Sīla: The Foundation of Dhamma – Sīla: Nền tảng của Dhamma
(The following discourse is adapted from the third in a series of 44 public talks broadcast on Zee TV)
(Pháp thoại dưới đây được trích từ bài thứ ba trong chuỗi 44 bài nói chuyện trước công chúng được phát sóng trên Zee TV)
To learn Vipassana, the technique of purification of the mind, it is necessary to go to a Vipassana meditation centre. This technique can be learnt only in a conducive atmosphere. If one wants to learn to read and write, one has to enrol in a school. To keep the body healthy and strong, one has to go to a gymnasium. To learn yoga and prānāyāma, one has go to a yoga school. Similarly, to learn this Vipassana technique, the quintessence of the Buddha’s teaching, one has to go to a Vipassana meditation centre. It is not necessary to stay in a school or gymnasium or yoga school day-and-night. It is sufficient to learn the technique and then to practise it at home. But to learn the technique of Vipassana, at least in the beginning, one has to stay in the meditation centre for ten days.
Để học Vipassana, kỹ thuật thanh lọc tâm, điều cần thiết là đến một trung tâm thiền Vipassana. Kỹ thuật này chỉ có thể được học trong một môi trường có lợi. Nếu ai đó muốn học đọc và viết, người đó phải đến trường học. Để giữ cơ thể khỏe mạnh và mạnh mẽ, người đó phải đến phòng tập. Để học yoga và prānāyāma (phương pháp thở trong yoga), người đó phải đến trường dạy yoga. Tương tự thế, để học kỹ thuật Vipassana, tinh túy của lời dạy Đức Phật, người đó phải đến trung tâm thiền Vipassana. Không cần thiết phải ở lại trường hoặc phòng tập hoặc trường yoga cả ngày lẫn đêm. Những kỹ thuật đó đủ để học và sau đó thực hành tại nhà. Nhưng để học kỹ thuật của Vipassana, ít nhất từ khi bắt đầu, người đó phải ở lại trung tâm thiền trong mười ngày.
If the purpose of meditation is merely to concentrate the mind, one may learn a meditation technique based on a mantra or an image as an object of concentration from some guru and practice it at home. Such a technique may calm the mind, concentrate the mind, and may even purify the surface level of the mind. But Vipassana does not merely purify the surface part of the mind. It is a deep surgical operation of the mind and purifies the mind at the deepest level, where defilements arise and multiply. These are defilements that one has accumulated in the depth of the mind over innumerable lifetimes. Those who do not believe in past lives have accumulated so many defilements even in this lifetime. The mind has become a prisoner of the habit-pattern of generating defilements in the depth of the mind. It is such a great bondage. One has to liberate the mind from this bondage and change its nature of continuously generating defilements. A deep surgical operation of the mind is needed to achieve this purpose.
Nếu mục đích của việc hành thiền chỉ đơn thuần là định tâm, người đó có thể học kỹ thuật thiền dựa trên một mantra (câu chú) hoặc một tưởng tượng như một đối tượng tập trung từ vài đạo sư và thực hành tại nhà. Một kỹ thuật như thế có thể làm bình ổn tâm, định tâm và thậm chí có thể thanh lọc được tầng lớp bề mặt của tâm. Nhưng Vipassana không đơn thuần là thanh lọc phần tầng lớp bề mặt của tâm. Đây là cuộc giải phẫu sâu trong tâm và thanh lọc tâm ở mức độ sâu thẳm nhất, nơi các tầng lớp bất tịnh khởi lên và nhân lên. Những bất tịnh này được một người tích lũy trong nơi sâu nhất của tâm qua vô số kiếp. Những người không tin vào kiếp quá khứ đã tích lũy vô số bất tịnh theo thời gian. Tâm trở thành tù nhân của khuôn mẫu thói quen tạo các bất tịnh ở tầng lớp sâu trong tâm. Thật là một sự ràng buộc to lớn. Người đó phải giải phóng tâm khỏi sự ràng buộc này và thay đổi bản chất của những bất tịnh liên tục được tạo ra. Một cuộc giải phẫu sâu trong tâm là cần thiết để đạt mục đích này.
When one becomes physically ill, one goes to a hospital that is clean and hygienic. If surgery is necessary, one has to go to an operation theatre that is completely sterile. Vipassana is a serious operation on the mind. Therefore, one can learn it properly only in an atmosphere that is free from any kind of pollution not only from atmospheric pollution but also from the pollution generated by the defilements of the mind.
Khi ai đó bị bệnh về thể chất, người đó đến bệnh viện nơi sạch sẽ và vệ sinh. Nếu phẫu thuật là cần thiết, người đó phải đến phòng phẫu thuật hoàn toàn vô trùng. Vipassana là một cuộc giải phẫu tâm nghiêm túc. Do đó, người đó có thể học nó một cách phù hợp chỉ trong một môi trường không có bất kỳ ô nhiễm nào không chỉ những ô nhiễm từ môi trường mà còn ô nhiễm tạo ra từ tầng lớp bất tịnh của tâm.
These Vipassana meditation centres have existed since ancient times and also exist today. The environment in a centre is kept very pure. There is abundant greenery, and no physical pollution of any kind. There is peace, silence and an atmosphere conducive for meditation. And most importantly, there is no activity of any kind other than Vipassana in these meditation centres. As only Vipassana is practiced, the entire centre vibrates with the vibrations of pure Dhamma. So it is an ideal place to go for the first surgical operation on the mind. In addition, there are experienced and authorised people in a Vipassana centre who assist in this operation, in teaching this technique. It is not proper to try to learn this technique on one’s own.
Những trung tâm thiền Vipassana tồn tại từ thời cổ xưa và các trung tâm tồn tại ngày nay. Môi trường trong trung tâm được giữ thật thanh tịnh. Có nhiều cây xanh, và không có bất kỳ ô nhiễm vật lý nào. Môi trường đầy an lạc, im lặng và có lợi cho việc hành thiền. Và điều quan trọng nhất, không có hoạt động khác ngoài Vipassana ở các trung tâm. Khi chỉ có Vipassana được thực hành, toàn thể trung tâm rung động với tần số Dhamma tinh khiết. Do vậy đó là nơi lý tưởng để đến giải phẫu cho tâm lần đầu. Hơn thế, nơi đây có các vị thầy có kinh nghiệm và được ủy quyền để phụ tá cho cuộc giải phẫu này, trong việc giảng dạy kỹ thuật này. Sẽ không phù hợp nếu cố tự học kỹ thuật này.
Vipassana is not complicated; it is a very simple technique. One may get the impression that one can start practicing it after merely listening to such discourses or reading a book. But I wish to caution you. Vipassana is an extremely serious task, an extremely delicate task. Once, at least for the first time, one should learn this technique in a conducive atmosphere for ten days, under the guidance of some knowledgeable, experienced, authorised person. After that, everyone is one’s own master.
Vipassana không phức tạp; kỹ thuật rất đơn giản. Một người có thể bị ấn tượng khi người đó có thể thực hành kỹ thuật chỉ sau khi đơn thuần lắng nghe bài pháp thoại hoặc đọc sách. Nhưng tôi xin lưu ý với bạn. Vipassana là một công việc cực kỳ nghiêm túc, một công việc cực kỳ khó khăn. Một lần nữa, tối thiểu trong lần đầu, người đó nên học kỹ thuật này trong môi trường có lợi trong mười ngày, dưới sự hướng dẫn của những vị thầy có hiểu biết, có kinh nghiệm và được ủy quyền. Sau tất cả, vị thầy của bạn là chính bạn.
At home, it is not possible to meditate continuously for long hours. Therefore, the operation is not as deep at home. After learning Vipassana at a centre, one can practice Vipassana in the morning and evening at home. Whenever the need arises for another deep operation on the mind, one can again go to a Vipassana centre.
Tại nhà, không thể thiền liên tục trong nhiều giờ. Do đó, cuộc giải phẫu không thể sâu khi ở nhà. Sau khi học Vipassana ở trung tâm, người đó có thể thực hành Vipassana vào buổi sáng và tối tại nhà. Bất cứ khi nào những nhu cầu khởi lên cần đến một cuộc giải phẫu tâm sâu khác, người đó có thể trở lại trung tâm Vipassana một lần nữa.
There is one more reason why Vipassana should be learnt in a meditation centre. The aim of the technique is to develop a pure mind. So during the ten days when Vipassana is being learnt in the centre, one practices sīla (morality) without breaking it in any way: one does not kill, one does not commit sexual misconduct but maintains celibacy for ten days, one does not lie, one does not steal, one does not take any kind of intoxicant.
Một lý do khác tại sao nên Vipassana nên học ở trung tâm thiền. Mục đích của phương pháp là phát triển tâm thanh tịnh. Do vậy trong suốt thời gian mười ngày khi Vipassana đã được học tại trung tâm, người đó thực hành sīla (đạo đức) và không vi phạm nó theo bất kỳ cách nào: người đó không giết hại, người đó không phạm tà hạnh vẫn giữ sự độc thân trong 10 ngày, họ không nói dối, họ không trộm cắp, họ không dùng bất kỳ thuốc gây say/nghiện nào.
One understands that in order to live a life of morality, one has to gain control over the mind. If one cannot control the mind, how can one become virtuous? But one can learn this technique only while living a life of morality. So a great difficulty arises. To live a life of morality one has to gain control over the mind. The mind has to be purified. To master the mind, to purify the mind, one’s life has to be a life of morality. Should one keep the horse in front or the cart in front? Should morality come first or should concentration and purification of mind come first?
Họ hiểu rằng để sống một cuộc đời đạo đức, người đó phải làm chủ tâm. Nếu một người không làm chủ được tâm, làm thế nào người đó có thể trở nên đạo đức? Nhưng người đó có thể học kỹ thuật này chỉ khi sống một cuộc đời đạo đức. Do vậy một vấn đề khó sinh ra. Để sống một cuộc đời đạo đức người đó phải làm chủ tâm. Tâm phải được thanh lọc. Để làm chủ tâm, để thanh lọc tâm, cuộc đời người đó phải là một cuộc đời đạo đức. Người đó nên để con ngựa ở phía trước hay chiếc xe ở phía trước ? Đạo đức nên đến trước hay sự tập trung và thanh lọc tâm đến trước ?
To solve this problem, the wise teachers of our country established this tradition of going to a meditation centre to learn Vipassana. One is able to practice all the five sīlas there, meaning one does not do any vocal or physical action that disturbs the peace and harmony of others. One should not do any action that causes harm to others. How? The atmosphere of the meditation centre, the discipline and heavy daily programme of a ten-day course is such that it is easy to maintain sīla. The student is so busy from four o’clock in the morning to nine o’clock at night that there is no opportunity to break sīla. In order to avoid lying and wrong speech, the meditation centre has one more rule: for the duration of the course one must maintain silence. There should be no communication with fellow students. Of course, one may talk to the teacher or guide to seek clarification about the technique, or speak to the management about any material problems. However, even while talking to them, one should remain very attentive not to break one’s sīla. One should not exaggerate or hide anything. In this way, even the sīla of not telling lies can be easily maintained during the course.
Để giải quyết vấn đề này, những vị thầy thông thái của đất nước chúng tôi đã thiết lập truyền thống này là sẽ đến trung tâm thiền để học về Vipassana. Thiền sinh có thể thực hành tất cả năm sīla ở đây, có nghĩa là người đó không làm bất kỳ hành động bằng lời nói hay cử chỉ để gây phiền nhiễu đến an lạc và hòa hợp của người khác. Bằng cách nào ? Không trí của trung tâm thiền, các kỷ luật và cũng như chương trình hằng ngày dày đặc của khóa thiền mười ngày là để dễ dàng gìn giữ sīla. Thiền sinh rất bận rộn từ bốn giờ sáng đến chín giờ tối và không có cơ hội phá vỡ sīla. Để tránh nói dối và lời nói không đúng, trung tâm thiền có một quy tắc nữa: trong suốt thời gian khóa thiền người đó phải giữ im lặng. Sẽ không có giao tiếp giữa các thiền sinh. Dĩ nhiên, thiền sinh có thể nói chuyện với thiền sư hoặc người hướng dẫn để giải đáp thắc mắc về kỹ thuật thiền, hoặc nói với ban quản lý về bất kỳ vấn đề nhu yếu nào. Tuy nhiên, thậm chí khi nói với họ, người đó vẫn rất duy trì chú tâm để không phá vỡ sīla. Người đó không nên cường điệu hoặc che giấu bất cứ thứ gì. Theo cách này, thậm chí sila về không nói dối có thể giữ gìn dễ dàng trong suốt khóa thiền.
So sīla is maintained perfectly. The work of learning the technique begins on this foundation of perfect sīla. If the student works as instructed, progress is certain. But if the foundation of sīla is missing, the student will not progress.
Do sīla được giữ gìn hoàn hảo. Việc học kỹ thuật bắt đầu từ nền tảng sīla hoàn hảo. Nếu thiền sinh làm việc như hướng dẫn, sự tiến bộ là chắc chắn. Nhưng nếu nền tảng sīla bị mất đi, thiền sinh sẽ không tiến bộ.
During the time of the Buddha, there were many teachers, like some teachers today, who told their students, “What is the need for morality? Do whatever you wish to do. Enjoy yourself without restraint, indulge in sensual pleasures. Even then, I shall teach you a meditation technique that will give bliss!” Such so-called spiritual teachers attracted big crowds. People are always looking for the easy way out. If they can get exemption from the need for morality and still get bliss, what more do they want?
Trong suốt thời Đức Phật, có nhiều vị thầy, giống như vài vị thầy ngày nay, họ nói với đệ tử,” Cần gì đến đạo đức ? Hãy làm bất cứ điều gì bạn muốn. Tận hưởng bản thân không cần đè nén, tận hưởng các khoái cảm. Thậm chí sau đó, tôi sẽ dạy bạn phương pháp thiền sẽ cho bạn phúc lạc!” Những người được gọi là bậc thầy tâm linh như vậy đã thu hút đám đông lớn. Con người luôn tìm những con đường dễ dàng. Nếu họ có thể không cần đến đạo đức mà vẫn đạt phúc lạc, họ muốn gì hơn thế nữa ?
Such harmful delusions have no place in Vipassana, the true path of the Dhamma. The foundation of morality is absolutely necessary. One should understand why it is so necessary. After all, one has to operate on the mind. To merely fill the surface part of the mind with bliss is not the goal of Vipassana. One has to reach and purify the depth, the deepest part of the mind, where the defilements arise, where they are accumulated. It is a very deep operation. If the surface part of the mind is very disturbed, very agitated, it results in gross impure vibrations. These vibrations act as a barrier and prevent one from going to the depth of the mind.
Những ảo tưởng tai hại như thế không có trong Vipassana, con đường chân chính của Dhamma. Nền tảng đạo đức là chắc chắn cần thiết. Người đó nên hiểu tại sao lại cần thiết. Sau tất cả, người đó phải giải phẫu tâm. Chỉ đơn thuần tràn đầy phúc lạc trên bề mặt của tâm không phải là mục đích của Vipassana. Người đó phải đạt tới và thanh lọc tâm theo chiều sâu, phần sâu nhất của tâm, nơi bất tịnh khởi lên, nơi nó tích lũy. Đây là cuộc giải phẫu rất sâu. Nếu phần bề mặt của tâm xáo trộn, rất dao động, kết quả là sinh ra những rung động bất tịnh. Những rung động này hoạt động như một rào cản và ngăn người đó đến chiều sâu của tâm.
Suppose one has to search for oil fields under the ocean-bed. During the monsoon, the search has to be stopped because it is not possible to do this work of searching in the depth of the ocean when there are high tidal waves. When the monsoon is over and the rain has stopped, the high tidal waves subside. Now it is possible to search for oil fields even though the tidal waves have not completely ceased. Similarly, there are waves of defilements in the mind. But when one breaks any sīla whether one kills or steals or takes intoxicants or tells lies or commits sexual misconduct there are such high tidal waves of impurities created on the surface part of the mind that one cannot go to the depth. If one has to work at the depth of the mind, a situation has to be created where even though there are waves of defilements, they do not multiply and cause such high tidal waves of impurities in the mind.
Giả sử một người phải khảo sát vùng chứa dầu nằm dưới đáy biển. Trong mùa mưa, cuộc khảo sát phải dừng lại vì không thể thực hiện cuộc khảo sát này ở độ sâu của biển khi có những ngọn sóng thủy triều cao. Bây giờ có thể thực hiện cuộc khảo sát vùng chứa dầu thậm chí các đợt sóng thủy triều chưa hoàn toàn chấm dứt. Tương tự, có những làn sóng bất tịnh trong tâm. Nhưng khi một người phá vỡ bất kỳ sīla nếu người đó giết hại hoặc trộm cắp hoặc dùng chất say nghiện hoặc nói dối hoặc tà hạnh thì những đợt sóng thủy triều bất tịnh cao ngất đó tạo ra trên bề mặt của tâm làm người đó không thể đi vào chiều sâu của tâm. Nếu người đó phải làm ở chiều sâu của tâm, một tình huống phải được tạo ra nơi thậm chí dù có những làn sóng bất tịnh, chúng cũng không nhân lên hoặc gây ra những làn sóng bất tịnh trong tâm
The entire atmosphere of the meditation centre is helpful in achieving this. The rules, the discipline, the timetable must be followed strictly. If one works with discipline, one gets the benefits. People come to a meditation centre not to enjoy a picnic or a ten-day holiday from the responsibilities of life, but to meditate, to remove the defilements in the mind by practicing extremely serious meditation. One has to work very seriously and continuously. Therefore, after understanding, accepting and following the rules, one begins to work earnestly.
Toàn thể không khí của trung tâm thiền là hữu ích để đạt được điều này. Các quy tắc, kỷ luật, thời khóa biểu phải được tuân theo nghiêm ngặt. Nếu ai đó làm việc trong kỷ luật, người đó đạt lợi lạc. Mọi người đến trung tâm thiền không phải để tận hưởng một chuyến dã ngoại hay kỳ nghỉ mười ngày thoát khỏi trách nhiệm đời sống, nhưng là để hành thiền, để loại bỏ các bất tịnh trong tâm bằng việc thực hành thiền cực kỳ nghiêm túc. Người đó phải làm việc rất nghiêm túc và liên tục. Do đó, sau khi hiểu, chấp nhận và tuân theo các quy tắc, người đó bắt đầu làm việc nhiệt thành.
What work does one do? The work starts by learning the technique of concentrating the mind. To concentrate the mind, one has to take the help of some object of concentration. There are many objects with the help of which one can practice to concentrate the mind. The Buddha, who discovered Vipassana, gave us an object that always remains with us. This object of concentration is with us from birth and continues until the moment of death. Our own breath keeps coming in, keeps going out, from the time of our birth and until the time of our death. Whether one is asleep or awake, sitting or standing, walking or travelling or eating or drinking, in every state, the breath is coming in, the breath is going out. This breath becomes our object of concentration. Natural, normal breath, as it comes in, as it goes out. One only has to observe it, and do nothing else. There is no need to do any exercise of the breath or to control the breath. Nothing artificial, only observation of the natural breath, as it is. If it is deep, one is aware it is deep; if it is shallow, one is aware it is shallow. If it passes through the left nostril, one is aware it is passing through the left nostril. If it passes through the right nostril, one is aware it is passing through the right nostril. If it is passing through both nostrils, one is aware it is passing from both nostrils.
Việc người đó cần làm ? Công việc bắt đầu bằng cách học kỹ thuật định tâm. Để định tâm, thiền sinh cần sự sự giúp từ vài đối tượng của sự tập trung. Có nhiều đối tượng giúp người đó có thể thực hành để định tâm. Đức Phật, Ngài đã khám phá ra Vipassana, Ngài cho chúng ta một đối tượng luôn ở trong ta. Đối tượng tập trung này đã theo ta từ khi sinh ra và tiếp tục tới giây phút cuối cùng. Chính hơi thở của ta vẫn đi vào, đi ra, từ lúc sinh ra đến lúc ta chết đi. Dù người đó có ngủ hay thức, đang ngồi hay đang đứng, đang đi bộ hay đang du lịch hay đang ăn hay đang uống, trong mỗi trạng thái, hơi thở đang đi vào, hơi thở đang đi vào, hơi thở đang đi ra. Hơi thở này trở thành đối tượng tập trung của tâm. Hơi thở tự nhiên, bình thường, khi nó đi vào, khi nó đi ra. Người đó chỉ phải quan sát, và không làm gì cả. Không cần các bài tập thở hoặc điều khiển hơi thở. Không có gì là phi tự nhiên, chỉ quan sát hơi thở bình thường, như nó là. Nếu nó sâu, người đó biết là nó sâu; nếu nó nông, người đó biết là nó nông. Nếu nó đi qua ống mũi bên trái, người đó biết nó đi qua ống mũi bên trái. Nó đi qua ống mũi bên phải, người đó biết nó đi qua ống mũi bên phải. Nếu nó đi qua cả hai ống mũi, người đó biết nó đi qua từ hai ống mũi.
Our only work is to observe, to be aware; that is all. This is not an exercise of controlling and regulating respiration. It is not prānāyāma at all.Prānāyāma has its own benefits but it is a totally different technique. It has nothing to do with Vipassana. In Vipassana, one just objectively observes, as it is, whatever truth about oneself is being revealed moment-by-moment. The technique is of pure observation; it is not an exercise of the breath. The breath comes naturally. Keeping the attention at the entrance of the nostrils, inside the nostrils, up to the inner passages of the nostrils, one observes the incoming and outgoing breath. The breath is coming in; the breath is going out. It is coming in, it is going out. One is not controlling it in any way. There is no need to make any change in it. If it is passing through the left nostril, there is no need to make it pass through the right nostril. If it is passing through the right nostril, there is no need to make it pass through the left nostril. If it is deep, there is no need to make it shallow. If it is shallow, there is no need to make it deep.
Công việc của chúng ta chỉ là quan sát, để nhận biết; đó là tất cả. Đây không phải là bài tập kiểm soát và điều khiển hơi thở. Nó không phải là bài tập thở prānāyāma. Prānāyāma có lợi ích riêng nhưng hoàn toàn khác kỹ thuật này. Nó không có ích gì với Vipassana. Trong Vipassana, người đó chỉ quan sát khách quan, như nó là, bất kỳ sự thật về nó được biểu hiện trong từng khoảnh khắc. Kỹ thuật này chỉ là sự quan sát thuần khiết, nó không phải là bài tập thở. Hơi thở đến tự nhiên. Giữ sự chú ý vào cửa của ống mũi, trong ống mũi, đến phần phía trên bên trong của ống mũi, người đó quan sát hơi thở đi vào và đi ra. Hơi thở đang đi vào; Hơi thở đang đi ra. Nó đang đi vào, nó đang đi ra. Người đó không kiểm soát nó theo bất cứ cách nào. Không cần thiết phải thay đổi bất cứ thứ gì trong hơi thở. Nếu nó đi qua ống mũi bên trái, không cần thiết làm nó đi qua ống mũi bên phải. Nếu nó đi qua ống mũi bên phải, không cần thiết làm nó đi qua ống mũi bên trái. Nếu hơi thở sâu, không cần thiết làm nó nông. Nếu hơi thở nông, không cần thiết làm nó sâu.
We observe the breath as it is yathā-bhūta-ñāña-dassana which means we are observing it with wisdom. The breath is coming in, the breath is going out. Whether it is passing through the left nostril, passing through the right nostril or passing through both nostrils, one is very attentive about its coming and going. One observes it objectively. What is objective observation? A person is sitting on the bank of a river. That person has no control over the flow of that river. He cannot make the river flow faster, nor can he make it flow slower. If the water of the river is dirty, it is dirty; if it is clean, it is clean. If there are high waves on the river, there are high waves. If there are no waves, there are no waves. The person sitting on the bank just observes the flow of the river. This is the current of the river; it is flowing. There is only objective, impartial observation. In the same way, there should be no attempt to control the incoming and outgoing breath. Focusing all attention at one place, one observes the breath objectively, impartially, and does nothing else.
Chúng ta quan sát hơi thở như nó là gọi là yathā-bhūta-ñāña-dassana có nghĩa chúng ta đang quan sát với trí tuệ. Hơi thở đang đi vào, hơi thở đang đi ra. Dù nó có đi qua ống mũi bên trái, nó có đi qua ống mũi bên phải hoặc qua cả hai ống mũi, người đó phải thật chú tâm khi nó đi vào và khi nó đi ra. Người đó cần quan sát nó một cách khác quan. Quan sát khách quan là gì? Một người ngồi trên một bờ sông. Anh ta không kiểm soát dòng chảy. Anh ta không thể làm dòng chảy nhanh hơn, hay có thể làm nó chậm đi. Nếu nước của dòng sông đục bẩn, nó là đục bẩn; nếu nó trong sạch, thì nó trong sạch. Nếu có những đợt sóng cao trên sông, thì là sóng cao. Nếu không có sóng, thì không có sóng. Anh ta ngồi trên bờ sông chỉ quan sát dòng sông. Đây là dòng sông hiện tại; nó đang chảy. Chỉ có sự quan sát khách quan, không thiên vị. Theo cùng cách đó, không nên nỗ lực để kiểm soát hơi thở đi vào đi ra. Tập trung sự chú ý vào một nơi, người đó quan sát hơi thở khách quan, không thiên vị, và không làm gì cả.
There is awareness that the breath is coming in; there is awareness that the breath is going out. There is nothing else to do. There is nothing more to do. We only have to observe. What can be simpler than this? But whenever one is able to spare ten days for a Vipassana course, one will find that it is very difficult work. It is very difficult work indeed! One will not be able to observe even two breaths, before the mind wanders. It will be very difficult to be able to observe even two breaths before the mind runs away. The mind will run away repeatedly, the student will have to bring it back to the breath repeatedly.
Có sự nhận biết rằng hơi thở đang đi vào; có sự nhận biết rằng hơi thở đang đi ra. Không làm gì khác. Không làm gì khác nữa. Chúng ta chỉ quan sát. Điều gì có thể đơn giản hơn vậy? Nhưng mỗi khi một người có thể dành ra thời gian mười ngày cho khóa thiền Vipassana, người đó thấy đây là một công việc khó khăn. Quả thật là một công việc khó khăn. Rất khó để có thể quan sát thậm chí hai hơi thở trước khi tâm trí chạy đi. Tâm sẽ liên tục chạy đi , thiền sinh sẽ phải liên tục mang tâm trở lại.
Sometimes the student may become agitated with the fleeting, fickle nature of the mind that cannot remain still and observe even two or three breaths. The student may lament “Oh! What kind of a mind am I carrying? This is such an easy job that I have been given where I do not have to do anything. It is as simple a task as sitting on the riverbank and watching the flow of the river. In the same way, I have to focus my mind at the entrance of the nostrils and observe the flow of respiration. I only have to observe the flow of respiration. I do not have to do any labour or exercise. Why can’t I do such easy work?”
Thỉnh thoảng thiền sinh có thể trở nên xáo động bởi bản chất thoáng qua hay thay đổi của tâm họ không thể duy trì mãi và không thể quan sát thậm chí hai hoặc ba hơi thở. Thiền sinh có thể than thở “Oh! Tôi đang mang loại tâm gì ? Đây là một công việc dễ dàng tôi đã được chỉ dẫn nhưng tôi không làm được bất cứ thứ gì. Một công việc đơn giản là ngồi ở bờ sông và nhìn dòng sông. Theo cùng một cách, chúng ta phải tập trung tâm tại cửa vào nơi ống mũi và quan sát hơi thở. Tôi chỉ theo dõi hơi thở. Tôi không làm bất kì công việc nào hoặc bài tập nào. Tại sao tôi không thể làm công việc đơn giản như vậy?”
The student feels very irritated with the wandering mind. Then the teacher conducting the course will tell the student, “Oh, no, no! Do not get angry with yourself, do not get angry even with your mind. Anger is anger after all. Irritation is irritation. It will make you very miserable. You have come here to become free from this habit-pattern of the mind to get irritated. Just be aware, ‘At this moment my mind has wandered away.’ Just accept it. Then start work again in all earnestness.”
Thiền sinh cảm thấy rất tức tối với tâm đi lang thang. Khi đó thiền sư dạy khóa thiền sẽ nói với thiền sinh, “Oh, không, không! Đừng tức giận với bản thân, không nên tức giận thậm chí với tâm mình. Nóng giận sẽ nối tiếp nóng giận. Tức tối là tức tối. Nó sẽ làm bạn rất khốn khổ. Bạn đến đây để thoát khỏi khuôn mẫu thói quen này của tâm tức tối. Chỉ nhận biết, ‘Lúc này tâm đang đi lang thang.’ Chỉ chấp nhận nó. Sau đó bắt đầu làm việc từ đầu với lòng nhiệt thành.
The student again begins to observe the breath. Again it wanders. As soon as the student becomes aware, he again resumes observing the breath. “Oh, has it wandered again? Do not worry, again start observing the breath.” As one continues to do this for one day, two days, three days, one will start experiencing the benefits.
Thiền sinh bắt đầu theo dõi hơi thở. Nó lại đi lang thang. Khi thiền sinh sớm trở nên nhận biết, anh ta lấy lại sự theo dõi hơi thở. “Oh, tâm lại đi lang thang nữa ? Đừng lo lắng, lại bắt đầu theo dõi hơi thở.” Khi người đó bắt đầu làm việc này trong một ngày, hai ngày, ba ngày, người đó sẽ kinh nghiệm được lợi lạc.
Every Vipassana student has to work. The student who wants to progress on the path of pure Dhamma will have to exert much effort and work with a lot of patience and persistence. Nobody else can help the student. The only help that a person who has walked upon the path can give is guidance: “Do this. Walk on this path in this way.”
Mỗi thiền sinh Vipassana phải làm việc. Thiền sinh muốn tiến bộ trên con đường Dhamma tinh khiết sẽ phải nỗ lực thật nhiều và làm việc thật cần mẫn và kiên định. Không ai có thể giúp các thiền sinh. Sự giúp đỡ duy nhất là người đó phải bước đi trên con đường được chỉ dẫn này: “ Hãy làm việc này. Hãy bước trên con đường này theo cách này”.
One has to walk on the path oneself. As the student progresses on the path, he begins to realise, “Oh, there is a lot of happiness on this path. There is a lot of contentment on this path. There is a lot of peace on this path.” Walking on this path, as one keeps becoming liberated from defilements, great happiness will arise, great contentment will arise. Whoever walks on the path of pure Dhamma experiences real happiness, experiences real peace, experiences full liberation from all misery.
Người đó phải tự bước đi. Khi thiền sinh tiến bộ trên con đường, anh ta bắt đầu nhận ra, “Oh, có nhiều hạnh phúc trên con đường. Có nhiều sự hài lòng trên con đường này. Có nhiều an lạc trên con đường này.” Bước trên con đường này, người đó đang trở nên tự do khỏi bất tịnh, niềm hạnh phúc to lớn sẽ khởi sinh, sự hài lòng to lớn sẽ khởi sinh. Bất cứ ai đi trên con đường Dhamma tinh khiết sẽ kinh nghiệm được hạnh phúc sự sự, an lạc thực sự, giải thoát khỏi đau khổ thực sự.
Nguồn VRIDhamma.org