần thứ ba hoặc bốn hoặc năm trong ngày, bạn sẽ đến được nơi mà sẽ cảm thấy toàn bộ cấu trúc thể chất, từ đỉnh đầu đến gót chân, tràn đầy những cảm giác. Và trong thời gian vài ngày-trong một số trường hợp là vào lần thứ bảy hoặc tám hoặc lần thứ chín trong ngày, một số trường hợp không phải là khóa học đầu tiên mà là khóa học thứ hai hoặc khóa học thứ ba-toàn bộ trạng thái vững chắc của cơ thể được hòa tan. Không có sự tưởng tượng nào bao gồm; đây là hiện thực.

The great scientists of India, who were the enlightened people of our country, made an analytical study of the entire structure of mind and matter. They discovered that the body, although it appears to be very solid, is actually nothing but tiny particles, atoms. In the Indian language of twenty-five centuries ago, these tiny particles were called kalāpas. A kalāpa is the tiniest unit of the material world. The entire physical structure is nothing but a mass of tiny kalāpas, and they are arising, passing, arising, passing; constantly arising, passing, arising, passing. The enlightened people experienced this.

Những nhà khoa học vĩ đại của Ấn Độ, những người được giải thoát khỏi đất nước của họ, đã thực hiện một việc phân tích toàn bộ cấu trúc của tâm trí và thể chất. Họ đã khám phá rằng cơ thể, mặc dù nó xuất hiện với cấu trúc rắn chắc, thì thậm chí không có gì nhưng nhiều mẩu nhỏ, những nguyên tử. Trong ngôn ngữ Ấn Độ cách đây 25 thế kỷ, những mẩu nhỏ này được gọi là kalāpas. Một kalāpas là một đơn vị nhỏ nhất của vật chất trên thế giới. Toàn bộ cấu trúc thể chất là không có gì nhưng là một khối kalāpas nhỏ, và chúng xuất hiện, trôi qua, xuất hiện, trôi qua; liên tục xuất hiện, trôi qua, xuất hiện, trôi qua. Người đã được giải thoát có kinh nghiệm về điều này.

A modern scientist also says the same thing: “The entire material world is nothing but vibrations, vibrations, wavelets, wavelets. There is no solidity in the material world.” He says this because he has used his apparatus, his instruments and his intellect. But the scientists of our country understood by experience. And when they understood the truth by experience, this gave wonderful results: they became enlightened. They came out of all their miseries because they came out of all their defilements. You will understand this also as you progress further on the Path.

Nhà khoa học hiện đại cũng nói điều tương tụ: “toàn bộ vật chất trên thế giới không là gì nhưng có những sự chấn động, những rung lắc, những gợn sóng lăn tăn. Không có sự rắn chắc trong vật liệu trên thế giới. “ Nhà khoa học nói rằng bởi vì ông ấy đã sử dụng bộ máy của ông ấy, dụng cụ của ông ấy và trí tuệ của ông ấy. Nhưng các nhà khoa học của đất nước chúng tôi thấu hiểu bằng kinh nghiệm. Và khi họ đã hiểu hiện thực bằng trãi nghiệm, điều này đưa ra những kết quả tuyệt vời: họ trở thành người được giải thoát. Họ thoát khỏi tất cả nỗi khốn khổ của họ bởi vì họ đã thoát khỏi những tạp niệm của họ. Bạn sẽ hiểu điều này cũng như là bạn sẽ tiến xa trên con đường giải thoát. 

As you observe the realities from the gross to the subtler, subtler, subtlest level, layer upon layer of impurities will get peeled off, will get eradicted. As you reach a subtler level, you become purer. When you reach a still subtler level, you will become purer and purer. The subtlest reality of mind and matter will take you to the stage where the mind becomes totally pure. Only then can you transcend the field of mind and matter and experience something which is eternal: the truth. You can give it any name—you may call it liberation, or enlightenment, ornirvāṇa. These names have no meaning; you have to experience the truth yourself. And this experience of the truth is possible only when the mind becomes ultra-pure.

Như khi bạn quan sát các hiện thực từ mức độ không tinh tế đến mức độ tinh tế, lớp ở trên của những tạp niệm sẽ được tách ra, sẽ được phát xạ. Như khi bạn chạm đến mức độ tinh tế, bạn trở nên thanh khiết hơn. Khi bạn vẫn chạm đến mức độ tinh tế, bạn sẽ trở nên thanh khiết hơn và thanh tịnh hơn. Hiện thực tinh tế nhất của tinh thần và vật chất sẽ mang bạn đến nơi mà tâm trí trở nên hoàn toàn thanh tịnh. Chỉ sau khi bạn có thể vượt quá lĩnh vực tinh thần và vật chất và trãi nghiệm nào đó mà là bất diệt: đó là hiện thực. Bạn có thể đưa nó bất kỳ cái tên nào-bạn có thể gọi nó là sự giải phóng, hoặc sự giải thoát, hoặc nirvana. Những cái tên gọi này không có ý nghĩa gì; bạn phải trãi nghiệm hiện thực bởi chính bạn. Và trãi nghiệm này của hiện thực là có xảy ra chỉ khi tâm trí trở nên cực kỳ thanh tịnh.

To make the mind ultra-pure, you have to practice this exercise of observing the truth, from the gross to the subtle, from the gross to the subtle. A stage comes when you experience the entire physical structure as nothing but a mass of vibrations. Then the reality experienced by the Buddhas, the enlightened ones, becomes very clear to you. They announced:

Để làm tâm trí cực kỳ thanh tịnh, bạn phải thực hành bài học quan sát hiện thực này, từ không tinh tế đến tinh tế. Sự hướng dẫn khi bạn trãi nghiệm toàn bộ cấu trúc thể chất như là hư không nhưng là một khối của những rung động. Sau khi hiện thực được trãi nghiệm bởi Đức Phật, người đã được giải thoát, trở nên rất rõ ràng với bạn. Họ đã thông báo:

Sabbo pajjalito loko,Sabbo loko pakampito, pakampito.

Sabbo pajjalito loko,Sabbo loko pakampito, pakampito

-The entire universe is nothing but vibration, vibration, vibration: combustion and vibration, combusion and vibration. And you yourself realize this: “Yes, it is nothing but pakampito, pakampito: vibration. Combustion and vibration. Combustion and vibration. “

– Toàn bộ vũ trụ là hư không nhưng có sự rung động, rung động, rung động: sự đốt cháy và sự rung động, sự đốt cháy và sự rung động. Và chính bản thân bạn nhận ra điều này: “ Đúng, nó là hư không nhưng pakampito, pakampito: sự rung động. Sự đốt cháy và sự rung động. Sự đốt cháy và sự rung động.”

The entire universe is experienced within the framework of the body. The universe is the universe for you only when it comes into contact with your sense doors. The world of sound is the world of sound for you only when it comes to your ear sense door. For somebody who is deaf, deaf from birth, there is no world of sound. For somebody who is blind, blind from birth, there is no world of shape or colour or light. So the universe comes into contact with these five sense doors—eyes, ears, nose, tongue, body skin. Through these five sense doors, you understand that “This is the world” and “This is the universe.” And when there is no contact with any of these five, because of your past experience, there is contact with the sense door of the mind. This is the sixth sense door.

Toàn bộ vũ trụ được trãi nghiệm chỉ trong cơ thể. Vũ trụ là vũ trụ cho bạn chỉ khi nó bước vào trong mối liên hệ với các giác quan của bạn. Thế giới âm thanh là thế giới âm thanh của bạn chỉ khi nó bước vào thính giác của bạn. Với những ai bị khiếm thính, khiếm thính bẩm sinh, không có thế giới âm thanh cho họ. Với những ai bị khiếm thị, khiếm thị bẩm sinh, không có thế giới hình dạng hay màu sắc hay ánh sáng cho họ. Vì vậy vũ trụ có mối liên hệ với năm giác quan-mắt, tai, mũi, giọng nói, làn da. Xuyên qua năm giác quan này, bạn hiểu rằng “Đây là thế giới” và “Đây là vũ trụ.” Và khi không có mối liên hệ với năm giác quan này, bởi vì những trãi nghiệm trong quá khứ của bạn, sẽ có mối liên hệ với giác quan trong tâm trí. Đây là giác quan thứ sáu.

A stage comes when you experience the entire physical and mental structure as vibration, vibration, vibration. If a sound has come into contact with your ear, you will notice that the sound also is vibration, vibration. The ear sense door is vibration, vibration. The sound is vibration, vibration, and as soon as it has come into contact, a new vibration has started, a new vibration throughout the body, not merely at the sense door. It is similar to when a gong is struck, and the entire gong starts vibrating. A sound has come into contact with the ear sense door, a vision has come into contact with the eye sense door, a smell has come into contact with the nose sense door, a taste has come into contact with the tongue sense door, something tangible has come into contact with the body sense door, or a thought has come into contact with the mind sense door—then there is vibration, vibration. Neutral vibration.

Nơi diễn ra khi bạn trải nghiệm toàn bộ cấu trúc thể chất và cấu trúc tinh thần như sự rung động, sự rung động, sự rung động. Nếu một âm thanh có liên hệ với tai của bạn, mà sẽ biết răng âm thanh cũng là sự rung động. Thính giác là sự rung động. Âm thanh là sự rung động, và sớm thôi nó sẽ đi đến mối liên hệ, một rung động mới đã bắt đầu, một rung động mới xuyên suốt cơ thể, không chỉ ở các giác quan. Nó tương tự như khi một cái cồng được đánh vào, và toàn bộ cái cồng bắt đầu rung động. Một âm thanh đã có liên hệ với thính giác, một hình ảnh có liên hệ với thị giác, một mùi có liên hệ với khứu giác, sự nếm có liên hệ với vị giác, một cái gì đó hữu hình có liên hệ với giác quan của cơ thể, hoặc một suy nghĩ có liên hệ với giác quan thứ sáu của tâm trí-lúc đó có sự rung động. Sự rung động không rõ nét.

If you are a good Vipassana meditator, if you are a good research scholar, you will notice that as soon as a sound has come into contact with the ear, a vibration has started. Immediately a part of the mind will cognize: “Look, something has happened at the ear sense door.” Or: “Something has happened at the eye sense door,” or nose sense door, etc. The job of this part of the mind is to cognize that something has happened.

Nếu bạn là một thiền sinh Vipassana giỏi, nếu bạn là một học giả nghiên cứu giỏi, bạn sẽ biết rằng sớm thôi một âm thanh sẽ có liên hệ với tai, một sự rung động đã bắt đầu. Ngay tức thì một phần của tâm trí sẽ nhận thức: “ Nhìn kìa, một điều gì đó bắt đầu diễn ra ở thính giác.” Hoặc: “ Điều gì đó đã diễn ra ở thị giác.” Hoặc thính giác, và còn vài thứ khác. Việc của phần tâm trí này là nhận thức rằng điều gì đó đã diễn ra.

Immediately another part of the mind will raise its head, and ask, “What has happened? What has happened at the ear sense door? A sound has come. What sound? Oh, these are words. What kind of words? Words of praise, or words of abuse.” This is the job of the second part of the mind: to recognize what has come into contact with the sense door—and not only to recognize, but also to evaluate it. “Words of abuse—very bad! Words of praise—wonderful!” This part of the mind recognizes and gives an evaluation.

Ngay lập tức phần khác của tâm trí sẽ xuất hiện trong đầu, và hỏi, “ Điều gì đã diễn ra? Điều gì đã diễn ra ở thính giác? Một âm thanh đã tác động vào. Âm thanh gì? Ồ, có nhiều từ ngữ. Những loại từ gì? Từ ngữ chỉ sự ca ngợi, từ ngữ chỉ sự lăng mạ. “ Đây là phần việc của phần thứ hai của tâm trí: nhận ra điều gì đã liên hệ với giác quan-và không chỉ nhận ra, mà cũng là đánh giá nó. “ Những từ ngữ chỉ sự lăng mạ-rất tồi tệ! Những từ ngữ chỉ sự ca ngợi-tuyệt vời!” Phần này của tâm trí nhận ra và đưa ra sự đánh giá.

And as soon as an evaluation is given, you will notice that the neutral vibration which started throughout the body starts changing. If the evaluation was given that the words are words of praise (“Ah, wonderful!”), you will notice that the vibrations throughout the body have become very pleasant. If the evaluation was given that these words are words of abuse (“Very bad”), you will notice that the vibrations are very unpleasant. Very unpleasant. The third part of the mind has started feeling the vibrations, pleasant or unpleasant.

Và sớm thôi khi sự đánh giá được đưa ra, bạn sẽ biết rằng sự rung động không rõ nét bắt đầu xuyên suốt cơ thể làm nó thay đổi. Nếu sự đánh giá được đưa ra rằng những từ ngữ là những từ chỉ sự ca ngợi (“À, tuyệt vời!”), bạn sẽ thấy rằng những sự rung động xuyên suốt cơ thể sẽ trở nên rất dễ chịu. Nếu sự đánh giá được đưa ra là những từ ngữ chỉ sự lăng mạ (“Rất tồi tệ”), bạn sẽ thấy rằng những rung động là không dễ chịu. Rất không dễ chịu. Phần thứ ba của tâm trí sẽ bắt đầu cảm thấy những rung động, dễ chịu hoặc không dễ chịu.

Immediately the fourth part of the mind will raise its head, and say: “Pleasant vibrations. Ah, wonderful! I want more! This is praise. I want more, I want more!” At the apparent level it appears that what you like is the praise, but actually what you are liking is the pleasant sensations. Or it appears that you are hating the abuse: “I don’t like this abuse!” Actually you are hating the vibrations, the unpleasant vibrations within you. The fourth part of the mind is the part which reacts.

Ngay tức thì phần thứ tư của tâm trí sẽ xuất hiện chúng trong đầu, và nói: “Những rung động dễ chịu. À, tuyệt vời! Tôi muốn có thêm nữa! Đây là sự ca ngợi. Tôi muốn thêm, tôi muốn thêm!” Ở bề ngoài của mức độ nó xuất hiện là những điều gì bạn thích là sự ca ngợi, nhưng thực ra những gì bạn đang thích là những cảm giác dễ chịu. Hoặc nó xuất hiện là bạn đang ghét sự lăng mạ: “ Tôi không thích sự lăng mạ này!” Thực sự bạn đang ghét những rung động, những rung động không dễ chịu với bạn. Phần thứ tư của tâm trí là phần phản ứng.

It becomes so clear that it is all mind and matter: how matter is influencing the mind, and how the mind is influencing matter. How matter originates because of the mind. How the mind originates because of matter. How matter changes into mind. How mind changes into matter. The entire phenomenon becomes so clear, so clear. This is what the scientists, the great saints of India discovered. But we got involved with these organized religions, these philosophies, beliefs, dogmas, cults, rites and rituals, and forgot the real Dharma.

Nó trở nên rất rõ ràng rằng nó là tất cả tâm trí và thể chất: vật chất đang ảnh hưởng như thế nào đến tâm trí, và tâm trí đang ảnh hưởng như thế nào đến thể chất. Tâm trí bắt đầu như thế nào bởi thể chất. Thể chất làm thay đổi tâm trí. Tâm trí làm thay đổi thể chất. Toàn bộ hiện tượng trở nên rất rõ ràng. Đó là những ì những nhà khoa học, những vị thánh vĩ đại của Ấn Độ đã khám phá ra. Nhưng chúng ta bị đòi hỏi bởi những tổ chức tôn giáo, những triết lý, những niềm tin, những giáo điều, những sự tôn thờ, những nghi thức và những gì thuộc về nghi lễ, và quên mất Phật giáo chân chính.

I was born and brought up in a very staunch Hindu family, and it is good that I was born there. I used to recite Gītā like most of you are probably reciting. For me it was just recitation, mere recitation without understanding what I was reciting. The meaning, the real meaning was totally lost. Without understanding it, we used to recite a verse of the Bhagavad Gītā in Sanskrit, which describes Vipassana:

Utkrāmantam sthitam vā pi bhuñjānam vā guṇānvitam, Vimūḍhā nānupaśyanti paśyanti jñānacakśuśa.

Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình Hindu trung thành, và nó thật tốt vì tôi đã sinh ở đó. Tôi thường đọc thuộc lòng Gita như hầu hết các bạn chắc hẳn đang đọc thuộc. Với tôi nó chỉ là sự đọc thuộc lòng, chỉ đọc thuộc lòng mà không hiểu những gì tôi đang đọc thược. Ý nghĩa, ý nghĩa thật sự đã hoàn toàn biến mất. Không hiểu nó, chúng ta thường đọc thuộc đoạn thơ của Bhagavad Gītā bằng tiếng Phạn, nó mô tả Vipassana:

Utkrāmantam sthitam vā pi bhuñjānam vā guṇānvitam, Vimūḍhā nānupaśyanti paśyanti jñānacakśuśa

-This describes utkrāmantam—the part of the mind that perceives that something or the other has happened at some sense door:utkrāmantam. Sthitam: the second part tries to recognize what has happened—sthitam. Then with this recognition, a sensation starts, pleasant or unpleasant. And bhuñjānam, bhuñjānam—one starts tasting it; liking it or disliking it. And guṇānvitam, guṇānvitam—it multiplies. This is how one starts creating more and more bondage, more and more bondage. Vimūḍhā nānupaśyanti, paśyanti jñānacakśuśa: one cannot practice Vipassana unless one gets the eyes of wisdom. And the eyes of wisdom will come when you practice the truth.

– Điều này mô tả utkramantam-phần tâm trí mà cảm nhận rằng điều gì đó hoặc điều khác đã diễn ra tại một số giác quan: utkrāmantam. Sthitam: phần thứ hai cố gắng để nhận ra điều gì đã xảy ra-sthitam. Sau đó với sự ghi nhận này, một giác quan khác bắt đầu, dễ chịu hoặc không dễ chịu. Và bhunjanam, bhunjanam-bắt đầu nếm nó; thích nó hoặc không thích nó. Và guṇānvitam, guṇānvitam -nó tăng thêm. Đây là cách làm thế nào nó bắt đầu tạo ra ngày càng nhiều hơn tình trạng nô lệ, ngày càng nhiều hơn trình trạng bị đàn áp và lệ thuộc. Vimūḍhā nānupaśyanti, paśyanti jñānacakśuśa: không thể thực hành Vipassana mà không có sự sáng suốt. Và tư tưởng sáng suốt sẽ đến khi bạn thực hành hiện thực.

If you give a veneer, a colour, of some kind of belief, dogma or imagination while you are practicing concentration of the mind, then you can’t understand what is really happening. Just be with the truth—the truth of mind and matter and how they are interacting—and everything will become clearer and clearer.

Nếu bạn đưa một vỏ ngoài, một màu sắc của một số tín ngưỡng, giáo điều hoặc sự tưởng tượng khi bạn đang thực hành sự tâm trung tâm trí, lúc bấy giờ bạn không thể hiểu điều gì đang thực sự diễn ra. Chỉ cần với hiện thực-hiện thực của tinh thần và thể chất và sự ảnh hưởng qua lại giữa chúng-và mọi thứ sẽ trở nên rõ ràng hơn.

At a higher stage, a time comes when it becomes very clear to a Vipassana meditator why one becomes miserable, and how this misery multiplies. For example, someone has abused me, and I have generated anger. If I am a good Vipassana meditator, as soon as I have generated anger, I will notice that a biochemical flow starts in the body. This biochemical flow was called āśrava in the ancient Indian language. Because this biochemical flow is the result of anger, it is very unpleasant. Then, because this flow is very unpleasant, I get very unpleasant sensations. And when I get very unpleasant sensations, I again react with anger. And when I react with anger, again a very unpleasant flow starts. This very unpleasant flow happens, and again I react with anger. A vicious circle has started. For hours on end, I keep rolling in anger. At the apparent level, it appears that I am generating anger because someone has abused me. But this is just the apparent truth. The actual truth is that a biochemical reaction has started within myself, and I am reacting to that biochemical flow.

Ở một tầm cao hơn, thời điểm đến khi nó trở nên rất rõ ràng cho thiền sinh Vipassana tại sao nó trở nên khốn khổ, và làm thế nào sự khốn khổ tăng thêm. Ví dụ, một ai đó lăng mạ tôi, và tôi tạo ra sự giận dữ. Nếu tôi là một thiền sinh Vipassana giỏi, sớm thôi khi tôi sẽ tạo ra sự giận dữ, tôi sẽ biết rằng các phản ứng hóa sinh bắt đầu lưu thông trong cơ thể. Các phản ứng hóa sinh đang lưu thông này gọi là āśrava trong ngôn ngữ cổ của Ấn Độ. Bởi vì các phản ứng hóa sinh đang lưu thông này là kết quả của sự giận dữ, nó rất không dễ chịu. Vì vậy, sự lưu thông này là rất không dễ chịu, tôi nhận được những cảm giác không dễ chịu, tôi lại phản ứng với sự giận dữ lần nữa. Và khi tôi phản ứng với sự giận dữ, lần nữa những sự khó chịu lại tiếp tục lưu thông. Những khó chịu này lưu thông, và lần nữa tôi lại phản ứng với sự giận dữ. Một vòng lẩn quẩn bắt đầu. Kéo dài cả nhiều giờ cho đến khi kết thúc, tôi vẫn giữ sự giận dữ. Ở mức độ bề ngoài, nó xuất hiện là tôi đang tạo ra sự giận dữ bởi vì ai đó đã lăng mạ tôi. Nhưng nó chỉ là bề ngoài của hiện thực. Thật sự là phản ứng hóa sinh bắt đầu trong cơ thể tôi, và tôi phản ứng lại sự lưu thông của các phản ứng này.

The enlightened people of our country discovered the way to come out of this vicious circle. How can we come out of it? Just observe the biochemical reaction that has started. Observe the particular sensation that has started. Whenever we generate anger, passion, fear—any impurity—a biochemical reaction pertaining to that particular impurity will start in the body. And when we observe it, observe it without reacting to it, we don’t multiply the reaction. As the process of multiplication stops, the reaction slowly gets eradicated, and we start coming out of it. We have not suppressed it, we have not diverted the mind to something else: we are facing the truth as it is and coming out of it, coming out of reaction.

Người đã được giải thoát của đất nước chúng tôi khám phá ra cách để thoát khỏi vòng tròn lẩn quẩn này. Làm thế nào chúng ta có thể thoát khỏi nó? Chỉ quan sát các phản ứng hóa sinh khi nó bắt đầu. Quan sát cảm xúc cá biệt khi nó bắt đầu. Bất cứ khi nào chúng ta tạo ra sự giận dữ, mê đắm, sợ hãi-bất kỳ tạp niệm nào-một phản ứng hóa sinh gắn liền vời tạp niệm cá biệt sẽ bắt đầu trong cơ thể. Và khi chúng ta quan sát nó, quan sát mà không phản ứng lại nó, chúng ta không tăng thêm sự phản ứng. Như là tiến trình của sự tăng thêm dừng lại, sự phản ứng chậm lại đến khi bị trừ tiệt, và chúng ta bắt đầu thoát khỏi nó. Chúng ta phải dẹp tan nó, chúng ta phải xao lãng nó khỏi tâm trí: chúng ta đang phủ ngoài hiện thực như nó là và thoát khỏi nó, thoát khỏi sự phản ứng.

It is so scientific, so rational, so result-oriented. It has nothing to do with Hinduism, Buddhism, Islam or Christianity. It is the law, the law of nature. No conversion is involved. One should understand this. There is a very wrong impression that by practicing Vipassana, one will become a Buddhist, or a Jain, or something else. Vipassana has nothing to do with that.

Nó rất là khoa học, rất hợp lý, rất có định hướng. Nó không phải làm gì với đạo Hindu, đạo Phật, đạo Hồi hoặc đạo Cơ Đốc. Nó là quy luật, quy luật của thiên nhiên. Không có sự chuyển đổi nào được bao hàm. Nên hiểu điều này. Có một cảm tưởng rất sai rằng khi thực hành Vipassna, sẽ trở thành Đức Phật, hoặc một Jain, hoặc một vị nào đó. Vipassana không liên quan gì đến điều đó.

A few centuries ago, someone by the name of Galileo discovered that the flat looking-earth is not flat: it is round, and it rotates on its own axis. Some believed this, some didn’t believe it. Gradually everybody started believing it. When you start believing this truth, you don’t convert yourself to any religion. You don’t become Muslim, Hindu, Christian, Jew or Buddhist.

Cách đây vài thế kỷ, ai đó với tên Galileo đã khám phá ra rằng sự vẻ bằng phẳng của trái đất như ta nhìn thấy thật ra không bằng phẳng: nó tròn, và nó quay quanh trục của nó. Một số người tin điều này, một số không tin. Tuần tự mọi người bắt đầu tin vào điều này. Khi bạn bắt đầu tin vào sự thật này, bạn không chuyển đổi mình sang bất kỳ tôn giáo nào. Bạn không thành người Hồi giáo, Hindu, Cơ Đốc giáo, Do Thái hay Phật giáo.

Some time ago somebody by the name of Newton discovered that there is a law of gravity. People gradually accepted it, but they didn’t become converted from one religion to another religion. Similarly, scientists, the enlightened people of India, found out how this mind and matter works: how we react; how, because of our ignorance we keep multiplying our misery by multiplying our impurity, and how we can come out of it. If we accept this, and work on it, we can come out of it.

Cách đây một thời gian ai đó tên Newton đã khám phá ra định luật trọng lực. Người ta dần dần chấp nhận nó, nhưng họ không chuyển đổi từ tôn giáo này sang tôn giáo khác. Tương tự vậy, các nhà khoa học, những người đã được giải thoát của nước Ấn Độ, đã tìm ra cách tâm trí và thể chất hoạt động: chúng ta phản ứng như thế nào, bởi vì sự dốt nát của chúng ta làm chúng ta tăng thêm nỗi khốn khổ bằng cách tăng thêm tạp niệm của chúng ta, và làm thế nào chúng ta có thể thoát khỏi nó. Chúng ta chấp nhận nó, và hoạt động cùng nó, chúng ta có thể thoát khỏi nó.

Of course, conversion is involved, but the conversion is from misery to happiness, from bondage to liberation, from ignorance to enlightenment, not from one organized religion to another organized religion. Vipassana is a wonderful technique of our country. We should be proud of it.

Dĩ nhiên, sự chuyển đổi được bao hàm, nhưng sự chuyển đổi từ nỗi khốn khổ sang niềm hạnh phúc, từ sự nô lệ sang sự giải phóng, từ sự dốt nát sang sự sáng tỏ, không phải từ một tổ chức tôn giáo sang một tổ chức tôn giáo khác. Vipassana là một kỹ thuật tuyệt vời của đất nước chúng tôi. Chúng tôi tự hào về nó.

It is very unfortunate that we lost this technique for two thousand years. It is very fortunate that a neighbouring country maintained it in its pristine purity, from Teacher to pupil, from Teacher to pupil, from generation to generation. Although only very few people maintained it, they did maintain it. That is why we are getting it back now. Make use of this wonderful heritage of India, the wonderful discovery of our country. Make use of it—in your own interest, and in the interest of so many others.

Nó rất là đáng tiếc rằng chúng ta đã đánh mất kỹ thuật này từ cách đây hai ngàn năm. Nó rất may mắn rằng đất nước láng giềng đã duy trì nó nguyên trạng thuần khiết, từ Giảng viên đến học viên, từ Giảng viên đến học viên, từ thế hệ đến thế hệ. Mặc dù chỉ vài người đã duy trì nó, họ đã duy trì nó. Đó là lý do vì sao chúng ta đang đem nó trở lại bây giờ. Sử dụng di sản tuyệt vời này của Ấn Độ, một khám phá tuyệt vời của đất nước chúng tôi. Sử dụng nó-trong sự quan tâm của chính bạn, và trong sự quan tâm của nhiều  người khác.

May these three days of Dharma talks not become just another subject of intellectual entertainment. You can go to different places to listen to discourses, to entertain your mind and to entertain your intellect. Don’t make these Dharma talks an intellectual entertainment. Give this technique a trial. Work on it. Experience it. Spare ten days of your life to learn this science of India and see what is happening within yourself. See how the mind and matter react and how they keep influencing each other. See how misery arises, how it multiplies, and how it can be totally eradicated. Make use of it for your own good, for your own benefit, for your own liberation.

Nguyện cho ba ngày của buổi pháp thoại Dharma không trở thành chủ đề khác của sự thết đãi trí tuệ. Bạn có thể đi đến những nơi khác để nghe những khóa học, để thết đãi tâm trí bạn và thết đãi trí tuệ của bạn. Đừng làm những buổi pháp thoại này trở thành sự giải trí tinh thần. Cho kỹ thuật này như một sự thử thách. Làm việc với nó. Trãi nghiệm nó. Hơn mười ngày của cuộc đồi để học kỹ năng này của Ấn Độ và nhìn thấy điều gì đã xảy ra với chính bạn. Nhìn thấy tâm trí và thể chất phản ứng và chúng tiếp tục ảnh hưởng lẫn nhau. Nhìn thấy nỗi khổ xuất hiện như thế nào, tăng thêm như thế nào, và nó có thể bị trừ tiệt như thế nào. Sử dụng nó cho sự tốt đẹp của chính bạn, cho lợi ích của chính bạn, cho sự giải thoát của chính bạn.

May all of you find time to give a trial to this wonderful technique and come out of your misery. May all of you enjoy real peace, real harmony, real happiness; real happiness, real happiness.

Nguyện cho tất cả các bạn tìm được thời gian để đưa ra thử thách cho kỹ thuật tuyệt vời này và thoát khỏi nỗi khổ của bạn. Nguyện cho tất cả các bạn tận hưởng được bình yên thật sự, hòa hợp thật sự, hạnh phúc thật sự.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *