FAQ: Cuộc phỏng vấn Thiền Sư S.N. Goenka: Thiền vipassana một ngành khoa học, quan điểm của thiền sư Goenka về Phật giáo và tôn giáo.

Mặc dù thiền sư S.N.Goenka đã dạy thiền Vipassanā trong hơn ba mươi năm, nhưng nếu bạn hỏi ông có phải là một Phật tử không, câu trả lời sẽ là, “Không”. Goenkaji nói với Buddhadharm29 về kỹ thuật Vipassanā và quan niệm của ông về Phật giáo và các tôn giáo khác?

Vâng, Lời dạy nguyên thủy của Đức Phật bằng ngôn ngữ Pāḷi và kỹ thuật thiền vipassanā đã được duy trì trong năm trăm năm (sau Đức Phật nhập diệt). Sau đó cả hai đều bị thất lạc ở Ấn Độ. Có mười lăm ngàn trang giấy ghi lại những lời dạy của Đức Phật và khoảng ba mươi ngàn trang chú giải. Nhưng chẳng còn một tờ nào ở Ấn Độ, vì thế kỹ thuật đã hoàn toàn bị thất truyền.

Khi tôi đi đến thầy tôi (thiền sư U.Ba.Khin), một người Miến, ngài nói với tôi, “Tôi sẽ dạy cho ông một kỹ thuật thiền rất cổ xưa của đất nước ông, gọi là ‘Vipassanā’. Thú thật tôi chưa bao giờ nghe nói đến từ đó. Vipassanā, đó là cái gì? Tôi về nhà và đọc kỹ cuốn tự điển Hindi của tôi – chữ ấy không có ở đó. Tôi lại tìm trong tự điển Sanskit cũng không thấy chữ đó. Vì thế ngay cả cái từ “Vipassanā” cũng đã mất dấu khỏi xứ sở.

Các vị Phật trước, nói chung ba đời chư Phật, đều thành Phật với việc thực hành Vipassanā. Do vì có một khoảng cách lớn giữa vị Phật trước và vị Phật kế, kỹ thuật Minh Sát bị thất lạc đi. Từ (Vipassanā) còn đó và nó tiếp tục trôi chảy với dòng ngôn ngữ trong các truyền thống khác. Tuy thế ý nghĩa của nó lại lạc mất, vì lý do đó kỹ thuật kể như thất truyền.

Ngài nói đến Vipassanā như một khoa học thuần túy. Tại sao vậy?

Đối với tôi, Đức Phật là một nhà khoa học vĩ đại. Ngài đã khám phá ra cái bị thất lạc, cái mà người ta đã quên.Trong khoa học, không có niềm tin mù quáng, không có sự tin tưởng mù quáng. Bạn thí nghiệm với các mẫu vật. Nếu nhiều người thí nghiệm và có được cùng một kết quả, họ chấp nhận nó. Hơn nữa, Đức Phật vẫn nói, “Có Đức Phật hay không có Đức Phật, quy luật tự nhiên hay Pháp (Dhamma) luôn luôn thường tại.” 

29 Buddhadharma (hay buddhadhamma) một tạp chí Phật giáo ra ba tháng hay mỗi quý một kỳ. Địa chỉ http:/www.thebuddhadharma

Quy luật tự nhiên vẫn như vậy. Nếu bạn phát ra sân hận, nhất định bạn phải bị đau khổ. Nếu bạn phát ra sự bình yên, từ ái và bi mẫn, bạn chắc chắn sẽ có bình yên và hòa hợp. Quy luật này luôn luôn như thế, trước và sau Đức Phật đều vậy.

Ngài có thể giải thích về kỹ thuật Vipassanā mà ngài dạy, vì dường như rằng những điều ngài dạy có vẻ khác với các văn hóa và truyền thống khác?

Trước khi tôi đưa ra một sự giải thích về những gì tôi đang dạy, có một điểm cần phải được sáng tỏ: Tôi không phải ở đây để chỉ trích bất cứ một kỹ thuật nào hay để so sánh, đối chiếu với bất cứ một kỹ thuật nào đã được người ta dạy nhân danh Vipassanā. Tôi chỉ dạy những gì tôi nhận được từ truyền thống

Toàn bộ kỹ thuật là nhằm khảo sát thực tại ở mức kinh nghiệm, trong tự thân. Trong kỹ thuật này, điều hết sức quan trọng là người ta phải ở lại trong một nơi thích hợp, ở đây họ có thể hành thiền với ít sự khuấy động nhất. Nếu người ta liên hệ với những đối tượng bên ngoài, họ không thể nào đi vào chiều sâu của tâm được.

Tính liên tục của việc thực hành cũng rất quan trọng. Ngày nay chúng tôi yêu cầu những người hành thiền phải ở lại tối thiểu là mười ngày trong một nơi mà họ có thể nhận được sự hướng dẫn từ một vị thầy có kinh nghiệm; các thiền sinh trước đây chúng tôi đòi hỏi phải trải qua sáu tuần học kỹ thuật này.

Mọi người phải giữ năm giới: không sát sanh, không trộm cắp, không hành dâm, không nói dối hoặc nói những lời thô lỗ, và không uống bất kỳ một loại chất gây say nào. Các giới này không phải là một hình thức lễ nghi hay nghi thức; mà chúng là một phần của kỹ thuật Minh sát. Đức Phật nhận ra – một hành giả Vipassanā tốt cũng sẽ nhận ra – rằng khi bạn phạm một trong những giới này, bạn chỉ làm vậy sau khi đã phát ra một bất tịnh hay phiền não trong tâm. Những bất tịnh này cũng giống như những sóng cao tần ngăn không cho bạn đi vào chiều sâu của tâm.

Sau khi thọ trì ngũ giới bạn bắt đầu luyện cho tâm đi vào sự tập trung. Đức Phật nói về tâm tán loạn, vikkhitta-citta, và tâm thâu nhiếp hay nhất tâm, sankhitta-citta. Ngài muốn chúng ta làm việc với tâm thâu nhiếp, và đề có được tâm thâu nhiếp chúng ta cần phải tập trung trên một vùng nhỏ. Ngài cũng nói rõ rằng vùng tập trung ban đầu phải là cửa mũi. Nhưng cửa mũi thì có nhiều vùng: Phần trước của mũi, vùng giữa mũi và môi trên, v.v… Điều này sau đó đã được các nhà chú giải làm cho rõ thêm rằng chỗ tập trung sự chú ý ban đầu phải là ở phần giữa trên môi trên (uttara-otthassa-vemajjappadese) hay ở chót mũi (nasikagge). Sự chú ý phải là ở trên vùng nhỏ này. Nếu sự chú ý bị phân tán thì đó là vikkhitta-tán loạn; chứ không phải là sankhitta-thâu nhiếp. Tâm phải được tập trung trên một điểm (nhất điểm tâm).

Đức Phật dạy chúng ta nên tập trung vào sự hay biết (niệm) hơi thở trên vùng nhỏ này. Thực ra có nhiều đối tượng có thể giúp chúng ta tập trung tâm, song ý kiến đưa ra ở đây không phải là sự tập trung đơn thuần thôi. Tập trung là cần thiết cho tất cả các bước chúng ta bước trên đạo lộ, song tập trung không phải là cứu cánh; nó chỉ là một trợ giúp để khởi sự. Mục đích cuối cùng là tịnh hóa toàn bộ tâm.

Nhờ tập trung sự chú ý trên hơi thở, tâm trở nên rất sắc bén, rất nhạy cảm, đến độ có thể nhập, có thể chọc thủng. Nó có thể cảm giác được các cảm thọ nơi phần giữa trên môi trên, và rồi cuối cùng (cảm giác) các cảm thọ ở khắp toàn thân. Trong ba ngày bạn phải làm việc trên vùng nhỏ này chỉ với hơi thở. Giây phút bạn bắt đầu thêm một cái gì vào đó thì liền có một sự nguy hiểm là tâm sẽ hướng sang một sự niệm thầm hay hình dung hay tưởng tượng dị biệt nào đó. Những điều này có thể giúp bạn dễ định tâm, song bạn lại mất đi sự tiếp xúc với thực tại gắn liền với các hiện tượng tâm-vật chất hay danh và sắc của chính bạn bởi vì bạn không còn làm việc với sự thực – và Đức Phật muốn chúng ta phải sống với sự thực. 

Tôi thu thập từ một số bài nói chuyện của ngài và thấy rằng ngài không chấp nhận việc dùng các từ “Phật Giáo” (Buddhism) hoặc “Phật tử” (Buddhist). Vì sao?

Khi người ta hỏi tôi, “Ngài đã cải hóa được bao nhiêu người sang đạo Phật rồi?” Tôi trả lời, “Không một người nào cả. Chính bản thân tôi cũng không cải đạo.” Họ nói, “Vậy ngài không dạy đạo Phật? Ngài không phải là Phật tử sao?” Tôi nói, “Không, tôi không dạy đạo Phật. Tôi không phải là một Phật tử.” Ở Miến Điện (Myanmar), quê hương của tôi, các vị sư mới đầu cũng rất bực tức về chuyện này. Họ nói, “Cái ông này đã học (thiền) nơi chúng ta thế mà bây giờ ông lại muốn dạy cái riêng của ông ấy. Ông ta không phải là một Phật tử. Ông quả là con người vô ơn.” Họ thực sự bị sốc.

 

May thay vị tổng thống trước đây (của Miến Điện) đã đến dự một khóa thiền ở Ấn Độ và ông thấy rằng mọi điều tôi dạy đều hợp theo lời của Đức Phật. Ông ta rất thỏa mãn và nhất là đã đạt được một kết quả khả quan từ việc thực hành đến nỗi không cầm được những giọt nước mắt.

Khi ông trở về nước, ông nói với nội các, “Người ta đã nói những lời chống đối ông Goenka, nhưng những gì ông đang dạy lại là lời dạy thuần túy của Đức Phật.”

Chính phủ Miến đã mời tôi đến để bàn luận với các vị chức sắc trong giáo hội lý do tại sao tôi không dùng chữ “Phật Giáo”. Tôi nói với họ rằng những từ “Phật Giáo” và “Phật tử” không có trong kinh điển Pāḷi. Trong toàn bộ những lời dạy của Đức Phật và cả trong chú giải, chữ Boddh – tương đương với chữ “Phật giáo” – không có. Đức Phật chỉ dạy Pháp – Dhamma. Dhamma có nghĩa là quy luật tự nhiên, là sự thực. Những ai theo pháp đó thì được gọi là dhammiko (người hành theo chánh pháp- chánh pháp giả). Nếu Đức Phật chưa từng bắt một ai làm Phật tử (Buddhist), tôi là ai mà lại bắt người khác làm Phật tử? Nếu Đức Phật không dạy Đạo Phật (Buddhism) tôi là ai mà dám dạy đạo Phật? Đức Phật dạy Pháp-Dhamma, tôi cũng dạy Pháp. Đức Phật làm cho người ta thành người hành theo chánh pháp – dhammiko; tôi cũng gọi người ta là dhammiko.

Trong hai ngày đầu, họ nói, “Không, chúng tôi không thể tin chuyện đó. Để chúng tôi thẩm tra lại. Chắc chắn phải có một từ để chỉ Phật Giáo-Buddhism.” Sau hai ngày, họ nói, “Không, không có chữ ấy; ông đúng.”

Ngài nói rằng người ta ai cũng có thể thực hành Vipassanā bất kể họ là người Thiên Chúa hay người Hồi giáo, hay Phật giáo. Nhưng trong thực tế liệu tôn giáo có thể là một trở ngại cho việc trao đổi pháp hành này không?

Một số người rất cố chấp vào tín ngưỡng của họ, và nếu tôi nói, “Trước tiên hãy thay đổi tín ngưỡng của bạn đi đã rồi hãy đến với tôi,” ai mà chịu đến với tôi? Sẽ không một ai đến với tôi cả. Do đó, tôi nói, “Cứ giữ lấy tín ngưỡng của bạn và làm việc (thực hành).” Khi họ thực hành, họ nhận ra, “Đây là sự thực (chân lý) và tín ngưỡng của ta còn rất xa sự thực.” Lúc đó, họ tự động thoát khỏi sự cố chấp ấy. Họ có thể không chỉ trích tín ngưỡng cũ, và tôi cũng không muốn một ai làm điều này, vì tôi không chỉ trích một tín ngưỡng nào cả. Nhưng sự thực vẫn là sự thực, nó trở nên rõ ràng: “Đây là sự thực.” Vì thế vấn đề đã được giải quyết.

Sự thực (chân lý) là như nhau đối với mọi người, dù cho họ là một người Thiên Chúa hay Tin Lành hay một người Hồi giáo. Điều đó không làm khác đi được. Sự thực là sự thực.

Liệu tôn giáo có tổ chức có thích hợp với sự thực mà ngài đang nói về không?

Lúc đầu đứa trẻ nào cũng có thể gặp khó khăn trong việc tự đi vì thế chúng cần dựa vào một vật gì đó để tập đi. Nhưng khi chúng đã tự mình đi được rồi thì chúng liền quăng những vật ấy đi. Tất cả những cái vỏ tôn giáo là cần thiết đối với con người, bởi vì họ không thể đi mà không có chúng. Nhưng, khi họ có được sức mạnh trong Pháp, họ quăng bỏ cái vỏ ấy đi. Tôi không bảo họ, “Quăng nó đi,” Họ tự ý quăng nó. Những cái vỏ ấy chỉ thích hợp lúc ban đầu, khi họ còn là những đứa trẻ thơ ở lớp mẫu giáo. Nhưng sau đó, họ không cần chúng nữa.

Tôi nghĩ một số người sẽ phản ứng mạnh mẽ khi ngài nói rằng tôn giáo của họ giống như là lớp mẫu giáo.

Đó là lý do vì sao tôi không thể đi quanh và la lớn rằng tôn giáo của các ông là lớp mẫu giáo. Tôi không la lên như thế. Tôi không nói, “Hãy chấp nhận điều này bởi vì tôi nói vậy.” Khi họ thực hành, họ sẽ thấy, “Ồ, cái này giúp ích cho tôi thật, nhưng bây giờ nó không còn cần thiết nữa.” Một đứa bé bú sữa, và còn phải có người dỗ dành. Tất nhiên khi còn là một đứa bé phải để cho nó bú như vậy nhưng không phải suốt cả đời.

Như vậy, theo quan điểm của ngài, Đạo Phật là gì?

Dhamma (Pháp), lối sống, quy luật tự nhiên, là phổ quát. Bản chất của lửa là đốt cháy. Đây là Pháp; đây là điều tự nhiên của lửa. Liệu bạn có thể bảo rằng đây là Phật Pháp (Buddhist Dhamma) hay Thiên Chúa Pháp được không? Pháp là tự nhiên. Nếu lửa không đốt cháy, thì nó là một cái gì khác, chứ không phải lửa. Tương tự, bản chất của bất kỳ một tiêu cực nào mà bạn phát ra trong tâm là để thiêu đốt, để làm cho bạn khổ não. Nếu bạn phát ra tình yêu thương, bi mẫn, thiện chí, với một cái tâm thanh tịnh, bạn sẽ có bình yên và hòa hợp. Mọi người sẽ có giống như nhau. Đây là Pháp.

Quy luật tự nhiên áp dụng chung cho mọi người. Mặt trời không chiếu sáng và chỉ soi sáng cho người này, không cho người khác. Khi gió thổi, nó không chỉ thổi cho người này mà không thổi cho người khác. Pháp là chung, là phổ quát.

đây tôi không chỉ trích một truyền thống nào cả, tất nhiên không cả bất cứ truyền thống Phật giáo nào. Những người chưa đi vào chiều sâu để hiểu rõ được quy luật phổ quát của tự nhiên ở mức kinh nghiệm ít ra cũng có thể làm việc ở mức bề mặt và có được một vài sự lợi ích.

Khi tôi nói điều này, nhiều người bị chạm tự ái. Họ nghe tôi nói, “Các bạn còn ở mức bề mặt, Goenka này đã vào chiều sâu.” Không chỉ Goenka đi vào được chiều sâu; nếu các bạn thực hành, các bạn cũng sẽ tìm thấy nó. Tôi được rất nhiều lợi ích từ nó. Tôi cũng được nhiều lợi ích từ kỹ thuật khác mà tôi đã học. Tôi không chỉ trích các kỹ thuật ấy. Làm thế nào tôi có thể chỉ trích nó? Nó cho tôi rất nhiều lợi ích và nó cũng đem lại lợi ích cho rất nhiều người. Nhưng tôi nói rằng có những bước thêm nữa. Tại sao các bạn lại không bước thêm? Cuộc sống hiện hữu là để cho chúng ta dấn thân tiến bước. Đừng chấp nhận nó bởi vì Goenka nói như vậy hay vì Đức Phật nói như vậy hoặc vì kinh điển nói như vậy. Hãy thực hành nó, khám phá nó, rồi bạn sẽ chấp nhận nó.

Nếu tôn giáo, như ngài nói, chỉ là một người dỗ dành hay một người xoa dịu, liệu như thế nó có là một trở ngại cho việc thực hành pháp (dhamma) không?

Nó có thể trở thành một chướng ngại. Mỗi tôn giáo xứng đáng với tên gọi phải có cùng một bản chất nội tại như nhau. Không chỉ tôn giáo của Đức Phật, mà mọi tôn giáo. Mỗi tôn giáo đều nói, sống một cuộc đời đạo đức với một cái tâm đã khép vào kỷ luật, với một cái tâm trong sạch, đầy từ ái, bi mẫn, thiện chí, khoan dung. Đây là tinh túy của mọi tôn giáo.

Nhưng cái vỏ bên ngoài của tôn giáo lại khác với nhau. Cái vỏ bề ngoài là những lễ nghi, nghi thức,… và một niềm tin mang tính triết lý mà vốn mỗi tôn giáo mỗi khác. Bao lâu người ta dù có những hình thức lễ nghi riêng của họ nhưng vẫn xem bản chất nội tại là quan trọng, nó sẽ không có gì nguy hại. Nhưng ngay khi họ quên cái bản chất nội tại, và xem trọng cái vỏ bề ngoài, chấp chặt vào nó, họ liền biến thành những kẻ cuồng tín hoặc thậm chí những kẻ khủng bố: “Hãy chấp nhận tôn giáo của tôi nếu không tôi sẽ giết ông. Toàn thế gian này sẽ được giải thoát chỉ khi nào mọi người cải đạo sang tôn giáo của tôi.” Cho nên chỉ chú trọng đến cái vỏ bề ngoài, chấp nhặt vào đó, quên hết bản chất đạo đức nội tại, sẽ là rất nguy hiểm. 

Có những lễ nghi hay nghi thức nào trong cộng đồng của người không?

Cộng đồng gì? Đối với những ai hành thiền, lễ nghi duy nhất đó là họ phải hành thiền và quan sát những gì xảy ra ở bên trong. Ngoài ra không có hình thức lễ nghi nào khác.

Ngài sẽ minh xác thế nào là một con người giác ngộ?

Một con người như vậy phải hiểu được sự thực ở mức kinh nghiệm. Họ phải giải thoát mọi bất tịnh, không chỉ ở mức bề mặt mà trong toàn bộ tâm. Lúc đó, theo bản chất, họ sẽ tràn đầy lòng từ ái, bi mẫn, và thiện chí. Chúng ta có thể nói rằng một con người như vậy đã giác ngộ. Giác ngộ là một sự thăng tiến. Bạn bắt đầu với một sự soi sáng nào đó và cuối cùng thì giác ngộ viên mãn. Người ta càng giác ngộ được nhiều bao nhiêu, họ càng là con người tốt hơn bấy nhiêu – tốt đối với bản thân họ và tốt đối với mọi người.

Ngài thấy việc tu tập theo chế độ tu viện có cần thiết chút nào không?

Tất nhiên, bởi vì người tu có cơ hội để học hỏi sâu rộng hơn về Pháp. Họ cảm thấy rằng đời người rất quý và muốn tận dụng tối đa nó. Là những người gia chủ, họ có quá nhiều trách nhiệm và không có đủ thời gian. Vì thế họ từ bỏ cuộc sống của người gia chủ và sống như một nhà sư hay tu nữ.

Nếu một người nào quyết định sống cuộc đời như một vị sư hay tu nữ, và không được luyện tập thích hợp về cách làm thế nào để sống như một người xuất gia, thời sẽ có những vấn đề. Đức Phật muốn họ phải có một sự tu tập thích hợp. Ngài không nhận hết những người đến và thỉnh cầu được thọ y (xuất gia). Ngài thường yêu cầu các vị đệ tử lớn của ngài trước hết phải xem xét một người. Nhiều lần, ngài nói, “Ông hãy sống trong Tăng chúng trong ba tháng, sau đó chúng Tăng sẽ quyết định xem có nhận ông hay không.” Những lần khác ngài lại nói, “Hãy về xin cha mẹ ông cho phép xuất gia đã. Nếu không thì ta sẽ không nhận ông.”

Người ta cần phải thực sự phù hợp để làm một nhà sư hay tu nữ, chứ hay chỉ xuất gia vì cảm tình. Và ngay cả sau khi đã trở thành một vị sư hay tu nữ, họ còn phải thực hành liên tục và nghiêm túc hơn một người gia chủ nữa. Tu tập rất là quan trọng đối với những người xuất gia từ bỏ cuộc sống gia chủ.

Khóa thiền mười ngày cũng giống như đời sống tu hành vậy. Mặc dù những người tham dự không cạo tóc đắp y, họ sống một cách giản dị và yên tịnh. Không phải trả tiền cho thức ăn thức uống và những thứ khác. Giống như các nhà sư hay tu nữ, các thiền sinh đi thành hàng để nhận phần ăn của họ. Được cho thức ăn gì, họ ăn thức ăn đó. Nếu như họ phải trả tiền, thì họ có thể nói, “Tôi trả năm mươi đôla cho bữa ăn này? Món này quá nhiều gia vị, món này quá nhiều dầu ăn.” Lúc đó sẽ không còn là đời sống của một nhà sư nữa. Trong cuộc sống của một nhà sư, bất cứ món gì được bỏ vào bình bát ăn xin, họ thọ dụng những món ấy. Trong mười ngày, những người tham dự học cách làm thế nào để sống như một nhà sư hay tu nữ.

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *