CON ĐƯỜNG PHỔ QUÁT CỦA DHAMMA – THE UNIVERSAL PATH OF DHAMMA – S.N. GOENKA

The Universal Path of Dhamma – Con đường Phổ Quát của Dhamma

(The following is a translation of a Hindi discourse by S. N. Goenka broadcasted on Zee TV)

(Bài viết sau đây là bản dịch từ bài pháp thoại bằng tiếng Hindi của Thiền sư S.N.Goenka đã được phát sóng trên Zee TV)

The entire Dhamma is contained in sīla, samādhi, and paññā. The whole meaning of Dhamma is contained in them. The purity of Dhamma is contained in them. Following sīla means living a life of good conduct and to live a life of good conduct, we have to practice samādhi, we have to practice mastery over the mind. And not only this, we have to eradicate all the defilements accumulated in the depths of the mind so that good conduct becomes a part of our lives naturally, effortlessly.

Toàn thể Dhamma được chứa đựng trong sīla, samādhi, và paññā. Toàn thể ý nghĩa của Dhamma hàm chứa trong những điều này. Sự tinh khiết của Dhamma được chứa đựng trong những điều này. Tuân theo sīla có nghĩa là sống một cuộc đời đạo đức và để sống một cuộc đời đạo đức, chúng ta phải thực hành samādhi, chúng ta phải thực hành việc làm chủ tâm trí. Và không chỉ thế, chúng ta phải diệt tất cả các bất tịnh đã tích lũy sâu trong tâm để hành động thiện trở thành một phần của đời sống một cách tự nhiên, vô nỗ lực.

One should purify the mind, one should develop insight that will eradicate all the defilements from the mind. Leading a life of good conduct, gaining mastery over the mind, and purifying the mind totally is not a Dhamma belonging exclusively to any particular country, religion, community, class or caste. It is everyone’s Dhamma. Dhamma is universal. This is the true nature of Dhamma. This is the greatest common factor of Dhamma. Any person following any tradition will accept that leading a life of good conduct is wholesome, that concentrating the mind and gaining mastery over it is wholesome, and that learning a technique that purifies the mind completely is wholesome. Such a Dhamma will be universally acceptable.

Một người nên thanh lọc tâm, người đó nên phát triển cái nhìn bên trong điều sẽ diệt trừ mọi bất tịnh từ tâm. Một Dhamma dẫn dắt người ta đến cuộc sống đạo đức, đạt sự làm chủ tâm, và thanh lọc tâm hoàn toàn không dành riêng bất kỳ quốc gia, tôn giáo, cộng đồng, tầng lớp hoặc đẳng cấp nào. Đây là Dhamma cho tất cả. Dhamma là phổ quát. Đây là bản chất chân thật của Dhamma. Đây là yếu tố chung tuyệt vời nhất của Dhamma. Bất kỳ ai theo bất kỳ truyền thống nào sẽ chấp nhận rằng việc sống một cuộc đời đức hạnh thật lợi lạc, rằng định tâm và đạt sự làm chủ tâm điều đó thật lợi lạc, và việc học kỹ thuật thanh lọc tâm hoàn toàn thật lợi lạc. Một Dhamma như thế sẽ được chấp nhận ở khắp nơi.

Dhamma is universal. Let a person call himself or herself by any name, it makes no difference. Let the person at least follow sīla, practicesamādhi, develop paññā. Then only is such a person a truly Dhammic person.

Dhamma là phổ quát. Hãy để một người gọi chính anh ta hay cô ta bằng bất kỳ tên nào, điều này không làm họ khác nhau. Hãy để người đó ít nhất tuân theo sīla, thực hành samādhi,  phát triển paññā. Chỉ khi đó người như thế mới thật sự là một người theo Dhamma.

By practicing Dhamma, a Hindu becomes a good Hindu; a Buddhist becomes a good Buddhist; a Jain becomes a good Jain; a Christian becomes a good Christian; a Muslim becomes a good Muslim; a Parsi becomes a good Parsi; a Jew becomes a good Jew. One becomes a good human being.

Bằng việc thực hành Dhamma, một người Hindu trở thành người Hindu tốt; một Phật tử trở thành một Phật tử tốt; một người theo đạo Jain trở thành người Jain tốt; một người Cơ Đốc Giáo trở thành một người Cơ Đốc Giáo tốt; một người Hồi giáo trở thành một người Hồi giáo tốt; một người theo Hỏa giáo trở thành một người theo Hỏa giáo tốt; một người theo Do thái giáo trở thành người Do thái giáo tốt. Một người trở thành một con người tốt.

Dhamma makes us good human beings. It does not make a difference by what name one calls oneself. What is in a name after all? Dhamma should become a part of our lives. Sīla, samādhi, paññā should become a part of our lives. These three sīla, samādhi, paññā were described in great detail in the language of those days, and a person walking on the path of sīla, samādhi, and paññā was called “Ariyo” which meant noble: and the path was called “Aṭṭhaṅgiko maggo” which meant the Eightfold path. “Ariyo aṭṭhaṅgiko maggo” means the Noble Eightfold Path.

Dhamma làm con người trở nên tốt đẹp. Không có gì khác biệt chỉ bởi vì cái tên mà ai đó tự gọi mình. Vậy có điều gì sau một cái tên? Dhamma nên trở thành một phần của đời sống chúng ta. Sīla, samādhi, paññā nên trở thành một phần của đời sống chúng ta. Ba phần sīla, samādhi, paññā này được mô tả rất chi tiết trong các ngôn ngữ ngày đó, và một người bước đi trên con đường của sīla, samādhi, paññā được gọi là  “Ariyo” có nghĩa là cao quý: và con đường được gọi là “Aṭṭhaṅgiko maggo” có nghĩa là con đường có tám phần. “Ariyo aṭṭhaṅgiko maggo” có nghĩa là Con Đường Cao Quý có Tám Nhánh.

Who is an ariya? 2500 years is a long period and in 2500 years, the language changes, words change, the meanings of words change. Today, the word ariya has become a general term denoting the race of a person. In those days it was not a word denoting the race of a person, it was a qualitative word denoting qualities of a person. Who was called an ariya? One was called an ariya if he had become a saint, if he had totally purified his mind, if he had become pure of heart, a noble-hearted person. Walking on the path of Dhamma, he establishes himself insīla, samādhi, paññā so that the mind becomes totally pure and his life is filled with Dhamma. Such a person can never commit a wrong deed. He cannot do any such deed that will disturb the peace and harmony of others or cause harm to others. Whatever he does will be for his own good and for the good of others. He will do only good work, wholesome work. Such a person will be called a noble person, an ariya.

Ai là một ariya ? 2500 năm là thời gian dài và trong 2500 năm, ngôn ngữ thay đổi, từ ngữ thay đổi, ý nghĩa thay đổi. Ngày nay, từ ariya trở thành một thuật ngữ chung chỉ một chủng tộc người. Những ngày đó từ này không phải là từ chỉ một chủng tộc người, nó là một từ chỉ định tính chỉ phẩm chất của một con người. Ai được gọi là ariya?  Một người được gọi là ariya nếu anh ta trở thành một vị thánh, nếu anh ta hoàn toàn thanh lọc tâm, nếu anh ta trở thành một người có tâm thanh tịnh, một trái tim cao quý. Bước trên con đường của Dhamma, anh ta thiết lập mình vào sīla, samādhi, paññā để tâm trí trở nên hoàn toàn thanh tịnh và cuộc đời của anh ta chứa đầy Dhamma. Một người như thế sẽ chẳng bao giờ phạm phải một hành động sai trái. Anh ta không thể làm bất kỳ những hành động như thế để quấy nhiễu an lạc và hòa hợp của người khác hoặc gây hại cho họ. Dù anh ta làm điều gì sẽ vì lợi ích của chính anh ta và lợi ích của người khác. Anh ta sẽ chỉ làm những điều tốt đẹp, những việc thiện lành. Người như thế sẽ được gọi là một người cao quý, một ariya.

But today ariya is taken as a general term denoting race. So an Aryan is said to be one who is tall, of fair complexion, has a long nose, big eyes. If someone is dark in colour, has curly hair and thick lips, he is referred to as belonging to the African race. If someone has a yellow skin, small eyes, a flat nose, he is called a Mongolian. In the language of those days it had nothing to do with the race of a person. If a person was of fair colour or of dark colour, if he had a long or a flat nose, if he had big or small eyes, it made no difference.

Nhưng ngày nay ariya được dùng như một thuật ngữ chung chỉ một chủng tộc người. Vì thế một Aryan được dùng để nói đến một người cao, một người có nước da đẹp, mũi dài, mắt lớn. Nếu ai đó da sẫm, tóc xoăn và môi dày, anh ta thuộc về chủng tộc Châu Phi. Nếu ai đó da vàng, mắt nhỏ, mũi tẹt, anh ta được gọi là người chủng tộc Mongolia (Mông Cổ). Theo ngôn ngữ thời đó, từ này không có liên hệ gì với chủng tộc của một người. Nếu một người có tóc sáng hoặc tóc sẩm, nếu anh ta có mũi dài hay mũi tẹt, nếu anh ta có mắt to hay nhỏ, đều không có gì khác biệt.

Any person who became a noble-hearted person by walking on the path, establishing himself in sīla, samādhi, paññā, and developing a totally pure mind, became a noble person. And any person who does not become an ariya is walking on the wrong path, not on the path of Dhamma. Such a person causes harm to himself as well as to others. He is not an ariya though he may be of fair complexion, has a long nose and big eyes. Facial features do not make one a wise person. In the language of those days it was said,

Bất kỳ ai trở thành một người có tâm cao quý đều đi trên con đường này, tự thiết lập trong chính mình sīla, samādhi, paññā, và phát triển một tâm hoàn toàn thanh tịnh, trở thành một người cao quý. Và bất kỳ ai không trở thành một ariya đều là bước đi trên một con đường sai lầm, không phải con đường của Dhamma. Một người như thế gây hại cho chính mình cũng như người khác. Anh ta không phải là một ariya dù anh ta có thể có nước da đẹp, mũi dài và đôi mắt lớn. Đặc điểm gương mặt không làm một người trở nên thông thái. Trong ngôn ngữ ngày ấy nói rằng:

Hīno gammo putthujjaniko anariyo anatthasaṃhito

-‘He is inferior, wretched, ignoble, of low birth. He is far away from the royal path and has lost himself in the blind alleys. He has separated himself from the royal path.’

-‘Anh ta thấp kém, khốn khổ, vô minh, và sinh ra hèn kém. Anh ta rời xa con đường cao quý và lạc vào thung lũng mù tối. Anh ta đã tách mình ra khỏi con đường cao quý.’

Anatthasaṃhito – he is accumulating nothing but sin for himself. Not only is he accumulating sin for himself but also generating misery for others. Such a person was called “anariyo” in those days. This word, “anariyo“, because the language changed over this period of 2500 years, became “anāri“, a foolish person in today’s Hindi language.

Anatthasaṃhito – Anh ta không tích lũy gì ngoài tội lỗi cho chính anh ta. Không chỉ tích lũy tội lỗi cho chính mình mà anh ta còn tạo ra khốn khổ cho người khác. Người như thế được gọi là “anariyo” trong những ngày đó. Từ này, “anariyo“, vì ngôn ngữ thay đổi trong suốt 2500 năm, trở thành “anāri“, một người ngu ngốc trong tiếng Hindi ngày nay.

He is definitely a foolish person. He who causes harm to himself as well as to others is certainly a foolish person. He who disturbs his own peace and harmony as well as the peace and harmony of others has not understood anything and is therefore a foolish person. If he does not continue to remain foolish, but develops wisdom by walking on the path of Dhamma, he will attain happiness and will also contribute to the happiness of others. He starts generating peace and harmony for himself as well as for those around him and therefore he has started to walk on the path leading to nobility. This path that makes every person who walks on it a noble-hearted person was therefore called the Noble Path, the Noble Dhamma.

Anh ta đích thị là một kẻ ngu ngốc. Người gây hại cho mình cũng như người khác chắc chắn là một kẻ ngu ngốc. Người quấy nhiễu an lạc và hòa hợp của mình và an lạc và hòa hợp của người khác không hiểu bất cứ thứ gì và do đó họ là một kẻ ngốc. Nếu người đó không tiếp tục ngu ngốc, mà phát triển trí tuệ trên con đường của Dhamma, anh ta sẽ đạt được hạnh phúc và sẽ đóng góp hạnh phúc của những người khác. Anh ta bắt đầu tạo ra an lạc và hòa hợp cho chính mình cũng như những người xung quanh và do đó anh ta phải bước đi trên con đường dẫn đến sự cao quý. Con đường này làm mỗi người bước đi trên nó thành những người có tâm cao quý do đó gọi là Con Đường Cao quý, Dhamma Cao quý.

This Eightfold path is divided into three sections: sīla, samādhi, and paññā.

Con Đường có Tám Nhánh chia thành ba phần sau: sīla, samādhi, và paññā.

Three parts of the Noble Eightfold Path are within the division of sīla: sammā-vācā, sammā- kammanto, and sammā-ājīvo.

Có ba phần của Con Đường Cao Quý có Tám Nhánh nằm trong các lĩnh vực của sīlasammā-vācā, sammā- kammanto, và sammā-ājīvo.

Sammā-vācā means right speech, purity of vocal action. What is right speech? The speech that is correct, truthful, beneficial, and has been applied by oneself. One has read in books, one has heard from a teacher that Dhamma is very beneficial, but has Dhamma actually become a part of one’s daily life? If not, then it is of no use. The benefit of Dhamma should be directly experienced in one’s life. So the speech should be proper and it should also become a part of life. Only then is it right speech.

Sammā-vācā nghĩa là lời nói chân chánh, hành động ngôn ngữ tinh khiết. Lời nói chân chánh là gì ? Lời nói chân chánh là lời nói đúng, chân thực, có lợi lạc và được ứng dụng bởi người đó. Một người đọc sách, người đó nghe một vị thầy rằng Dhamma rất lợi lạc, nhưng Dhamma có thực sự trở thành một phần đời sống của người đó ? Nếu không, điều này vô dụng. Lợi lạc của Dhamma nên được kinh nghiệm trực tiếp trong đời sống của người đó. Do thế lời nói nên phù hợp và cũng nên trở thành một phần của đời sống. Chỉ khi đó mới là lời nói chân chánh.

What is right speech? This is the speech that does not cause harm to others, does not disturb the peace and harmony of others. There is no other yardstick. One will not deceive anyone by speaking lies. One will not speak bitter words and hurt others. One will not criticise others or speak words of backbiting. One will not carry tales that set friends to quarrel. That is all. Abstaining from all such impure speech leaves nothing but right speech, nothing but pure speech. One should keep examining oneself, “Is right speech becoming a part of my life? Am I practicing right speech?” Only then is it right speech. Otherwise it again becomes the futile talk drawn from some book or some teacher. Until it becomes a part of one’s life, one does not gain from it. Therefore sammā-vācā should be actual right speech.

Lời nói chân chánh là gì? Lời nói không gây hại cho người khác, không phiền đến an lạc và hòa hợp của người khác. Không có thước đo nào khác nữa. Người đó sẽ không nói dối để lừa gạt bất kỳ ai. Người đó sẽ không nói những lời cay đắng và gây tổn thương người khác. Người đó sẽ không chỉ trích hoặc nói những lời đay nghiến. Người đó sẽ không tạo ra những tin đồn làm bạn bè gây gổ. Đó là tất cả. Tránh tất cả những lời nói bất tịnh không để lại điều gì thì là lời nói chân chánh, không để lại gì nhưng là lời nói thanh tịnh. Người đó nên luôn xem xét chính mình, “Lời nói chân chánh có trở thành một phần đời sống của tôi? Tôi có đang thực hành lời nói chân chánh ?” Chỉ khi đó mới là lời nói chân chánh. Trái lại lời nói đó một lần nữa trở thành lời nói trích dẫn từ quyển sách nào đó hoặc vị thầy nào đó. Người đó không đạt được lời nói chân chánh cho đến lúc nó trở thành một phần của đời sống. Do vậy sammā-vācā  nên là lời nói chân chánh thực sự.

Sammā-kammanto means right action, purity of physical action. What is right action? Every action arises in the mind first and proceeding further, becomes a vocal action. When it proceeds still further, it manifests itself as a physical action. This end-point of action, the physical action, was called kamma (karma). This should also be right, correct, perfected. It should not cause harm to others, disturb the peace and harmony of others, or cause unhappiness to others. One should make right action a part of one’s life, by abstaining from killing, from stealing, from sexual misconduct, from taking any kind of intoxicant. If it is known from experience that one does not perform such actions at all, then it is right action. One has started applying it in one’s life. Therefore this is right action.

Sammā-kammanto có nghĩa là hành động chân chính/chánh nghiệp, sự thanh lọc hành động của thân. Vậy hành động đúng/chánh nghiệp là gì? Mỗi hành động khởi lên đầu tiên trong tâm và đi xa hơn, trở thành hành động lời nói. Khi hành động đó tiếp tục đi xa hơn, nó biểu lộ thành hành động của thân. Điểm cuối cùng của hành động, một hành động của thân, được gọi là kamma (karma)/ nghiệp. Điều này sẽ luôn đúng, chính xác, hoàn hảo. Hành động không nên gây hại cho ai, phiền nhiễu an lạc và hòa hợp của người khác, hoặc gây ra bất hạnh cho người khác. Người đó nên làm hành động đúng như một phần đời sống của mình, bằng việc tránh giết hại, trộm cắp, tà hạnh, dùng các chất gây say nghiện. Nếu từ kinh nghiệm của người đó rằng người đó không làm tất cả các hành động như thế, thì đó là hành động chân chính. Người đó bắt đầu ứng dụng điều này vào đời sống. Do vậy đây là hành động chân chính.

Sammā-ājivo means right livelihood. One must have a proper way of supporting oneself. A householder must have some occupation. One manages to get food and clothing for one’s needs from some place or the other. But how is it obtained? Is it obtained by some fraudulent way, by cheating someone? Not only those who are householders but even those who have given up the household life should analyse their occupation “What is my occupation? What is the way by which I am bringing wealth into my house? What is the work or business through which I am making wealth? Is it right? Is it harming others in any way? Is it disturbing the peace and harmony of others or making them unhappy in any way? Am I doing anything that is encouraging people to live an immoral life.” If so, such a livelihood should be given up. One may deceive oneself “I am not killing any living being.” It may be true, but what occupation is one engaged in? What is the means of livelihood? Is it dealing in guns smuggling of AK-47s from some place and selling them to terrorists and deluding oneself, “Oh, they are doing the killing, I am not.” Someone sells weapons, guns and bullets and yet thinks that one is very saintly. Oh no! That livelihood is a wrong one, one that is hindering people from leading a life of good conduct. Such a livelihood is helping them in breaking their sīla. Such an occupation is a wrong occupation.

Sammā-ājivo nghĩa là sinh kế chân chánh/chánh mạng. Người đó phải có cách phù hợp để nuôi sống mình. Một cư sĩ tại gia phải có một vài nghề nghiệp. Người đó phải làm việc để có thức ăn và quần áo cho nhu cầu của mình từ vài nơi hoặc người khác. Nhưng làm cách nào để đạt được điều đó? Người đó đạt được điều đó bằng cách lừa gạt, lừa dối người khác không? Không chỉ những cư sĩ tại gia thậm chí những người đã từ bỏ cuộc sống tại gia cũng nên phân tích nghề nghiệp của mình “Nghề nghiệp của tôi là gì?” Con đường nào tôi đang mang sự giàu có cho gia đình mình? Công việc hay công việc kinh doanh nào thông qua đó tôi giàu có? Công việc đó có đúng đắn? Nó có làm hại người khác không? Nó có quấy nhiễu an lạc và hòa hợp của người khác hoặc làm họ không vui theo cách nào đó?

Tôi có làm điều gì khuyến khích người khác sống một cuộc đời vô đạo đức không.” Nếu thế, sinh kế đó nên từ bỏ. Người đó có thể tự lừa mình “Tôi không giết hại bất kỳ chúng sinh nào.” Có thể điều đó đúng, nhưng nghề nghiệp nào mà người đó đang dính vào? Phương tiện sinh kế là gì? 

Có phải việc trao đổi mua bán súng AK-47s từ vài nơi và bán chúng cho khủng bố và người đó tự lừa dối mình. “Ồ, họ đang giết chóc, tôi thì không.” Ai đó bán vũ khí, súng đạn và nếu người đó nghĩ mình rất thánh thiện. Ồ không! Sinh kế đó là sai lầm, người đó đang cản trở người khác sống một cuộc đời đạo đức. Một sinh kế như thế chỉ giúp họ phá vỡ sīla. Sinh kế như thế là sinh kế sai lầm.

Someone says that he does not kill any animal. But he rears cattle, sheep and goats, feeds them well so that they are fattened and sells them to the butcher. He gets good money for them, and says, “Now it is up to the butcher. If the butcher kills the cattle, what can I do?” How can this be a good livelihood? A certain person says that he does not take any intoxicant but sells intoxicants, alcohol, and other drugs like opium and marijuana. Whoever takes it from him breaks his sīla. Then is it not a wrong livelihood? Someone sells poison and makes a living. Whoever purchases it kills someone with it. So one should examine oneself to see if one’s livelihood is encouraging people to break the precepts. If that is so, that occupation is not the right occupation at all.

Ai đó nói rằng anh ta không biết hại bất kì động vật nào. Nhưng anh ta nuôi gia súc, cừu, dê, cho chúng ăn no và vỗ béo chúng và rồi bán cho người giết mổ. Anh ta có được tiền, và nói, “ Bây giờ tùy vào tên giết mổ. Nếu người giết mổ giết gia súc, tôi có thể làm gì ?” Liệu sinh kế đó có tốt không? Một người chắc chắn nói rằng anh ta không dùng bất kỳ chất say nghiện nào nhưng lại bán các chất say nghiện, rượu và thuốc như thuốc phiện và cần sa. Bất cứ ai mua nó từ anh ta đều phát vỡ sīla của anh ta. Khi đó đó không phải là một sinh kế sai lầm ư? Vài người bán thuốc độc và kiếm sống. Bất kỳ mua nó đều dùng để giết người. Vì vậy người đó nên tự xét mình để xem rằng liệu sinh kế đó có khuyến khích người khác phá vỡ giới luật. Nếu thế, nghề nghiệp đó không đúng đắn chút nào.

Even in the highest profession, it is very important to know the volition of the person who is engaged in it. If his mental volition is not good, however good the occupation may be, it will not be the right one if it is not accompanied by a good volition. What is the mental volition behind the source of livelihood? That is very important.

Thậm chí trong đỉnh cao nghề nghiệp, ý nguyện mà người đó làm rất quan trọng. Nếu sự ý nguyện của tinh thần không tốt, dù nghề nghiệp có tốt đến mấy, công việc đó sẽ không đúng đắn nếu không đi cùng một ý nguyện tốt. Vậy ý nguyện tinh thần đằng sau nguồn sinh kế là gì? Điều đó rất quan trọng.

There was an incident in my life that took place about forty to forty-five years ago, before I heard about pure Dhamma, before I learnt the technique of Vipassana. Someone in my family fell ill. Our family doctor had gone on vacation, so I went to fetch some other doctor. I knew he was a busy man and may not come for a home visit. But it so happened that when I went to his clinic, he was sitting idle, there were no patients there. Out of idle curiosity, I asked, “Doctor, your clinic is generally crowded with patients. What is the matter, today there are no patients?” With a very sorrowful face he replied, “Usually there is some epidemic in the city in this season, this year for some reason there has been no outbreak of any epidemic.” Hearing this, I was stunned and thought, “He is a doctor who is supposed to see that more and more people are healthy and yet he wishes that more and more people should fall sick. What sort of a doctor is he?” I felt very bad.

Đây là một rắc rối trong cuộc đời của tôi vào khoảng bốn đến bốn mươi lăm năm về trước, trước khi tôi nghe về Dhamma tinh khiết, trước khi tôi được học kỹ thuật của Vipassana. Vài thành viên trong gia đình tôi bị ốm. Bác sĩ gia đình của chúng tôi đang đi du lịch, vì thế tôi tìm đến vài vị bác sĩ khác. Tôi biết ông ấy là một người bận rộn và có thể sẽ không đến thăm bệnh được. Nhưng sự việc xảy ra khi tôi đến phòng khám, ông ta đang ngồi không, và không có bệnh nhân nào cả. Sự tò mò vẩn vơ, tôi hỏi, “ Bác sĩ, sao phòng khám của ông thường rất đông bệnh nhân. Đã có chuyện gì xảy ra, hôm nay không có ai đến vậy?”. Với vẻ mặt buồn rầu ông trả lời, “ Thường có vài bệnh dịch trong thành phố vào mùa này, năm nay vì vài lý do mà không có bệnh dịch.” . Tôi nghe thế, tôi bất ngờ và nghĩ, “Ông ta là bác sĩ người đáng lẽ nên mong càng nhiều người khỏe mạnh thì ông ta lại ước càng nhiều người sẽ bị bệnh. Đây là loại bác sĩ gì? “ Tôi cảm thấy rất tồi tệ.

With the passage of time, I obtained this wonderful technique of Vipassana, the pure quintessence of Dhamma. Earlier I had just read some books in the name of Dhamma. Walking on the path of Dhamma was far away. I did not know what pure Dhamma meant, I had not understood Dhamma. When I actually found pure Dhamma and started looking within myself, the truth started manifesting itself.

Thời gian trôi qua, tôi đạt được kỹ thuật tuyệt vời của Vipassana, tinh tuý tinh khiết của Dhamma. Trước đây, tôi chỉ đọc vài quyển sách tên Dhamma. Bước đi trên con đường của Dhamma còn rất xa. Tôi không biết Dhamma tinh khiết có nghĩa là gì, tôi không hiểu được Dhamma. Khi tôi thực sự tìm được Dhamma tinh khiết và bắt đầu nhìn vào bên trong bản thân mình, sự thật bắt đầu tự biểu lộ.

I was a businessman, born in the family of a businessman, and working as a businessman. Therefore, I can understand the mind of a businessman very well even today. If some world-war takes place, or there is a famine somewhere, and the supply of consumer items falls short resulting in their prices going up, and soaring high, the businessmen, in their business language, say, “The market is improving”. For them, the market is improving. The people are facing difficulty, they are not concerned about it. They think, “I am earning a lot of money. Therefore the market is improving.” When the war is over, there is no famine, there is a good harvest; everything is available in plenty, and the prices of consumer goods go down, the businessman in a very sorrowful voice says, “The market has gone down.” This is the mentality of some businessmen. It is not wrong to do business. Every consumer cannot go to buy his requirements from the producer. To deliver the goods from the producer to the consumer is the job of the businessman. For this effort he takes his due share of profit. This is also not wrong. But the mentality, the volition of mind is most important. This is the yardstick by which it is measured whether one is practising sīlawhile earning one’s livelihood or not. At the surface level, one’s livelihood, one’s profession is proper, but one is not making the right use of it. One is doing it in the wrong manner, so it becomes impure. Instead of becoming moral, one becomes immoral. In this way, one must keep examining oneself, at every step, one must keep analyzing oneself.

Tôi là một thương nhân, sinh ra trong một gia đình thương nhân, và làm việc như một thương nhân. Do vậy, tôi có thể hiểu tâm trí của một thương nhân rất rõ ràng thậm chí tận ngày nay. Nếu chiến tranh thế giới diễn ra, hoặc nạn đói ở vài nơi, và nguồn cung tiêu dùng bị chững lại kết quả làm giá cả tăng cao, và cao ngất ngưởng, thương nhân, trong ngôn ngữ của họ, nói rằng, “Thị trường đang phát triển.” Với họ, thị trường đang phát triển. Con người đang đối mặt với khó khăn, họ không quan tâm đến điều đó. Họ nghĩ, “Tôi đang kiếm rất nhiều tiền. Do thị trường đang phát triển.” Khi chiến tranh kết thúc, không có nạn đói, vụ mùa bội thu, mọi thứ đều dư giả, và giá tiêu dùng hạ xuống.”

Đây là tâm lý của vài thương nhân. Nó không sai trong kinh doanh. Mỗi người tiêu dùng không thể mua nhu yếu phẩm từ nhà cung cấp. Để mang lại hàng hóa từ nhà cung cấp đến người tiêu dùng là công việc của thương nhân. Đây là nỗ lực của anh ta nhằm chia sẻ lợi nhuận. Điều này cũng không sai. Nhưng tinh thần, ý nguyện tinh thần là quan trọng nhất. Đây là thước đo kiểm tra xem người đó có đang thực hành sīla trong khi kiếm tiền hay không. Ở cấp độ bề mặt, sinh kế của người đó, nghề nghiệp của người đó phải phù hợp, nhưng người đó đang không sử dụng nghề nghiệp đó đúng. Người đó đang làm sai, vì vậy nghề nghiệp đó trở thành bất tịnh. Thay vì trở nên đạo đức, người đó trở thành vô đạo đức. Theo cách trên, người đó phải tự nhận định chính mình, mỗi bước, người đó phải tự phân tích mình.

Since 1969, this technique of Vipassana meditation that was lost from India for the past 2500 years came back to India. Courses started being held all over India. The Ganges of the Dhamma once again began flowing in the country of its origin. People from all ranks, from all professions, from all communities, from all sects come to take Vipassana courses. They should certainly come. It is, after all, the Ganges of Dhamma. Whosoever comes, his thirst is quenched. The Ganges of Dhamma does not see whether the person who is drinking her water calls himself by this name or that name; belongs to this sect or that sect. Whosoever drinks it, his thirst is quenched. So people come. People from the business class also come and tell their problems to me. “What can we do, this is the situation faced by the entire country, this is the state of the government regulations. You say that we must carry on business honestly. but what can we do? Everywhere there is corruption; how can we be honest?”

Từ năm 1969, kỹ thuật này của thiền Vipassana bị thất lạc ở Ấn độ cho đến 2500 sau đã trở lại Ấn độ. Khóa thiền bắt đầu tổ chức khắp Ấn Độ. Dòng sông của Dhamma đang tuôn chảy đi một lần nữa từ nguồn cội của mình. Mọi người từ mọi địa vị, từ mọi nghề nghiệp, từ mọi cộng đồng, từ mọi tông phái đến để học khóa thiền Vipassana. Họ chắc chắn nên đến học. Sau tất cả, chính là Dòng sông của Dhamma. Bất kỳ ai đến, anh ta sẽ hết khát. Dòng sông của Dhamma không biết người đang uống nước của dòng sông gọi nó bằng tên này hay tên khác; người đó thuộc về tôn giáo này hay tôn giáo khác. Người nào uống nước của dòng sông, anh ta sẽ hết khát. Vì vậy mọi người đến đây. Mọi người đến từ những tầng lớp kinh doanh cũng đến và nói vấn đề của họ với tôi. “Liệu chúng ta có thể làm gì, trong tình hình toàn thể quốc gia đang đối mặt, tình hình này là thông lệ của chính phủ. Ông nói chúng ta phải làm việc kinh doanh chân chính. Nhưng liệu chúng ta phải làm gì ? Mọi nơi đều tham nhũng, làm thế nào chúng ta có thể tử tế được? “

I also see that the country is facing a very bad situation. The business class is corrupt. The officials governing the country are corrupt. The leaders of the nation are also corrupt. Not all, but most of them are corrupt, so what can be done? I explain to these business people, “You can at least do this much, in spite of so much corruption, just understand that your income comes from the pocket of your consumers. Therefore your consumer is your Lord who gives you your bread and butter. Therefore, even by mistake, do not cheat your Lord. Whatever product you give him, do not cheat him in its quality, quantity, measurement or weight. Do not give any adulterated product to anyone. This much you can do, can’t you?”

Tôi cũng thấy thế quốc gia đang đối mặt với tình huống rất tệ. Các tầng lớp kinh doanh đang bị tham nhũng. Không phải tất cả, nhưng hầu hết họ tham nhũng, liệu điều này có thực hiện được? Tôi giải thích với các vị doanh nhân này, “Bạn có thể làm ít nhất việc này, trái với việc quá nhiều tham nhũng, chỉ đơn giản hiểu là thu nhập của bạn đang đến từ túi của người tiêu dùng. Do vậy người tiêu dùng là Thượng đế cho bạn bánh mì và bơ. Do vậy, thậm chí do mắc sai lầm, cũng không nên lừa gạt Thượng đế. Dù bất kỳ sản phẩm nào, bạn đến đưa đến khách hàng, không lừa gạt anh ta về chất lượng, số lượng, kích cỡ hay cân nặng. Đừng bán những sản phẩm giả mạo cho bất kỳ ai. Đây là nhiều việc bạn có thể làm, bạn có thể chứ ?

At least practise Dhamma to this extent. At least walk one step on the path of Dhamma. And then, you may earn wealth. Earning wealth is not bad. A householder should not beg money from others. Just as it is wrong for a recluse to accumulate money, it is wrong for a householder to become a pauper. By his effort, he should earn wealth honestly. But when wealth comes, ego naturally develops. “Look, I have earned this wealth, I am so capable!” Thus ego develops and one goes far away from liberation. To get rid of this ego, one should part with a portion of one’s excess wealth. If one is earning more, one should return a larger amount to society; if one is earning less one should return a smaller amount to society. In the ancient language, it was known as the duty of sharing a portion of one’s earnings with others.

Ít nhất việc thực hành Dhamma mở rộng đến đây. Ít nhất là bước đi một bước trên con đường của Dhamma. Và sau đó, có thể bạn đạt được sự giàu có. Làm giàu không phải việc xấu. Cư sĩ tại gia không nên xin tiền từ người khác. Nó chỉ sai với người khất sĩ khi tích lũy tiền bạc, sẽ sai trái khi người cư sĩ tại gia trở thành người nghèo túng. Bằng nỗ lực của mình, người đó nên tự làm giàu chân chính. Nhưng khi sự giàu có đến, bản ngã tự nhiên được tăng trưởng. “Nhìn xem, tôi đã làm giàu, tôi quả là có năng lực.” Vì bản ngã gia tăng và người đó xa rời giải thoát. Để thoát khỏi bản ngã kia, người đó nên cho đi một phần thặng dư của mình. Nếu người đó kiếm được nhiều, người đó nên trả lại một phần lớn hơn cho xã hội; nếu người đó kiếm được ít hơn người đó nên trả lại một phần ít hơn cho xã hội. Trong ngôn ngữ cổ, đều này có nghĩa là nghĩa vụ chia sẻ một phần thu nhập của mình cho người khác.

So if a householder learns these two things, he has started practicing sammā-ājīvo. He will keep progressing. If all these three: sammā-vācā,sammā-kammanto, and sammā-ājīvo are present, one understands that the first division of the Noble Eightfold Path, the division of sīla, is becoming stronger and stronger. As one proceeds further, one also strengthens the other two divisions of the Noble Eightfold Path and obtains its benefits, ample benefits. One who walks on the path of pure Dhamma, will certainly live a life full of happiness, full of peace, full of liberation.

Do vậy nếu cư sĩ tại gia học được hai điều này, anh ta bắt đầu thực hành sammā-ājīvo. Anh ta sẽ vẫn tiến bộ. Nếu tất cả ba điều trên:ammā-vācā,sammā-kammanto, và sammā-ājīvo là món quà, người đó hiểu được phần thứ nhất của Con Đường Cao Quý có Tám Nhánh, phần sīla, trở nên mạnh hơn. Nếu người đó tăng tiến xa hơn, người đó cũng có sức mạnh với hai phần khác của Con Đường Cao Quý có Tám Nhánh và đạt được lợi lạc, lợi lạc vô tận. Người đó bước trên con đường Dhamma tinh khiết, sẽ chắc chắn sống một cuộc đời hoàn toàn hạnh phúc, an lạc, giải thoát.

May all beings be happy!/Nguyện cho tất cả được hạnh phúc!

Nguồn VRIDhamma.org

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *