Dhamma chân thực là gì?
(Following public talk was given by Principal Teacher S. N. Goenka at Ramabai Ambedkar Girls High School, Nasik Maharashtra in 1998)
(Bài nói chuyện đại chúng sau được Thiền sư Chính S.N.Goenka giảng tại trường Trung học dành cho Nữ Sinh Ramabai Ambedkar, ở Nasik Maharashtra năm 1998)
My dear citizens of the Dhamma land of Nasik,
Kính gửi những người dân của vùng Đất Dhamma Nasik,
For thousands of years this region of Nasik has been an exalted spiritual centre of India. Not only here in the state of Maharashtra, but it has been a place of spiritual pride for all of India. People from near and far have been coming here to get established in sublime spirituality since ancient times.
Trong hàng ngàn năm vùng đất Nasik xứng đáng là một trung tâm tâm linh của Ấn Độ. Không chỉ riêng ở Bang Maharashtra, mà nơi đây còn là một niềm tự hào tâm linh cho toàn thể Ấn Độ. Mọi người từ gần đến xa đã đến nơi đây để thiết lập dòng tâm linh cao quý từ thủa xa xưa.
From here, on the banks of Godavari river and up to the region of Paithan, a few hundred miles away, about 1800 years ago there existed a number of sanctified areas where Sages and Saints practiced tapas (meditation), undertaking deep and varied sadhanas – some meditated, some performed yagya or fire homage, while others followed vows and practices of various traditions. Thereafter, a major wave of bhakti (devotion) tradition arose engulfing a large number of people here and all over India. This tradition is still going strong.
Từ nơi đây, ven bờ sông Godavari và lên phía trên vùng Paithan, đi xa khoảng vài trăm dặm, khoảng 1800 năm trước đã tồn tại một số khu vực thánh hóa nơi các đạo sư và vị thánh thực hành tapas (thiền định), thực hành sâu và thành tựu nhiều pháp – một vài vị đã thiền định, một vài vị thực hành yagya (phương pháp tu luyện theo Vệ đà) hoặc thờ thần lửa, số khác theo những lời thề và thực hành các truyền thống khác. Do vậy, một làn sóng rung động của truyền thống bhakti (lòng tôn kính) sinh ra và bao trùm đông đảo người dân ở đây và khắp Ấn Độ. Truyền thống này tiếp tục phát triển mạnh mẽ.
Now once again, the era of deep meditation of Vipassana has arisen and what’s more, people here are readily accepting it, proving their strong spiritual affinity. A few days ago nearby in Mumbai, the foundation stone was laid for a huge Global Vipassana Pagoda. A respected guest once asked me, ‘Sir, why did you choose this area, what pulled you here and not somewhere else in India?’ The truth is that I did not choose the place, this blessed land chose me!
Bây giờ một lần nữa, thời đại của thực hành thiền Vipassana sâu bắt đầu và nhiều hơn ở đây là, nhiều người đến đây sẵn sàng chấp nhận phương pháp thiền, làm cho họ có sự gắn kết tâm linh mạnh mẽ. Một vài ngày trước gần Mumbai, tảng đá nền được đặt tại Bảo Tháp Toàn Cầu Vipassana hùng vĩ. Một vị khách cung kính một lần hỏi tôi, ‘Thưa Ngài, tại sao Ngài lại chọn nơi này, điều gì thu hút Ngài đến đây mà không phải nơi nào khác ở Ấn Độ?’ Sự thật là tôi không chọn nơi đây, chính vùng đất linh thiêng này đã chọn tôi.!
The people here have an inclination towards spirituality; they understand the significance of Dharma (Dhamma). When explained properly, they grasp its essence and are ready to start walking on the path. For this is not a subject of mere conversation and intellectualization. One has to walk on the path. Unless Dharma is put into practice it cannot give the desired results. If it becomes a mere topic of empty intellectualization and speculation then it loses its vitality. Let us now understand what Dharma is, how to live according to its tenets and why indeed we should live in accordance with Dharma. In these three days we will explore this subject in some depth.
Mọi người ở đây có thiên hướng về tâm linh; họ hiểu được sự quan trọng của Dharma (Dhamma). Khi được giải thích một cách hợp lý, họ nắm vững bản chất của giáo pháp và sẵn sàng bắt đầu bước đi trên con đường. Vì đây không chỉ là một chủ đề nói chuyện hay hiểu biết tri thức đơn thuần. Người đó phải bước đi con trên đường. Trừ phi Dharma được đưa vào thực hành nếu không giáo pháp không thể mang lại kết quả như mong muốn. Nếu Dhamma trở thành một chủ đề đơn thuần của hiểu biết tri thức và tích lũy tri thức trống rỗng khi đó giáo pháp mất đi sự sống. Bây giờ chúng ta hãy hiểu Dhamma là gì, cách để sống theo giáo pháp và tại sao chúng ta lại cần thiết nên sống thuận theo Dharma. Trong ba ngày này chúng ta sẽ khám phá chủ đề này ở vài chiều sâu.
What is Dharma? In the last 1500 to 2000 years, to its great misfortune, India lost the true meaning of the word ‘dharma.’ How indeed could one live according to its tenets when its very meaning was lost! To make matters worse many types of support, one could say crutches, were added to it. Various communities created their own respective dharma; hence there came about Buddhist dharma, Jain dharma, Hindu dharma, Christian dharma and so on.
These sectarian terms were the crutches attached to Dharma, though it does not need any support. It gives support. But when these crutches arise, they take precedence and become prominent, while Dharma recedes into the background, unseen. To our great misfortune this is what happened.
In ancient India Dharma meant that which is imbibed, lived by – dhāretīti dhammam. That which arises on the surface of mind at a given moment was considered the dharma of the mind. What does the mind imbibe but its own nature, its own characteristics, that is its ‘dharma’. Dharma meant the characteristics, the nature of a particular element. Dharma in the language of those days was also called rit, meaning the law of nature. For instance, the nature or characteristic of fire is to burn and burn whoever comes in contact with it. The nature or characteristic of ice is to be cool and cool whoever comes in contact with it. (Đã có đoạn dịch)
Dharma as Nature’s Law
We also say that it is nature’s law that all beings face death, illness and old age. The law of nature, in other words, was Dharma. Let us examine what the nature of the mind is. Whatever has arisen at this moment in my mind: anger, animosity, jealousy or arrogance for example. These are negativities that may arise from time to time, and as such have been called the nature of the mind, that is, the law, the Dharma of the mind. The great researchers of yore – the Rishis, Sages, Saints, Gurus, Arahants, Buddhas searched long and hard to find what was Dharma, or the nature of the mind.
Chúng ta cũng nói rằng theo luật tự nhiên tất cả mọi người phải đối mặt với cái chết, bệnh tật và tuổi già. Luật tự nhiên, nói cách khác, là Dharma. Hãy để chúng tôi kiểm tra bản chất của tâm trí là gì. Bất cứ điều gì đã sinh ra tại thời điểm này trong tâm trí của tôi: giận dữ, thù địch, ghen tị hoặc kiêu ngạo chẳng hạn. Đây là những tiêu cực có thể sinh ra theo thời gian, và như vậy đã được gọi là bản chất của tâm trí, đó là luật, là Dharma của tâm trí. Các nhà nghiên cứu vĩ đại trong quá khứ – Rishis (nhà hiền triết), Sages (hiền nhân), Saints (thánh), Gurus (người có uy tín lớn trong đạo Hindu), Arahants (A la hán), Buddhas (Phật) đã tìm kiếm rất lâu và khó khăn để tìm ra Pháp là gì, hay bản chất của tâm trí.
Any defilement, any negativity of anger, jealousy, or arrogance, when it arises, it results in tremendous heat and agitation within. This is its nature. It is inevitable. If anger has arisen within, then another part of nature, agitation, will follow as an inevitable result every single time. These defilements always arise coupled with agitation. This was called sahajat – meaning together; this misery arises along with its own consequence, its own effect every time.
Bất kỳ phiền não, bất kỳ tiêu cực của sự tức giận, ghen tuông hoặc kiêu ngạo, khi nó phát sinh, nó dẫn đến sự giận dữ và sự bồn chồn bất an khủng khiếp bên trong. Đây là bản chất của nó. Nó là điều không thể tránh khỏi. Nếu sự tức giận xuất hiện bên trong, thì sau đó một phần khác của bản chất, sự bất an, sẽ nối tiếp như một kết quả không thể tránh khỏi mỗi lần nó xuất hiện. Những phiền não này luôn luôn phát sinh cùng với sự bất an. Điều này được gọi là sahajat – có nghĩa là cùng nhau; sự khốn khổ này phát sinh cùng với hậu quả của chính nó, ảnh hưởng của chính nó mỗi lần nó xuât hiện.
Let us understand this better – when burning coals are put in a container, these will burn the container before heating up the external environment. Anyone who comes near it will feel the heat. Similarly, if one keeps ice in a vessel, it will first cool the vessel before cooling the external environment. This is the unchangeable law of nature.
Hãy để chúng tôi hiểu điều này tốt hơn – khi đốt than được đặt trong một thùng chứa, những thứ này sẽ đốt cháy thùng chứa trước khi làm nóng môi trường bên ngoài. Bất cứ ai đến gần nó sẽ cảm nhận được sức nóng. Tương tự, nếu người ta giữ nước đá trong bình chứa, trước tiên nó sẽ làm mát bình chứa trước khi làm mát môi trường bên ngoài. Đây là quy luật không thể thay đổi của tự nhiên.
Just like fire, when a person is angry, he first becomes the victim of his own anger before spreading vibrations of agitation and heat in the environment. All those who come in contact with this person feel the agitation. This is the expression or nature of a mind dwelling in ignorance manifesting itself. As soon as one distances oneself from the burning coals, the heat will subside.
Giống như lửa, khi một người tức giận, trước tiên anh ta trở thành nạn nhân của sự tức giận của chính mình trước khi lan truyền những rung động bất an và sự nóng giận vào trong môi trường. Tất cả những người tiếp xúc với người này đều cảm thấy sự bồn chồn bất an. Đây là biểu hiện hoặc bản chất của một tâm trí trú ngụ trong vô minh biểu hiện chính nó. Ngay khi một người giữ khoảng cách khỏi đống than đang cháy, sức nóng sẽ giảm dần.
The Sages of yore, as mentioned earlier, realized the profound truth that when any defilement like jealousy, anger, arrogance etc. arise then it will inevitably burn them. If they put burning coals in their mental vessels, then the result can’t be anything but heat and agitation. At such times they behaved this way in ignorance not realizing the immutable law of the nature; since no one in their rightful mind would want to generate burning agitation for themselves.
Các nhà hiền triết trong quá khứ, như đã nhắc đến trước đó, đã nhận ra một sự thật sâu sắc rằng khi bất kỳ phiền não nào như ghen tuông, giận dữ, kiêu ngạo, v.v. sinh ra thì chắc chắn sẽ đốt cháy họ. Nếu họ đặt đống than đang cháy trong các mạch tinh thần của họ, thì kết quả không thể là bất cứ thứ gì khác ngoại trừ sức nóng và bất an. Những lúc như vậy họ hành xử theo cách này trong vô minh không nhận ra quy luật bất biến của tự nhiên; vì không ai trong chánh niệm của họ muốn tạo ra sự bồn chồn bùng cháy chính họ.
A child in his ignorance does not know that fire burns and puts his hand on burning coals. Startled, he pulls his hand back. Curious, he again puts his hand on fire then pulls it back when it burns. This may be repeated a few times, until he finally realizes that this is fire, it burns and should never be touched.
Một đứa trẻ trong vô minh không biết rằng lửa cháy và nó đặt tay lên than đang cháy. Giật mình, đứa trẻ rút tay lại. Tò mò, đứa trẻ lại đặt tay lên lửa rồi rút tay lại khi nó cháy. Điều này có thể được lặp đi lặp lại một vài lần, cho đến cuối cùng khi đứa trẻ nhận ra rằng đây là lửa, nó cháy và không nên chạm vào.
A child understands. But what do we do? We keep filling ourselves with more and more burning coals, burning ourselves and others. Sheer ignorance! When anger, jealousy, aversion, arrogance or some such defilement arises, it keeps multiplying within filling us with thoughts of the event or the person who was instrumental in its occurrence. We justify it to ourselves by saying, ‘Such and such happened which angered me, so it was not my fault. It is only natural that I became angry’.
Một đứa trẻ hiểu biết. Nhưng chúng ta phải làm gì? Chúng ta tiếp tục lấp đầy bản thân với than đang cháy ngày càng nhiều hơn, đốt cháy chính bản thân chúng ta và những người khác. Hoàn toàn vô minh! Khi sự tức giận, ghen tuông, ác cảm, kiêu ngạo hoặc một số phiền não như vậy xuất hiện, nó sẽ tiếp tục nhân lên trong chúng ta với những suy nghĩ về sự kiện hoặc con người mà họ là công cụ xuất hiện. Chúng ta biện minh cho chính mình bằng cách nói, “Chuyện gì đó đã xảy ra khiến tôi tức giận, vì vậy đó không phải là lỗi của tôi. Chỉ là tự nhiên tôi trở nên giận dữ”.
Natural indeed! You are angry with someone or some event which obstructed you from reaching your desired goal. Maybe, but the fact also is that you are burning yourself. You have not seen the heat within. The mind is only looking outwards.
Thật tự nhiên! Bạn tức giận với ai đó hoặc một sự kiện nào đó cản trở bạn đạt được mục tiêu mong muốn. Có thể, nhưng thực tế cũng là bạn đang tự thiêu đốt bản thân mình. Bạn không nhìn thấy được sức nóng bên trong. Tâm trí chỉ nhìn được phía bên ngoài.
On the other hand, if instead of burning coals, cool ice is put in the vessel then it will result in soothing, calming coolness since ice will also follow its own nature to cool. The attributes of mind that carry cooling properties are loving-kindness, compassion, and joy in another’s happiness. All good habits have the integral nature of imparting cooling calmness to one’s self as well as to others around one.
Mặt khác, nếu thay vì than cháy nóng, đá lạnh được đặt trong bình thì nó sẽ mang lại sự mát mẻ dịu êm vì đá cũng sẽ tự nhiên làm mát. Các thuộc tính của tâm mang các đặc tính mát mẻ dễ chịu là lòng nhân ái, lòng trắc ẩn và niềm vui trong hạnh phúc của người khác. Tất cả các thói quen tốt đều có bản chất tự nhiên trọn vẹn trong việc truyền đạt sự bình tĩnh mát mẻ cho một người cũng như những người khác xung quanh mình.
The science or technique of looking within was called Vipassana in ancient India. Though one needs to be aware of external reality, to observe within was rightly considered vital for one’s mental development; to watch the reactions that arise within due to certain events is one of the most important aspects of consciousness. The day we can truly see this truth, is when we start to understand pure Dharma without any crutches.
Cái nhìn bên trong của khoa học hay kỹ thuật được gọi là Vipassana ở Ấn Độ cổ đại. Mặc dù người ta cần phải nhận thức được thực tế bên ngoài, để quan sát bên trong đã được coi là đúng đắn cho sự phát triển tinh thần của một người; để xem các phản ứng phát sinh bên trong do một số sự kiện là một trong những khía cạnh quan trọng nhất của ý thức. Ngày chúng ta thực sự có thể nhìn thấy sự thật này, là khi chúng ta bắt đầu hiểu Dharma thuần túy mà không cần bất kỳ chỗ nương tựa nào.
‘Whenever I generate defilements in my mind, it inevitably results in agitation’; one begins to understand this absolute truth. After repeatedly watching this phenomena a few times, one also learns to watch this reality objectively. Which means initially one observes the event or events that take place outside and sees those events as the cause of his anger, jealousy, animosity etc. As he matures on the path, he disengages himself from events and focuses attention on what happens within when he gets angry. He begins to see that in such situations he burns with agitation and unhappiness. As he continues to watch within and understand this fundamental reality of Dharma, his nature and behaviour starts changing. He grows deeper into Dharma.
Bất cứ khi nào tôi tạo ra phiền não trong tâm trí mình, chắc chắn sẽ dẫn đến sự bồn chồn bất an. người ta bắt đầu hiểu sự thật tuyệt đối này. Sau nhiều lần xem lại hiện tượng này một vài lần, người ta cũng học được cách xem thực tế này một cách khách quan. Điều đó có nghĩa là ban đầu người ta quan sát sự kiện hoặc những sự kiện diễn ra bên ngoài và xem những sự kiện đó là nguyên nhân của sự tức giận, ghen tuông, thù hằn của mình, v.v. . Khi người ta đã thuần thục trên con đường quan sát, người ta bắt đầu thoát ra khỏi những sự việc đang xảy ra và tập trung sự chú ý lên những gì diễn ra bên trong khi họ trở nên tức giận. Người ta bắt đầu thấy rằng trong những tình huống như vậy, họ bùng cháy với sự bồn chồn bất an và bất hạnh. Khi người ta tiếp tục quan sát bên trong và hiểu được thực tế cơ bản này của Dharma, bản chất và hành vi của người ta bắt đầu thay đổi. Người ta phát triển sâu hơn vào Dharma.
He also learns that getting muddied with defilements is not Dharma. He also sees that awakening wholesome qualities like compassion, loving-kindness and joy in others’ joy is Dharma as he experiences serenity and peace upon generating such qualities.
Người ta cũng học được rằng việc bị vấy bẩn bởi phiền não không phải là Dharma. Người ta cũng thấy rằng đánh thức những phẩm chất tốt đẹp như lòng trắc ẩn, lòng nhân ái và vui sướng trong niềm vui của người khác chính là Pháp, như khi người ta trải nghiệm sự thanh thản và bình an khi tạo ra những phẩm chất như vậy.
Dhāretīti dhammam – Dharma is that which is lived and imbibed. When one knows it at an experiential level the person becomes trulyDharmic. One knows well that if one lives with fire one will certainly burn and conversely, if one lives with ice, one will remain cool. Nothing can alter this phenomenon. This is rit, the universal law that governs all without exception; it does not differentiate between people belonging to different sects and communities, be they Hindu, Muslim or from any other community. The day we recognize this universal aspect of Dharma, that day humankind will make a quantum leap in human evolution.
Dhāretīti dhammam – Dharma là được sống và thấm nhuần. Khi một người biết điều đó ở một cấp độ kinh nghiệm, họ sẽ trở thành c sự. Người ta biết rõ rằng nếu sống với lửa, người ta chắc chắn sẽ bị bỏng và ngược lại, nếu sống với băng, người ta sẽ duy trì được sự mát mẻ. Không có gì có thể thay đổi hiện tượng này. Đây là rit, luật vũ trụ chi phối tất cả mà không có ngoại lệ; nó không phân biệt giữa những người thuộc các giáo phái và cộng đồng khác nhau, có thể là người theo đạo Hindu, Hồi giáo hoặc từ bất kỳ cộng đồng nào khác.
Ngày chúng ta nhận ra khía cạnh phổ quát này của Dharma, ngày đó loài người sẽ tạo ra bước nhảy vọt đột phá trong quá trình tiến hóa của loài người.
If one forgets this universal truth and persists in putting undue attention on external rites and rituals, then the work of self-evolution slows down, or indeed one moves further away from Dharma.
Nếu người ta quên đi sự thật phổ quát này và kiên trì đặt sự chú ý quá mức vào các nghi thức bên ngoài và nghi lễ, thì công việc tự phát triển bản thân bị chậm lại, hoặc thực sự người ta càng rời xa Dharma.
Various sects and communities have their own rites and rituals, their way of dressing, their life philosophy and respective social customs which govern their lives. There is nothing wrong with that, but these social rituals and conventions are not Dharma! Investing all his time in rites and rituals, one may fool himself thinking that he is very Dharmic; but when he probes deeper within then he may see the reality of how far he has moved away from Dharma, from wisdom and knowledge–generating defilements, growing agitated, harming himself and disturbing others’ peace.
Các giáo phái và cộng đồng khác nhau có các nghi thức và nghi lễ riêng, cách ăn mặc, triết lý sống và phong tục xã hội tương ứng chi phối cuộc sống của họ. Không có gì sai với điều đó, nhưng những nghi lễ và quy ước xã hội này không phải là Dharma! Đầu tư tất cả thời gian của mình vào các nghi thức và nghi lễ, người ta có thể tự đánh lừa mình rằng người ta rất Dharmic; Nhưng khi người ta khảo sát kỹ lưỡng sâu hơn vào bên trong thì người ta có thể thấy thực tế về việc hoc đã rời xa Dharma, từ trí tuệ và kiến thức việc tạo ra phiền não, gia tăng bất an, làm hại chính mình và làm xáo trộn sự bình an của người khác.
Dharma is, as said earlier, universal, and has but one yardstick to check whether one is growing on the path; that is to see whether defilements are decreasing. This is the simple and only yardstick to measure Dharma by. Then whichever caste, sect or class one may belong to becomes immaterial once one understands the true and universal nature of Dharma.
Dharma, như đã nói trước đó, nó mang tính phổ quát, và là một thước đo để kiểm tra xem một người có đang phát triển trên con đường hay không; đó là để xem liệu phiền não có đang giảm hay không. Đây là thước đo đơn giản và duy nhất để đo lường Dharma.
Sau đó, bất cứ đẳng cấp, giáo phái hay giai cấp nào cũng có thể trở thành phi vật chất một khi người ta hiểu được bản chất thực sự và phổ quát của Dharma.
Be Selfish In The True Sense – Hãy Nghĩ Đến Lợi Ích Bản Thân Với Ý Thức Chân Chính
True Dharma teaches us to be selfish in its true sense. A person learns to watch himself in all situations, at all times; to see what has arisen on the mind at the given moment and how has it affected him. A truly selfish man understands where his best welfare lies and works accordingly. Such ‘selfishness’ has nothing to do with selfishness as it is commonly understood, where a person may cheat and lie to protect his interests. He may appear to be benefitting himself by being selfish in those moments, but he is actually working against his interests as he is harming himself by cheating and lying. A truly selfish man works towards his best welfare by growing in Dharma.
Dhamma chân chính dạy chúng ta phải nghĩ đến lợi ích của bản thân với ý thức chân chính. Một người học cách quan sát chính mình trong mọi tình huống, mọi lúc; để xem những gì đã nảy sinh trong tâm trí tại thời điểm nhất định và nó đã ảnh hưởng đến họ như thế nào. Một người thực sự nghĩ đến lợi ích bản thân hiểu rằng phúc lợi tốt nhất của mình nằm ở đâu và hành động dựa theo điều đó. Sự ích kỷ như vậy không liên quan gì đến sự ích kỷ như người ta thường hiểu, nơi một người có thể gian lận và nói dối để bảo vệ lợi ích của mình. Người ta có thể xuất hiện có lợi cho bản thân bằng cách nghĩ cho lợi ích bản thân trong những khoảnh khắc đó, nhưng anh ta thực sự đang hành động trái với lợi ích của mình vì anh ta đang làm hại chính mình bằng cách gian lận và nói dối. Một người thực sự nghĩ đến lợi ích bản thân sẽ hành động hướng tới phúc lợi tốt nhất của mình bằng cách phát triển trong Dharma.
If virtues of loving-kindness, compassion and goodwill for all are growing in him, then he is indeed taking care of his ‘selfish’ interest. But if negative values become predominant in him, then he is harming his self-interests and going against Dharma.
Nếu những phẩm hạnh của lòng yêu thương trìu mến, lòng trắc ẩn và thiện chí đối với tất cả mọi người đang tăng lên trong bản thân một người, thì anh ta thực sự quan tâm đến lợi ích “ích kỷ” của mình. Nhưng nếu các giá trị tiêu cực trở nên chiếm ưu thế trong bản thân người đó, thì anh ta đang làm hại lợi ích cá nhân của mình và đi ngược lại với Dharma
Understanding this at an intellectual level is never enough. Hence the spiritually evolved Saints of this country exhorted others to safeguard their interests and see the truth, the reality within. Until one learns to look inside, whatever experiences one may have in the external world, will not prove to be meaningful. When one learns to explore within and see, then one discovers a true gem, one learns to live life as it is meant to be lived, meaningfully enriching oneself. Living in peace and joy, he can then be said to have learnt the art of living.
Hiểu điều này ở cấp độ trí tuệ không bao giờ là đủ. Do đó, các vị Thánh được tạo ra về mặt tinh thần của vùng này đã cổ vũ người khác bảo vệ lợi ích của họ và nhìn thấy sự thật, thực tế bên trong. Cho đến khi một người học cách nhìn vào bên trong, bất kỳ trải nghiệm nào người ta có thể có ở thế giới bên ngoài, sẽ không chứng minh được ý nghĩa. Khi một người học cách khám phá bên trong và nhìn thấy, sau đó người ta phát hiện ra một viên ngọc thực sự, người ta học cách sống cuộc sống như nó có nghĩa là được sống, làm giàu ý nghĩa cho chính mình. Sống trong bình an và niềm vui, sau đó anh ta có thể được cho là đã học được nghệ thuật sống.
Who doesn’t want this? Who indeed wants to burn in hellish fires of defilements? Of course no one does, but out of sheer force of habit, one persists in indulging in acts that make him and others around him unhappy. But when he turns his mind inwards and starts seeing within, he realises the futility of living with anxiety and agitation, making himself and others unhappy.
Ai không muốn điều này? Ai thực sự muốn đốt cháy trong lửa địa ngục của phiền não? Tất nhiên không ai muốn , nhưng vì thói quen cực đoan, người ta vẫn cố chấp trong những hành vi khiến anh ta và những người khác xung quanh không vui. Nhưng khi anh ta hướng tâm trí vào trong và bắt đầu nhìn thấy bên trong, anh ta nhận ra sự vô ích của việc sống với sự lo lắng và bất an, khiến bản thân và những người khác không hạnh phúc.
However, constantly reacting with aversion towards the unwanted, and craving towards the wanted, the change does not come about with mere discourses, as habits are deeply rooted as we have become slaves of our desires. Change must come from within. What does one do for that?
Tuy nhiên, liên tục phản ứng với sự ghét bỏ về những điều không mong muốn và sự ham muốn về những điều mong muốn, sự thay đổi không xảy ra với các bài diễn thuyết đơn thuần, vì thói quen bắt nguồn sâu sắc như chúng ta trở thành nô lệ của những ham muốn. Thay đổi phải đến từ bên trong. Người ta làm gì cho điều đó?
The Rishis of yore were seekers who explored the meaning of rit, or the law of nature, the law governing this entire universe. They did not search intellectually, externally; they searched within looking for answers. One of the ways that they found was that whenever aversion or a feeling of anger arises, one should shift one’s attention to something else; start drinking a glass of water or start counting 1-2-3-4. Shifting the attention of course proved to be helpful in making one feel better. Even starting to chant the name of one’s favourite Gods, Goddesses or one’s Guru eased up anger or negativity that may have arisen.
Các nhà hiền triết trong quá khứ là những người tìm kiếm khám phá ý nghĩa của rit, hay luật tự nhiên, luật chi phối toàn bộ vũ trụ này. Họ không tìm kiếm trí tuệ bên ngoài; họ đã tìm kiếm bên trong để tìm ra câu trả lời.
Một trong những cách mà họ tìm thấy là bất cứ khi nào sự ghét bỏ hoặc cảm giác tức giận xuất hiện, người ta nên chuyển sự chú ý của họ sang điều gì khác như bắt đầu uống một ly nước hoặc bắt đầu đếm 1-2-3-4. Thay đổi sự chú ý tất nhiên hữu ích trong việc khiến người ta cảm thấy tốt hơn. Ngay cả khi bắt đầu ngâm và tụng tên của một vị Thần, Nữ thần hay một Đạo sư yêu thích khác đã xoa dịu sự tức giận hoặc tiêu cực có thể phát sinh.
The best way however to purify oneself of defilements was to understand the fundamental law that if you defile your mind, the nature will certainly punish you, and punish without delay. Conversely, if you purify the mind with virtuous thoughts and deeds, the reward too will follow without delay. There is absolutely no delay in the nature’s response; it is but an echo of one’s own thoughts and deeds.
Tuy nhiên, cách tốt nhất để thanh lọc những phiền não của chính mình là hiểu luật cơ bản rằng nếu bạn làm ô uế tâm trí của bạn, Thiên nhiên chắc chắn sẽ trừng phạt bạn, và trừng phạt không trì hoãn. Ngược lại, nếu bạn thanh lọc tâm trí bằng những suy nghĩ và hành động đạo đức, phần thưởng cũng sẽ đến theo mà không bị trì hoãn. Hoàn toàn không có sự chậm trễ trong phản hồi của thiên nhiên; nó chỉ là một tiếng vang của những suy nghĩ và hành động của một người.
As a citizen of a nation, whichever nation one lives in, one follows its laws. If any law is broken, the punishment that is likely to follow may take time due to legal delays. One may even get away scot free and not have to suffer the consequences due to some legal error. But the law of nature or Dharma has no exceptions and no delays ever. Defilement in thought and action is automatically and immediately followed by agitation and anxiety, just as a good deed or good thought is immediately followed by the reward of peace and joy that inevitably follows. As soon as one begins to understand this at the experiential level, one’s nature and behaviour starts changing for the better.
Là một công dân của một quốc gia, bất cứ quốc gia nào mà người ta sống, người ta tuân theo luật pháp của quốc gia đó. Nếu bất kỳ luật lệ nào bị phá vỡ, hình phạt có khả năng tuân theo có thể mất thời gian do sự chậm trễ pháp lý. Người ta thậm chí có thể được miễn đóng tiền phạt và không phải chịu hậu quả do một số lỗi pháp lý. Nhưng luật tự nhiên hay Dharma không có ngoại lệ và không bao giờ có sự trì hoãn. Phiền não trong suy nghĩ và hành động được tự động và ngay lập tức theo sau bởi sự bất an và lo lắng, tương tự một hành động tốt hoặc suy nghĩ tốt ngay lập tức được theo sau là phần thưởng chắc chắn của sự bình an và niềm vui. Ngay khi người ta bắt đầu hiểu điều này ở cấp độ kinh nghiệm, bản chất và hành vi của người đó bắt đầu thay đổi để tốt hơn.
No one ever wants to live a life of misery but ignorantly one generates negativities again and again and becomes agitated. Even when the mind wanders idly, some defilements are being generated, thereby adding fuel to the burning fire within. Why does this happen?
Không ai muốn sống một cuộc sống khốn khổ nhưng trong sự thiếu hiểu biết người ta lại tạo ra những tiêu cực hết lần này đến lần khác và trở nên bất an. Ngay cả khi tâm trí lang thang nhàn rỗi, một số phiền não cũng được tạo ra, theo cách đó như tiếp thêm nhiên liệu vào ngọn lửa đang cháy bên trong. Lý do tại sao điều này xảy ra?
Listening to words of wisdom but not following them up with action is an exercise in futility. I too have performed rituals and spent years listening to discourses. These may help to awaken wisdom somewhat, but only briefly. For example, when someone near and dear has passed away and is being cremated there is always a moment of profound wisdom in us, “Oh, I too will one day end up like this on a burning pyre and nothing will accompany me, so of what use are these mindless worldly pursuits? Why be attached to this ‘I’ and this ‘mine’; why develop pride?” This is what is called ‘graveyard wisdom’, which has nothing but a temporary impact on the surface of the mind. As soon as one steps out of the cremation ground, our world with all its attachment of ‘me’ and ‘mine’ takes over.
Lắng nghe những lời nói trí tuệ nhưng không hành động theo những lời nói đó là một bài tập vô ích. Tôi cũng đã thực hiện các nghi lễ và dành nhiều năm để lắng nghe các bài giảng. Những điều này có thể giúp đánh thức trí tuệ phần nào, nhưng chỉ một thời gian ngắn. Ví dụ, khi một người thân yêu đã qua đời và đang được hỏa táng, luôn có một khoảnh khắc trí tuệ sâu sắc trong chúng ta, Ồ, một ngày nào đó tôi cũng sẽ như thế này trên một giàn thiêu và không có gì sẽ đi cùng tôi, vì vậy những theo đuổi trần tục là gì? Tại sao lại gắn liền với này “tôi” và “của tôi” Tại sao phát triển niềm tự hào? Đây là thứ được gọi là nghĩa địa khôn ngoan, không có gì ngoài tác động tạm thời trên bề mặt của tâm trí. Ngay khi bước ra khỏi khu vực hỏa táng, thế giới của chúng ta với tất cả sự gắn bó của nó ’me và‘ mine, tiếp tục.
It has also been my experience, and that of thousands of others, that those who come here for mere intellectual analysis and understanding return empty handed. One may contemplate, “Oh, what is being said is so true! I should not defile my mind with negativities as it only makes me unhappy. Instead I should generate goodwill that contributes to my happiness and the happiness of others.” This effect on the listener is lost since no action follows which will change the old behaviour pattern of the mind.
Đó cũng là kinh nghiệm của tôi, và của hàng ngàn người khác, rằng những người đến đây chỉ để phân tích trí tuệ và hiểu biết trở về tay không. Người ta có thể suy ngẫm, “Ồ, những gì đang được nói là rất đúng! Tôi không nên làm ô uế tâm trí của tôi với những tiêu cực vì nó chỉ làm cho tôi không vui. Thay vào đó tôi nên tạo ra thiện chí đóng góp cho hạnh phúc của tôi và hạnh phúc của người khác. Hiệu ứng này đối với người nghe bị mất vì không có hành động nào theo sau điều này sẽ thay đổi mô hình hành vi cũ của tâm trí.
At times we may immerse ourselves in bhajans (religious songs), or japas (chants), or some other religious ritual, which all give some peace of mind making us feel good for a while. But this feeling too is short lived.
Đôi khi chúng ta có thể đắm mình trong bhajans (bài hát tôn giáo), hoặc japas (tụng kinh), hoặc một số nghi lễ tôn giáo khác, tất cả đều mang lại sự bình an trong tâm trí khiến chúng ta cảm thấy tốt trong một thời gian. Nhưng cảm giác này quá ngắn ngủi.
Levels Of The Mind – Cấp Độ Của Tâm
In ancient times, the surface level of the mind was called parita citta, which means a small part of the mind. Whether this part of the mind generates positive or negative thoughts is of no relevance since the message that we give to our minds at this level barely penetrates the deeper mental level, if at all. It is in the inner part of the mind, the larger part of the mind, the subconscious mind, where the same old pattern of ignorance and darkness prevails. An unpleasant experience instantly results in a reaction of aversion and negativity. And a pleasant experience instantly results in a reaction of craving and attachment. This has been its nature for innumerable lifetimes.
Vào thời cổ đại, cấp độ bề mặt của tâm trí được gọi là parita citta, có nghĩa là một phần nhỏ của tâm trí. Cho dù phần này của tâm trí tạo ra những suy nghĩ tích cực hay tiêu cực đều không liên quan vì thông điệp mà chúng ta đưa ra cho tâm trí của chúng ta ở cấp độ này hầu như không thâm nhập vào cấp độ tinh thần sâu sắc hơn, nếu có. Đó là trong phần bên trong của tâm trí, phần lớn hơn của tâm trí, tiềm thức, nơi cùng một mô hình cũ của vô minh và bóng tối chiếm ưu thế. Một trải nghiệm khó chịu ngay lập tức dẫn đến một phản ứng ghét bỏ và tiêu cực. Và một trải nghiệm thú vị ngay lập tức dẫn đến một phản ứng của sự ham muốn và chấp trước. Đây là bản chất của nó cho vô số kiếp.
One may not believe in many lifetimes, yet he or she certainly believes in the existence of this lifetime and can see clearly that since early childhood one has been reactive. One also sees that whenever something undesirable takes place, or something desired does not take place, then aversion and agitation arise as an inevitable result. One has to come out of this.
Người ta có thể không tin vào nhiều kiếp sống, nhưng anh ta hoặc cô ta chắc chắn tin vào sự tồn tại của cuộc đời này và có thể thấy rõ rằng từ khi còn nhỏ, người ta đã có phản ứng. Người ta cũng thấy rằng bất cứ khi nào điều gì đó không mong muốn xảy ra, hoặc điều gì đó mong muốn không xảy ra, thì sự ghét bỏ và bất an sẽ xuất hiện như một kết quả không thể tránh khỏi. Người ta phải thoát khỏi điều này.
Meeting Vinobaji / Gặp Vinobaji
In 1972, three years after my return to India from Burma (Myanmar), a Vipassana camp was held at Mahatma Gandhi’s Sevagram Ashram in Wardha. The people there encouraged me to meet the saintly person Vinoba Bhave who lived nearby in Pawnar Ashram. I was pleased to hear he was nearby, and so I went to meet him. I told him about Vipassana saying that it was an ancient meditation technique of India. Vinobaji said, “Yes it is certainly an ancient teaching of India. The Rigveda is filled with words of praise for Vipassana.” Then he recited and later sent to me a written note with a couplet from the Rigveda on Vipassana which said:
Năm 1972, ba năm sau khi tôi trở về Ấn Độ từ Burma (Myanmar), một trại thiền Vipassana được tổ chức tại Ashram Sevagram của Mahatma Gandhi ở Wardha. Mọi người ở đây cổ vũ tôi đến gặp vị Thánh Vinoba Bhave người sống gần Pawnar Ashram. Tôi lấy làm vui mừng khi được biết ông ấy ở gần đó, và tôi đã đến gặp ông. Tôi nói với ông về Vipassana một kỹ thuật thiền cổ xưa của Ấn Độ. Vinobaji nói rằng, “Vâng chắc chắn đó là một lời dạy cổ xưa của Ấn Độ. Kinh Rigveda đầy những lời ngợi ca Vipassana.” Sau đó ông ấy ngâm và một lát đưa cho tôi một mẫu giấy của một câu thơ từ kinh Rigveda về Vipassana nó là rằng:
‘Yo vishwabhi vipassati, bhuvana. Sam cha passati, sa naha parshadati dvishaha’.
–Yo vishwabhi vipassati – Having turned his face away (abhimukh) from the world, he then practices Vipassana. The word vishwa that is used here means the world in today’s language. But thousands of years ago, vishwa meant that which keeps multiplying (vishadikaran) and growing. For instance, if a negativity is generated within, then it is not a momentary happening. Once it arises it keeps growing, burning within for hours – be it passion, anger, fear, arrogance or any other negativity. It keeps growing and multiplying.
–Yo vishwabhi vipassati –Có nghĩa là quay mặt đi (abhimukh) khỏi thế giới, sau đó anh ta thực hành Vipassana. Từ vishwa được dùng ở đây theo ngôn ngữ hiện tại ngày nay. Nhưng hàng ngàn năm trước, vishwa có nghĩa là làm nhân lên nhiều lần (vishadikaran) và tăng trưởng. Do vậy, nếu một tiêu cực được sinh ra bên trong, sau đó nó không chỉ xảy ra ở giây phút hiện tại. Mỗi khi nó khởi lên nó vẫn tăng trưởng, thiêu đốt người đó trong nhiều giờ- nó có thể là đam mê, tức giận, sợ hãi, vô minh hay bất kỳ các tiêu cực nào. Nó vẫn tăng trưởng và nhân lên nhiều lần.
If a wise person, through the practice of Vipassana, observes the fact that something has arisen within, then he becomes aware of it just as it is with no effort to change it. If anger has arisen, he just acknowledges that anger has arisen. He does not make an effort to push it away, because then it will only multiply. One will start remembering the reason for one’s anger and begin justifying it and so on, and it will continue to multiply. It is important just to be aware, to know that at this moment anger has arisen, negativity has arisen and to observe it objectively with complete awareness and equanimity; this is Vipassana. Continuing this practice, one goes beyond all negativities – sa naha parshadati dvishaha. Negativity cannot remain in the mind of such a person
Nếu một người thông thái, thông qua thực hành Vipassana, họ quan sát sự kiện rằng điều gì đó đang khởi lên bên trong, sau đó anh ta nhận ra rằng nó chỉ như là nó không có nỗ lực để thay đổi nó. Nếu nóng giận khởi lên, anh ta chỉ nhận biết rằng cơn giận đang khởi lên. Anh ta không nỗ lực để đẩy nó đi, vì khi đó nó chỉ đang nhân lên nhiều lần. Người đó sẽ bắt đầu nhớ lại lý do mà họ tức giận và bắt đầu điều chỉnh và như thế, và nó sẽ tiếp tục nhân lên. Điều quan trọng là chỉ nhận biết, và biết rằng giây phút này cơn giận đang khởi lên, điều tiêu cực khởi lên và phải quan sát nó một cách khách quan với sự ý thức hoàn toàn và tâm quân bình; đây chính là Vipassana. Tiếp tục thực hành, người đó vượt ra ngoài mọi tiêu cực – sa naha parshadati dvishaha.Tiêu cực không còn tồn tại trong tâm một người như thế.
Ancient Knowledge / Tri thức cổ xưa
How unfortunate such a priceless, ancient practice of India remained alive merely in empty chatter, its practice totally lost. That is why when one of the Fully Enlightened Ones of this ancient land, Gotama the Buddha, rediscovered it 2600 years ago he said:
Thật không may là một phương pháp vô giá, cổ xưa của Ấn Độ chỉ còn sót lại đơn thuần trong một chiếc vỏ trống rỗng, việc thực hành hoàn toàn bị mất đi. Đây là lý do tại sao khi một trong những Vị Toàn Giác của vùng đất cổ này, Đức Phật Gotama, tái khám phá ra kỹ thuật này 2600 trước, ngài đã nói:
‘Pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ….. ‘
Through this Dhamma which was never heard before by me my eyes of wisdom have opened. How was it possible that he had never heard of this? His father, King Shuddhodhana, had taught him all the scriptures of those times. While studying he must have come across the couplets of the Rigveda. Then why did he make such a statement? Certainly he was not lying! In regards to Vipassana in particular, he had said that over the centuries the meaning of the words describing the practice had changed since the practice had died out. Hence these words were not understood at the experiential level. Without practice, when the true meaning of these words changed, then the way to live the life of Dhamma was lost. Only mantras remained. People were just told to recite a particular mantra and then their agitation would dissolve. How this was possible was not explained. People were not taught the way to go within to observe whatever arises, as it is, with equanimity, without any judgement. They were also not told that as you observe what is happening in its true nature then the impurities slowly start dissolving, dissipating, and reality becomes clear.
Thông qua Dhamma này điều ta chưa từng nghe trước đó đôi mắt trí tuệ của ta đã mở ra. Làm thế nào mà ngài chưa nghe về điều này? Cha ngài, Quốc Vương Shuddodhana, đã dạy ngài tất cả các kinh văn vào thời đó. Trong khi học tập ngài chắc phải lướt qua những câu thơ của Rigveda. Sau đó tại sao ngài lại tuyên bố như vậy? Chắc chắn ngài không nói dối! Đối với riêng Vipassana, ngài đã nói qua nhiều thế kỷ nghĩa của những từ mô tả việc thực hành đã thay đổi từ khi việc thực hành mất đi. Vì lý do này những từ kia không thể hiểu được ở mức độ kinh nghiệm. Do việc không thực hành, nên ý nghĩa thực sự của những từ này thay đổi, sau đó cách sống một cuộc sống của Dhamma bị mất đi. Chỉ còn lại những mantra. Người ta chỉ được bảo phải tụng niệm những mantra riêng biệt và sau đó những kích động của họ sẽ tiêu tan. Cách điều đó xảy ra không được giải thích. Người ta không được dạy con đường đi vào bên trong để quan sát bất cứ điều gì sinh ra, như nó là, với sự quân bình, không phán xét. Họ cũng không được bảo là hãy quan sát điều xảy ra trong chính bản chất thực sự của nó sau đó những bất tịnh dần sẽ bị tiêu tan, biến mất, và sự thật trở nên rõ ràng.
This ancient, invaluable knowledge of India was totally lost. When it reappeared, it blessed this country for 500 years with its teachings. This state of Maharashtra in central India was particularly blessed as the practice continued here for another 200 years. So for 700 years Vipassana remained vibrant and alive in this region. The numerous caves around here, where people meditated, are witness to this fact. However, gradually rites and rituals took precedence and the Dhamma was again lost.
Tri thức cổ xưa, vô giá của Ấn Độ đã hoàn toàn biến mất. Khi nó được xuất hiện một lần nữa, nhờ phúc lành của quốc gia này khoảng 500 năm. Bang Maharashtra ở vùng Trung Ấn được phúc lành để việc thực hành tiếp tục nơi đây cho đến 200 năm sau. Trong 700 năm Vipassana vẫn còn lưu lại rung động và hiện diện sống động trong vùng đất này. Vô số hang động quanh đây, nơi những hành giả ngồi thiền, đã chứng ngộ sự thật này. Tuy nhiên, dần dần các nghi lễ và nghi thức tôn giáo đã chiếm ưu thế và Dhamma lại mất đi một lần nữa.
What indeed is Dhamma? Teachings on how to purify the mind are Dhamma. When the mind is purified then one can truly live the life of Dhamma. Whenever the mind is defiled, then any action, be it at the physical or vocal level, will be unsuitable. And when the mind is purified then one need not worry, as actions that are carried out by a wholesome, balanced mind result in peace and joy. This is not obtained by any magic or miracle, one has to be disciplined and really work at it to obtain results.
Vậy Dhamma chân thật là gì? Lời dạy về cách thanh lọc tâm là Dhamma. Khi tâm được thanh lọc thì người đó có thể thực sự sống một cuộc đời Dhamma. Mỗi khi tâm bất tịnh, thì bất cứ hành động nào, ở cấp độ thân hoặc lời nói, sẽ không đúng. Và khi tâm được thanh lọc người đó không cần lo lắng, những hành động sẽ được thực hiện bởi một tâm lành mạnh, cân bằng là kết quả của an lạc và yên vui. Đây không chứa bất kỳ sự phép thuật hay sự diệu kì nào, người đó phải kỷ luật và sẵn sàng làm việc để đạt được kết quả.
After sitting a 10 day Vipassana course, if a person believes that he has understood Dhamma so well that he will no longer experience anger or any other negativity, then he is only fooling himself, as he has just initiated the process. As one makes an effort to start living a wholesome Dhamma life, gradually a positive change will take place.
Sau khi ngồi một khóa thiền Vipassana mười ngày, nếu một người tin rằng người đó hiểu Dhamma rất rõ anh ta sẽ không còn giận dữ hay bất kì tiêu cực nào, khi đó anh ta chỉ đang tự lừa mình, anh ta chỉ mới ở điểm đầu của tiến trình. Vì thế người đó cần nỗ lực để sống một cuộc đời Dhamma lành mạnh, dần dần thay đổi tích cực sẽ đến.
Dhamma in Prison / Dhamma trong tù
True Dhamma, as mentioned in this talk, is for all. Vipassana camps are conducted in prisons for prisoners who have broken the country’s laws. As a consequence they are suffering punishment, kept away from their families and the comforts of home. They are already agitated and then they generate further agitation by an unwholesome flow of thoughts such as, “That fellow was a witness against me during my court trial resulting in my incarceration in prison, so the first thing I will do upon my release is to go and kill him. Then I will also take revenge against the judge who gave this judgement against me.”
Dhamma chân chính, nhưng được nói ở bài nói trên, là cho tất cả. Các trại thiền Vipassana được thực hiện trong tù dành cho các tù nhân phạm tội. Như một kết quả người đó phải chịu trừng phạt, họ phải rời xa gia đình và mái ấm. Họ thật sự bị kích động và khi họ tạo ra nhiều kích động hơn bằng những dòng suy nghĩ không thiện lành như là, “Tên kia là người đã làm chứng chống lại tôi trong phiên xét xử làm tôi bị tống giam vào ngục, do vậy điều đầu tiên tôi làm khi được thả ra là tìm và giết chết hắn. Sau đó tôi cũng sẽ tấn công tên chánh án đã tuyên án tôi.”
Have you ever witnessed what happens whenever such thoughts of anger and animosity flow within your mind? You can see this clearly when you practice Vipassana. When Vipassana is practiced in prisons the prisoners realize, “Oh, whenever I generate negative and hate filled thoughts I become so agitated! Already one avenue of agitation exists due to my imprisonment, and now I have created one more avenue of misery. What a folly! The court of the country has already given me a punishment. Now due to my unhappy reaction the nature too is punishing me. I am only multiplying my unwholsome thought processes, making myself more miserable.”
Bạn có bao giờ chứng kiến mỗi khi những suy nghĩ giận dữ và thù oán như thế tuôn chảy trong tâm ? Bạn có thể thấy rõ ràng điều này khi bạn thực hành Vipassana. Khi Vipassana được thực hành trong tù những tù nhân nhận ra, “Ồ, mỗi khi tôi tạo ra tiêu cực và ghét bỏ đầy ắp trong ý nghĩ tôi trở nên thật kích động! Thực sự có một dòng chảy kích động tồn tại do tôi bị giam cầm, và bây giờ tôi tạo ra nhiều hơn một con đường đau khổ. Thật ngu ngốc! Tòa án của quốc gia phải tuyên án trừng phạt tôi. Bây giờ vì phản ứng bất hạnh của mình tự nhiên cũng đang trừng phạt tôi. Tôi chỉ đang nhân lên những tiến trình suy nghĩ không lành mạnh, gây cho tôi thêm nhiều đau khổ.”
Once there happened to be a Dhamma emperor in our country who would teach criminals and others the process of self observation, as he knew that this would bring about a change in them. As a result, changes indeed started taking place in the country’s prisons. Today criminals say that they were lucky to come in touch with Vipassana and be encouraged by the prison authorities to attend a Vipassana course. Who knows if they would have taken this initiative if they were out in the world. To this we say, those who are out in the world are also actually imprisoned. Everyone is imprisoned by his or her own defilements and anxiety, imprisoned by their own behaviour. Indeed we are so imprisoned by our behaviour pattern of reaction, that even a minor event which occurs against our wishes gives rise to aversion, which further gives rise to anxiety and agitation.
Trước kia đã có một vị Hoàng đế Dhamma ở quốc gia chúng ta người dạy tội phạm và những kẻ khác tiến trình tự quan sát, vì ông ấy biết rằng tiến trình này sẽ thay đổi họ. Và kết quả là, thay đổi thực sự bắt đầu trong những nhà tù. Ngày nay, tội phạm bảo rằng họ may mắn vì được biết đến Vipassana và được khuyến khích bởi những quan chức cai tù để tham dự khóa thiền Vipassana. Ai biết được nếu họ sẽ mang sáng kiến này nếu họ được thả ra. Theo cách này chúng tôi nói rằng, ai đang ở ngoài thế giới ngoài kia cũng thực sự đang bị cầm tù. Mọi người bị cầm tù bởi chính những bất tịnh của anh ta hoặc cô ta và sự sợ hãi, bị cầm tù bởi chính hành vi của mình. Thực sự chúng ta đang bị cầm tù bởi chính những khuôn mẫu thói quen phản ứng của chính mình, thậm chí chỉ một sự kiện không quan trọng trái với ước muốn của chúng ta cũng gây nên sự ác cảm, và xa hơn nó làm khởi nên sự bất an và kích động.
Who is responsible for this state of affairs? Will prayers to this or that God help? If we keep creating difficult situations for ourselves and expect someone else to rescue us, it will not work. We must remember the exalted qualities of whichever God or Goddess, Brahma or Saint we have faith in and make an effort to start awakening them within. Developing their virtues is the hallmark of sincere faith.
Ai chịu trách nhiệm cho tình huống này ? Liệu những người cầu nguyện có trách nhiệm hay trông chờ giúp đỡ của Thượng Đế ? Nếu chúng ta vẫn cứ tạo ra những tình huống khó khăn cho chính chúng ta và hy vọng ai đó sẽ cứu rỗi đời mình, điều này không có tác dụng. Chúng ta phải ghi nhớ những phẩm chất cao quý của bất kỳ vị thần Nam hay vị thần Nữ, Bà La Môn hay Thánh nhân và chúng ta phải có lòng tin và nỗ lực để bắt đầu đánh thức những phẩm tính bên trong đó. Phát triển đạo đức của những vị ấy là dấu ấn của đức tin thành kính.
Leading a life of true morality is the life of Dhamma and a life lived with unwholesome behaviour is a non-dhammic life. This understanding inspires a person to start living a pure life. It is for one’s own welfare since one cannot generate negative actions at the physical level or vocal level without first generating unwholesome thoughts in one’s mind.
Hướng đến sống một cuộc đời đạo đức thực sự là một đời sống Dhamma và một đời sống đầy những hành vi không lành mạnh không phải là một đời sống dhamma. Hiểu biết này là động lực cho người đó bắt đầu một cuộc đời trong sạch. Điều này lợi lạc cho chính họ vì họ không thể tạo ra những hành động tiêu cực ở cấp độ thân hoặc khẩu mà trước tiên không tạo ra những suy nghĩ không lành mạnh trong tâm.
A human being is a social being. If he or she lives a wholesome life then peace and joy will prevail in society. What are wholesome acts? To refrain from killing, stealing, sexual misconduct, speaking lies to cheat someone, speaking harshly or gossiping about someone, and indulging in alcohol and drugs. One also begins to understand why one should not perform violent acts after coming in contact with Vipassana.
Con người là một cá thể của xã hội. Nếu anh ta hay cô ta sống một cuộc đời lành mạnh khi đó an lạc và niềm vui sẽ chiếm ưu thế trong xã hội. Những hành động lành mạnh là gì? Là tránh xa việc giết hại, trộm cắp, tà hạnh, nói dối để lừa gạt người khác, nói những lời cay nghiệt hoặc đồn đãi về người khác, và dính vào các chất rượu cồn và ma túy. Người đó cũng bắt đầu hiểu rằng tại sao một người không nên gây ra những hành động vũ lực sau đến với Vipassana.
Vipassana is a potent means to discipline the mind so that one can learn to live a wholesome life. Just as one needs to do some exercise or pranayama to keep the body healthy and full of energy, so also the practice of Vipassana helps in disciplining the mind in order to control it and turn it towards a Dhamma way of life. Vipassana is totally result oriented and its practice leads one towards a happy and peaceful life.
Vipassana là phương tiện mạnh mẽ để kỷ thuật tâm và do đó người đó có thể học cách sống một cuộc đời lạnh mạnh. Giống như người đó cần vài bài tập thể chất hoặc bài tập thở pranayama để giữ cơ thể khỏe mạnh và tràn đầy năng lượng, cũng vậy thực hành Vipassana giúp kỷ luật tâm nhằm kiểm soát tâm và hướng nó trở về đời sống Dhamma. Vipassana cũng hoàn toàn dẫn đến kết quả và thực hành giáo pháp hướng con người đến một cuộc sống hạnh phúc và an lạc.
May all who have come to today’s Dhamma gathering understand Dhamma deeply and make an effort to live the life according to its tenets. May you all be happy. May you all be liberated.
Nguyện cho tất cả ai đến Dhamma ngày hôm nay cùng hiểu được Dhamma sâu sắc và nỗ lực để sống một cuộc đời theo giáo pháp. Nguyện cho tất cả hạnh phúc. Nguyện cho tất cả giải thoát.
Nguồn VRIDhamma.org