TIỂU BỘ – KINH TẬP – IV. AṬṬHAKAVAGGO – PHẨM NHÓM TÁM (1)

TAM TẠNG PĀLI – VIỆT

KHUDDAKANIKĀYA – TIỂU BỘ

SUTTANIPĀTAPĀḶI – KINH TẬP

IV. AṬṬHAKAVAGGO – PHẨM NHÓM TÁM


01.  Kāmasuttaṃ – Kinh Giảng về Dục (12/04/2014)
02.  Guhaṭṭhakasuttaṃ – Kinh Nhóm Tám về Hang (14/04/2014)
03.  Duṭṭhaṭṭhakasuttaṃ – Kinh Nhóm Tám về Xấu Xa (15/04/2014)
04.  Suddhaṭṭhakasuttaṃ – Kinh Nhóm Tám về Trong Sạch (17/04/2014)
05.  Paramaṭṭhakasuttaṃ – Kinh Nhóm Tám về Tối Thắng (18/04/2014)
06.  Jarāsuttaṃ – Kinh về Sự Già (19/04/2014)
07.  Tissametteyyasuttaṃ – Kinh về Tissametteyya (20/04/2014)
08.  Pasūrasuttaṃ – Kinh về Pasūra (21/04/2014)
09.  Māgandiyāsuttaṃ – Kinh về Māgandiyā (23/06/2014)
10.  Purābhedasuttaṃ – – Kinh Trước Khi Hoại Rã (28/06/2014)
11.  Kalahavivādasuttaṃ – Kinh Cãi Cọ và Tranh Cãi (01/07/2014)
12.  Cūḷaviyūhasuttaṃ – Kinh Sự Dàn Trận Nhỏ (04/07/2014)
13.  Mahāviyūhasuttaṃ – Kinh Sự Dàn Trận Lớn (09/07/2014)
14.  Tuvaṭakasuttaṃ – Kinh Một Cách Nhanh Chóng (15/07/2014)
15.  Attadaṇḍasuttaṃ – Kinh Uế Hạnh của Bản Thân (18/07/2014)
16.  Sāriputtasuttaṃ – Kinh Sāriputta (20/07/2014)
Tassuddānaṃ – Tóm Lược Phẩm Này

 

IV. AṬṬHAKAVAGGO – PHẨM NHÓM TÁM Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) – Tạng Sri Lanka Lời tiếng Việt: (văn xuôi) Tỳ khưu Indacanda Lời tiếng Việt: (văn vần) HT. Thích Minh Châu

1. KĀMASUTTAṂ (bản Kinh Pali, trích đoạn)

1. KINH GIẢNG VỀ DỤC (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)

1. KINH VỀ DỤC (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)

770. Kāmaṃ kāmayamānassa tassa ce taṃ samijjhati, addhā pītimano hoti laddhā macco yadicchati.

770. Đối với người ham muốn về dục, nếu điều ấy thành tựu đến người ấy, đương nhiên (người ấy) có ý vui mừng sau khi đã đạt được điều con người ước muốn.

766. Ai ao ước được dục,
Nếu dục được thành tựu,
Chắc tâm ý hoan hỷ,
Ðược điều con người muốn.

771. Tassa ce kāmayānassa chandajātassa jantuno, te kāmā parihāyanti sallaviddhova ruppati.

771. Nếu đối với người ấy, –(tức là) đối với người đang ham muốn, đối với con người có sự mong muốn đã sanh khởi,– các dục ấy bị suy giảm, thì (người ấy) bị khổ sở như là bị đâm xuyên bởi mũi tên.

767. Nếu người có dục ấy,
Ước muốn được sanh khởi,
Các dục ấy bị diệt,
Bị khổ như tên đâm.

772. Yo kāme parivajjeti sappasseva padā siro, so ’maṃ visattikaṃ loke sato samativattati.

772. Người nào xa lánh các dục tựa như các bàn chân (xa lánh) đầu của con rắn, người ấy, có niệm, vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian.

768. Ai tránh né các dục
Như chân tránh đầu rắn,
Chánh niệm vượt thoát được,
Ái triền này ở đời.

773. Khettaṃ vatthuṃ hiraññaṃ vā gavāssaṃ dāsaporisaṃ, thiyo bandhū puthukāme yo naro anugijjhati.

773. Người nam nào thèm muốn ruộng, đất, hoặc vàng, gia súc, ngựa, tôi tớ, người hầu, người nữ, thân quyến, vô số các dục, …

769. Người nào tham đắm dục,
Ruộng đất, vàng, bò, ngựa,
Người nô tỳ, phục vụ,
Nữ nhân và bà con.

774. Abalā naṃ balīyanti maddante naṃ parissayā, tato naṃ dukkhamanveti nāvaṃ bhinnamivodakaṃ.

774. … các (ô nhiễm) yếu ớt thống trị người ấy, các hiểm họa chà đạp người ấy; do việc ấy khổ đau đi theo người ấy tựa như nước (tràn vào) chiếc thuyền đã bị vỡ.

770. Như người không sức lực,
Bị các dục chinh phục,
Tai họa dẫm đạp nó,
Khổ đau bước theo nó,
Như nước ùa tràn vào,
Chiếc thuyền bị vỡ nát.

775. Tasmā jantu sadā sato kāmāni parivajjaye, te pahāya tare oghaṃ nāvaṃ sitvāva pāragūti.

775. Do đó, người luôn luôn có niệm có thể xa lánh các dục, sau khi dứt bỏ chúng thì có thể vượt dòng nước lũ, tựa như sau khi tát cạn chiếc thuyền, là người đi đến bờ kia.

771. Do vậy người thường niệm,
Từ bỏ các loài dục,
Bỏ dục, vượt bộc lưu,
Tát thuyền đến bờ kia.

Kāmasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

Dứt Kinh Giảng về Dục.

 

2. GUHAṬṬHAKASUTTAṂ (bản Kinh Pali, trích đoạn)

2. KINH NHÓM TÁM VỀ HANG (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)

2. KINH HANG ĐỘNG TÁM KỆ (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)

776. Satto guhāyaṃ bahunābhichanno
tiṭṭhaṃ naro mohanasmiṃ pagāḷho,
dūre vivekā hi tathāvidho so
kāmā hi loke na hi suppahāyā.

776. Bị dính mắc ở hang (thân xác), bị che đậy bởi nhiều (ô nhiễm), trong khi tồn tại, con người bị đắm chìm trong sự say mê (ngũ dục). Người thuộc hạng như thế ấy quả thật cách xa sự viễn ly, bởi vì các dục ở thế gian thật không dễ gì dứt bỏ.

772. Chúng sanh vào trong hang,
Chấp chặt bị bao trùm,
Người có thái độ vậy,
Chìm sâu trong si mê.
Hạnh viễn ly với nó,
Như vậy thật xa vời,
Các dục ở trong đời,
Không dễ gì đoạn tận.

777. Icchānidānā bhavasātabaddhā te duppamuñcā na hi aññamokkhā, pacchā pure vāpi apekkhamānā ime va kāme purime va jappaṃ.

777. Có ước muốn là căn nguyên, bị trói buộc vào lạc thú ở hiện hữu, đang trông mong về sau này hoặc luôn cả trước đây, đang tham muốn các dục này hoặc các dục trước đây, những kẻ ấy là khó giải thoát, đương nhiên không thể giúp cho những người khác giải thoát.

773. Dục cầu làm nhân duyên,
Bị lạc hữu trói buộc,
Họ rất khó giải thoát,
Không thể có người khác,
Ðến giải thoát cho mình,
Họ cầu việc đã qua,
Họ mong việc chưa lại;
Họ tham đắm các dục,
Những dục này hiện tại,
Và những dục quá khứ.

778. Kāmesu giddhā pasutā pamūḷhā avadāniyā te visame niviṭṭhā, dukkhūpanītā paridevayanti
kiṃ su bhavissāma ito cutāse.

778. Bị thèm khát ở các dục, bị đeo níu, bị mê đắm, là những người thấp kém, họ đã đi theo lối sai trái. Bị dẫn đến khổ đau, họ than vãn: ‘Vậy chúng ta sẽ trở thành cái gì sau khi đã chết từ nơi đây?’

774. Ai tham đắm các dục,
Bị trí buộc si mê,
Họ xan tham keo kiết.
An trú trên bất chánh,
Khi rơi vào đau khổ,
Họ sầu muộn than khóc,
Ở đây sau khi chết,
Tương lai sẽ thế nào?

779. Tasmā hi sikkhetha idheva jantu yaṃ kiñci jaññā visamanti loke, na tassa hetu visamaṃ careyya
appaṃ hidaṃ jīvitaṃ āhu dhīrā.

779. Chính vì điều ấy, con người ở ngay tại đây (trong Giáo Pháp này) nên học tập, nên biết bất cứ điều gì là ‘sai trái’ ở thế gian, không nên làm điều sai trái do nhân của điều ấy, bởi vì các bậc sáng trí đã nói mạng sống này là ít ỏi.

775. Do vậy ở tại đây,
Con người cần học tập,
Những gì mình biết được,
Là bất chánh ở đời.
Do nhân duyên như vậy,
Mà sống không bất chánh,
Vì rằng bậc Thánh nói:
Ngắn thay, sanh mạng này.

780. Passāmi loke pariphandamānaṃ pajaṃ imaṃ taṇhāgataṃ bhavesu, hīnā narā maccumukhe lapanti
avītataṇhā se bhavābhavesu.

780. Ta nhìn thấy con người này, bị nhiễm tham ái trong các cõi, đang chao đảo ở thế gian. Những người thấp hèn, chưa xa lìa tham ái ở hữu và phi hữu, rên rỉ ở cửa miệng Tử Thần.

776. Ta thấy ở trên đời,
Loài Người run, sợ hãi,
Ði đến khát ái này,
Trong những loại sanh hữu.
Phàm những người thấp kém,
Than van trước miệng chết,
Chưa viễn ly khát ái,
Ðối với hữu, phi hữu.

781. Mamāyite passatha phandamāne maccheva appodake khīṇasote, etampi disvā amamo careyya bhavesu āsattimakubbamāno.

781. Hãy nhìn xem những kẻ đang chao động về vật đã được chấp là của tôi tựa như những con cá ở chỗ ít nước, ở dòng chảy bị cạn kiệt. Và sau khi nhìn thấy điều ấy, nên sống không chấp là của tôi, không tạo nên sự vướng bận ở các hữu.

777. Hãy nhìn những người ấy,
Run sợ trong tự ngã,
Như cá chỗ ít nước,
Trong dòng sông khô cạn,
Thấy được sự kiện này,
Hãy sống không của ta,
Không làm sự việc gì,
Khiến tham đắm các hữu.

782. Ubhosu antesu vineyya chandaṃ phassaṃ pariññāya anānugiddho, yadattagarahī tadakubbamāno na lippati diṭṭhasutesu dhīro.

782. Nên dẹp bỏ sự mong muốn ở cả hai thái cực, sau khi biết toàn diện về xúc thì không còn thèm muốn, bản thân chê trách điều nào thì không làm điều ấy, người sáng trí không nhơ bẩn ở những điều đã được thấy đã được nghe.

778. Hãy nhiếp phục ước muốn,
Ðối với hai cực đoan,
Nhờ liễu tri các xúc,
Không còn có tham đắm,
Cái gì tự ngã trách,
Cái ấy không có làm,
Bậc trí không bị nhớp,
Bởi những gì thấy nghe.

783. Saññaṃ pariññā vitareyya oghaṃ pariggahesu muni nopalitto, abbūḷhasallo caraṃ appamatto nāsiṃsatī lokamimaṃ parañcāti.

783. Sau khi biết toàn diện về tưởng, có thể băng qua dòng lũ, bậc hiền trí không bị vấy bẩn ở các sự bám giữ, có mũi tên đã được lấy ra, không bị xao lãng trong khi sinh hoạt, không mong ước đời này và đời khác.

779. Do liễu tri các tưởng,
Vượt qua khỏi bộc lưu,
Bậc Mâu-ni không nhiễm,
Ðối với mọi chấp thủ,
Với mũi tên rút ra,
Sở hành không phóng dật,
Không cầu mong đời này,
Không mong ước đời sau.

Guhaṭṭhakasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

Dứt Kinh Nhóm Tám về Hang.

 

3. DUṬṬHAṬṬHAKASUTTAṂ (bản Kinh Pali, trích đoạn)

3. KINH NHÓM TÁM VỀ XẤU XA (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)

3. KINH SÂN HẬN TÁM KỆ (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)

784. Vadanti ve duṭṭhamanāpi eke athopi ve saccamanā vadanti, vādañca jātaṃ muni no upeti
tasmā muni natthi khilo kuhiñci.

784. Thật vậy, một số người nói (bôi nhọ) với tâm ý xấu xa. Quả vậy, một số người có tâm ý chân thật cũng nói (bôi nhọ). Bậc hiền trí không tiếp cận lời nói (bôi nhọ) đã khởi lên, bởi vậy bậc hiền trí không có rác rưởi ở bất cứ đâu.

780. Thật có một số người
Nói lên với ác ý,
Và thật cũng có người,
Nói lên ý chân thật.
Dầu có lời nói gì,
ẩn sĩ không liên hệ,
Do vậy bậc Mâu-ni,
Không chỗ nào hoang vu.

785. Sakaṃ hi diṭṭhiṃ kathamaccayeyya chandānunīto ruciyā niviṭṭho, sayaṃ samattāni pakubbamāno yathā hi jāneyya tathā vadeyya.

785. Bị dẫn dắt bởi lòng mong muốn, đã đi theo sự ưa thích, trong khi tự mình làm cho (các quan điểm trở nên) đầy đủ, làm thế nào có thể vượt qua quan điểm của chính mình? Bởi vì người biết như thế nào thì sẽ nói như thế ấy.

781. Người ước muốn dắt dẫn,
Thiên trú điều sở thích,
Làm sao từ bỏ được,
Ðiều tà kiến của mình,
Khi tự mình tác thành,
Quan điểm riêng của mình,
Như điều nọ được biết,
Hãy để nó nói vậy.

786. Yo attano sīlavatāni jantu anānupuṭṭho ca paresa pāvā, anariyadhammaṃ kusalā tamāhu
yo ātumānaṃ sayameva pāvā.

786. Người nào, dầu không được hỏi đến, mà nói với những người khác về giới và phận sự của bản thân, người nào tự chính mình nói về bản thân, các bậc thiện xảo đã nói kẻ ấy là không có Thánh pháp.

782. Người không có ai hỏi,
Lại nói cho người khác,
Biết đến những giới cấm,
Của tự cá nhân mình.
Bậc thiện xảo nói rằng,
Như vậy không Thánh pháp,
Nếu ai tự nói lên
Lời tán thán tự ngã.

787. Santo ca bhikkhu abhinibbutatto iti ’hanti sīlesu akatthamāno, tamariyadhammaṃ kusalā vadanti yassussadā natthi kuhiñci loke.

787. Và vị tỳ khưu an tịnh, có trạng thái đã được hoàn toàn diệt tắt, không khoe khoang về các giới rằng: ‘Tôi là thế này,’ đối với vị nào không có sự kiêu ngạo ở bất cứ đâu ở thế gian, các bậc thiện xảo nói vị ấy là có Thánh pháp.

783. Vị Tỷ-kheo an tịnh,
Sống hết sức tịch tịnh,
Khi tán thán giới đức,
Không nói “Tôi là vậy”.
Bậc thiện xảo nói rằng
Như vậy là Thánh pháp
Với vị ấy đề cao,
Ở đời, không khởi lên.

788. Pakappitā saṅkhatā yassa dhammā purakkhatā santi avīvadātā, yadattanī passati ānisaṃsaṃ taṃ nissito kuppapaṭiccasantiṃ,

788. Các pháp (quan điểm) của người nào được xếp đặt, được tạo tác, được chú trọng, là không trong sạch, (người ấy) nhìn thấy điều nào là việc lợi ích cho bản thân, rồi đã nương vào điều ấy, vào sự an tịnh bị thay đổi, thuận theo điều kiện.

784. Với những ai các pháp,
Ðược sửa soạn tác thành,
Ðược đặt ra phía trước,
Không phải không tranh luận,
Khi đã thấy lợi ích,
Trên tự thân của mình,
Y đấy, duyên dao động,
Ðạt được sự tịch tịnh.

789. Diṭṭhi nivesā na hi svātivattā dhammesu niccheyya samuggahītaṃ, tasmā naro tesu nivesanesu nirassati ādisaticca dhammaṃ.

789. Các sự chấp chặt vào tà kiến quả thật không dễ vượt qua sau khi đã suy xét điều đã được ôm giữ trong số các pháp (tà kiến). Vì thế, trong số các sự chấp chặt ấy, loài người rời bỏ và nắm giữ tà kiến (này đến tà kiến khác).

785. Ðối với các thiên kiến,
Không dễ gì vượt qua,
Thẩm sát các pháp xong,
Mới tác thành chấp trước.
Do vậy là con người,
Ðối với trú xứ ấy,
Có khi quyết từ bỏ,
Có khi chấp nhận Pháp.

790. Dhonassa hi natthi kuhiñci loke pakappitā diṭṭhi bhavābhavesu, māyañca mānañca pahāya dhono
sa kena gaccheyya anūpayo so.

790. Quả thật, đối với vị đã rũ sạch thì không có quan điểm được xếp đặt liên quan đến hữu và phi hữu ở bất cứ đâu ở thế gian. Vị đã rũ sạch sau khi dứt bỏ xảo quyệt và ngã mạn, thì bởi điều gì mà vị ấy có thể đi (tái sanh) khi vị ấy không có sự vướng bận?

786. Vị tẩy sạch loại bỏ,
Không tìm được ở đời,
Các kiến được sửa soạn,
Ðối với hữu, phi hữu.
Bỏ man trá, kiêu mạn,
Vị tẩy sạch loại bỏ,
Vị ấy đi với gì,
Vị ấy không chấp thủ.

791. Upayo hi dhammesu upeti vādaṃ anūpayaṃ kena kathaṃ vadeyya, attaṃ nirattaṃ na hi tassa atthi adhosi so diṭṭhimidheva sabbanti.

791. Quả thật, người vướng bận tiếp cận sự tranh luận về các pháp. Với điều gì, bằng cách nào có thể nói về người không vướng bận? Bởi vì điều được nắm lấy và được rời bỏ là không có đối với vị ấy; vị ấy đã rũ bỏ mọi tà kiến ở ngay tại nơi đây.

787. Với ai có chấp thủ,
Bị chỉ trích trong Pháp,
Với ai không chấp thủ,
Lấy gì có thể nói?
Chính đối với vị ấy,
Ngã, phi ngã đều không,
Vị ấy đã tẩy sạch,
Mọi tà kiến ở đời.

Duṭṭhaṭṭhakasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

Dứt Kinh Nhóm Tám về Xấu Xa.

4. SUDDHAṬṬHAKASUTTAṂ (bản Kinh Pali, trích đoạn)

4. KINH NHÓM TÁM VỀ TRONG SẠCH (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)

4. KINH THANH TỊNH TÁM KỆ (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)

792. Passāmi suddhaṃ paramaṃ arogaṃ diṭṭhena saṃsuddhi narassa hoti, etābhijānaṃ paramanti ñatvā suddhānupassīti pacceti ñāṇaṃ.

792. ‘Tôi nhìn thấy đối tượng trong sạch, tối thắng, không bệnh. Do việc nhìn thấy, con người có được sự thank khiết,’ trong khi biết rõ như thế, người đã biết (việc ấy) là ‘tối thắng,’ có sự quan sát đối tượng trong sạch, tin tưởng rằng (điều ấy) là trí tuệ.

788. Ta thấy vị thanh tịnh,
Vị tối thượng, không bệnh,
Sự thanh tịnh con người,
Với tri kiến, đạt được.
Nắm giữ quan điểm này.
Xem đấy là tối thượng,
Vị này sẽ xem trí,
Là tùy quán thanh tịnh.

793. Diṭṭhena ce suddhi narassa hoti ñāṇena vā so pajahāti dukkhaṃ, aññena so sujjhati sopadhīko diṭṭhi hi naṃ pāva tathā vadānaṃ.

793. Nếu do nhìn thấy mà con người có được sự trong sạch, hoặc do nhận biết mà người ấy dứt bỏ khổ đau, thì người ấy–người còn mầm mống tái sanh–được trong sạch do (đạo lộ) khác (so với Thánh Đạo), chính tà kiến (thế ấy) đã mớm lời cho người ấy trong khi nói như thế.

789. Nếu thanh tịnh con người,
Do tri kiến đạt được,
Hay với trí vị ấy,
Từ bỏ sự đau khổ
Vị ấy có sanh y,
Ngoài Thánh đạo được tịnh,
Vị ấy nói như vậy,
Do tri kiến cá nhân.

794. Na brāhmaṇo aññato suddhimāha diṭṭhe sute sīlavate mute vā, puññe ca pāpe ca anūpalitto attañjaho nayidha pakubbamāno.

794. Vị Bà-la-môn đã nói rằng sự trong sạch là không do (đạo lộ) khác, không liên quan đến điều đã được thấy, đến điều đã được nghe, đến giới và phận sự, hoặc đến điều đã được cảm giác, là người không bị vấy bẩn bởi phước và tội, buông bỏ điều đã được chấp giữ, không tạo ra (nghiệp gì) ở nơi đây.

790. Bà-la-môn không nói,
Ngoài Thánh đạo được tịnh,
Với điều được thấy nghe,
Giới đức, được thọ tưởng;
Với công đức, ác đức,
Vị ấy không nhiễm trước,
Từ bỏ mọi chấp ngã,
Không làm gì ở đời.

795. Purimaṃ pahāya aparaṃ sitāse ejānugā te na taranti saṅgaṃ, te uggahāyanti nirassajanti
kapīva sākhaṃ pamukhaṃ gahāya.

795. Buông bỏ cái trước rồi nương vào cái khác, đeo đuổi dục vọng, những người ấy không vượt qua sự quyến luyến. Họ nắm bắt rồi rời bỏ, tựa như con khỉ với việc nắm lấy cành cây trước mặt.

791. Từ bỏ tri kiến cũ,
Y chỉ tri kiến mới,
Ði đến sự tham đắm,
Không vượt qua ái dục;
Họ nắm giữ chấp trước,
Họ từ bỏ xa lánh,
Như khỉ thả cành này,
Rồi lại nắm cành khác,

796. Sayaṃ samādāya vatāni jantu uccāvacaṃ gacchati saññasatto, vidvā ca vedehi samecca dhammaṃ na uccāvacaṃ gacchati bhūripañño.

796. Sau khi tự mình thọ trì các phận sự, con người đi đến chỗ cao chỗ thấp, bị dính mắc vào tưởng; còn người có sự hiểu biết, nhờ các sự hiểu biết sau khi thông hiểu pháp không đi đến chỗ cao chỗ thấp, là người có tuệ bao la.

792. Người tự mình chấp nhận,
Các chủng loại giới cấm,
Ði chỗ cao chỗ thấp,
Sống bị tưởng chi phối;
Người có trí rộng lớn,
Nhờ trí tuệ, quán pháp,
Có trí, không đi đến
Các pháp cao và thấp.

797. Sa sabbadhammesu visenibhūto yaṃ kiñci diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā, tameva dassiṃ vivaṭaṃ carantaṃ kenīdha lokasmiṃ vikappayeyya.

797. Vị ấy, người diệt đạo binh ở tất cả các pháp, về bất cứ điều gì đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác. Vị ấy, người có nhãn quan như thế, đang hành xử rõ ràng, với cái gì ở thế gian này có thể chi phối được vị ấy?

793. Vị ấy đạt thù thắng,
Trong tất cả các pháp,
Phàm có điều thấy, nghe,
Hay cảm thọ, tưởng đến;
Với vị tri kiến vậy,
Sống đời sống rộng mở,
Không bị ai ở đời,
Có thể chi phối được.

798. Na kappayanti na purekkharonti accantasuddhīti na te vadanti, adānaganthaṃ gathitaṃ visajja āsaṃ na kubbanti kuhiñci loke.

798. Các vị ấy không sắp đặt, không chú trọng, không nói về ‘sự trong sạch tột cùng.’ Sau khi tháo gỡ sự trói buộc vào chấp thủ đã bị buộc trói, các vị không tạo lập sự mong mỏi ở bất cứ đâu ở thế gian.

794. Họ không tác thành gì,
Họ không đề cao gì,
Họ không có nói lên,
Ðây tối thắng thanh tịnh,
Không dính líu tham đắm,
Mọi chấp trước triền phược,
Họ không tạo tham vọng,
Bất cứ đâu ở đời.

799. Sīmātigo brāhmaṇo tassa natthi ñatvā va disvā va samuggahītaṃ, na rāgarāgī na virāgaratto tassīdha natthi paramuggahītanti.

799. Vị Bà-la-môn, có sự vượt quá ranh giới, đối với vị ấy không có điều gì được ôm giữ sau khi đã biết và sau khi đã thấy, không có sự luyến ái với ái dục, không bị luyến ái ở pháp ly ái dục; đối với vị ấy, điều tối thắng được ôm giữ là không có ở nơi đây.

795. Với vị Bà-la-môn
Ðã vượt khỏi biên giới,
Sau khi biết và thấy,
Không có kiến chấp trước.
Tham ái không chi phối,
Cũng không tham, ly tham,
Vị ấy ở đời này,
Không chấp thủ gì khác.

Suddhaṭṭhakasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

Dứt Kinh Nhóm Tám về Trong Sạch.

 

5. PARAMAṬṬHAKASUTTAṂ (bản Kinh Pali, trích đoạn)

5. KINH NHÓM TÁM VỀ TỐI THẮNG (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)

5. KINH TỐI THẮNG TÁM KỆ (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)

800. Paramanti diṭṭhīsu paribbasāno yaduttariṃ kurute jantu loke, hīnāti aññe tato sabbamāha
tasmā vivādāni avītivatto

800. Trong khi sống trong các tà kiến, (nghĩ rằng) ‘(Điều này) là tối thắng,’ con người làm nổi trội điều ấy ở thế gian, rồi đã nói tất cả những điều khác là ‘thấp hèn’ so với điều ấy, vì thế không vượt lên trên các sự tranh cãi.

796. Ai thiên trú trong kiến,
Xem kiến ấy tối thắng,
Ở đời đặt kiến ấy,
Vào địa vị tối thượng.
Người ấy nói tất cả,
Người khác là hạ liệt,
Do vậy không vượt khỏi,
Sự tranh luận ở đời.

801. Yadattanī passati ānisaṃsaṃ diṭṭhe sute sīlavate mute vā, tadeva so tattha samuggahāya
nihīnato passati sabbamaññaṃ.

801. Người nhìn thấy cái gì đó ở điều đã được thấy, ở điều đã được nghe, ở giới và phận sự, hoặc ở điều đã được cảm giác là sự lợi ích cho bản thân, sau khi ôm giữ chính cái (tà kiến) ấy về điều ấy, người ấy nhìn thấy mọi cái khác đều là hèn kém.

797. Khi nó thấy lợi ích,
Ðến với tự ngã nó,
Ðối với vật thấy nghe,
Giới đức hay thọ tưởng;
Vị ấy ở tại đấy,
Liền chấp trước nắm giữ,
Nó thấy mọi người khác,
Là hạ liệt thấp kém.

802. Taṃ vāpi ganthaṃ kusalā vadanti yaṃ nissito passati hīnamaññaṃ, tasmā hi diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā sīlabbataṃ bhikkhu na nissayeyya.

802. Hơn nữa, các bậc thiện xảo gọi điều ấy là sự trói buộc, người bị nương tựa vào điều ấy nhìn thấy cái khác là thấp hèn. Chính vì thế, vị tỳ khưu không nên nương tựa vào điều đã được thấy, điều đã được nghe, điều đã được cảm giác, hoặc vào giới và phận sự.

798. Người y chỉ kiến ấy,
Thấy người khác hạ liệt,
Bậc thiện nói như vậy,
Ðấy là sự trói buộc;
Do vậy đối thấy nghe,
Thọ, tưởng hay giới cấm,
Bậc Tỷ-kheo không có
Y chỉ, nương tựa vào.

803. Diṭṭhimpi lokasmiṃ na kappayeyya ñāṇena vā sīlavatena vāpi, samoti attānamanūpaneyya
hīno na maññetha visesi vāpi.

803. Cũng không nên hình thành quan điểm (nào nữa) ở thế gian dựa vào trí (chứng đắc) hoặc dựa vào giới và phận sự. Không nên tự nhủ bản thân là ‘ngang bằng,’ không nên nghĩ mình là thấp hèn hoặc là có sự đặc biệt.

799. Chớ có tác thành ra
Tri kiến ở trên đời,
Từ ở nơi chánh trí,
Hay từ nơi giới đức,
Không bận tâm so sánh,
Tự ngã bằng người khác,
Không có suy nghĩ đến,
Ðây “liệt ” hay đây “thắng”.

804. Attaṃ pahāya anupādiyāno ñāṇepi so nissayaṃ no karoti, sa ve viyattesu na vaggasārī
diṭṭhimpi so na pacceti kiñci.

804. Sau khi dứt bỏ điều đã được chấp giữ, không còn chấp thủ, vị ấy không tạo lập sự nương tựa dầu là ở trí. Quả vậy, giữa những người đã bị phân ly, vị ấy không theo phe nhóm, vị ấy không quay trở lại bất cứ tà kiến nào nữa.

800. Ðoạn tận, từ bỏ ngã,
Không chấp thủ sự gì,
Không tác thành, dựng nên,
Nương tựa ở nơi trí,
Chân thật giữa tranh chấp
Không theo phe phái nào,
Vị ấy không đi theo
Một loại tri kiến nào.

805. Yassūbhayante paṇidhīdha natthi bhavābhavāya idha vā huraṃ vā, nivesanā tassa na santi keci dhammesu niccheyya samuggahītaṃ.

805. Đối với vị nào, ở đây, không có ước vọng về cả hai thái cực, về hữu và phi hữu, về đời này hay đời sau, đối với vị ấy, không có bất cứ các sự chấp chặt nào sau khi đã suy xét điều đã được ôm giữ trong số các pháp (tà kiến).

801. Với ai, hay cực đoan,
Không có hướng nguyện gì,
Với hữu và phi hữu,
Hay đời này đời sau,
Vị ấy không an trú,
Tại một trú xứ nào,
Từ bỏ mọi chấp thủ,
Ðối với tất cả pháp.

806. Tassīdha diṭṭhe va sute mute vā pakappitā natthi aṇūpi saññā, taṃ brāhmaṇaṃ diṭṭhimanādiyānaṃ kenīdha lokasmiṃ vikappayeyya.

806. Sự nhận thức được xếp đặt liên quan đến điều đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác ở nơi đây, dầu là nhỏ nhoi, cũng không có đối với vị ấy; vị Bà-la-môn ấy không chấp thủ tà kiến, ở thế gian này đây với cái gì có thể chi phối được vị ấy?

802. Ðối vị ấy ở đây,
Những gì được thấy nghe,
Ðược cảm thọ tưởng đến,
Chút suy tưởng cũng không;
Vị Bà-la-môn ấy
Không chấp thủ tri kiến,
Không ai ở đời này
Có thể chi phối được.

807. Na kappyanti na purekkharonti dhammāpi tesaṃ na paṭicchitāse, na brāhmaṇo sīlavatena neyyo pāraṃgato na pacceti tādīti.

807. (Các bậc A-la-hán) không sắp đặt, không chú trọng, luôn cả các pháp (tà kiến), đối với các vị ấy, đều không được chấp nhận. Vị Bà-la- môn không bị dẫn dắt đi bởi giới và phận sự, là bậc tự tại, đã đi đến bờ kia, không quay trở lại.

803. Họ không tác thành gì,
Họ
không đề cao gì,
Các pháp không được họ,
Chấp trước nắm giữ gì
Không một Phạm chí nào,
Bị giới cấm dắt dẫn,
Ði đến bờ bên kia,
Vị ấy không trở lui.

Paramaṭṭhakasuttaṃ niṭṭhitaṃ. 

Kinh Nhóm Tám về Tối Thắng. 

6. JARĀSUTTAṂ (bản Kinh Pali, trích đoạn)

6. KINH VỀ SỰ GIÀ (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)

6. KINH GIÀ (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)

808. Appaṃ vata jīvitaṃ idaṃ oraṃ vassasatāpi mīyati, yo cepi aticca jīvati atha kho so jarasāpi mīyati.

808. Quả thật, mạng sống này là ít ỏi, thậm chí kém hơn trăm tuổi cũng chết rồi. Nếu người nào vượt qua (hạn tuổi ấy) vẫn còn sống, người ấy rồi cũng chết vì già.

804. Sinh mạng này ngắn thay,
Trong trăm năm, rồi chết,
Nếu ai sống hơn nữa,
Rồi cũng chết vì già.

809. Socanti janā mamāyite na hi santā niccā pariggahā, vinābhāvaṃ santamevidaṃ
iti disvā nāgāramāvase.

809. Loài người sầu muộn về vật đã được chấp là của ta, bởi vì các sự bám giữ được trường tồn là không có. Sự chia lìa này thật sự đang hiện diện, sau khi nhìn thấy như thế thì không nên sống đời tại gia.

805. Loài Người sầu vì ngã,
Mọi chấp thủ vô thường,
Trống không là đời này,
Thấy vậy sống không nhà.

810. Maraṇenapi taṃ pahīyati yaṃ puriso mamidanti maññati, etaṃ disvāna paṇḍito
na mamattāya nametha māmako.

810. Cái nào mà người suy nghĩ rằng: ‘Cái này là của tôi,’ cái ấy bị dứt bỏ cũng bởi sự chết. Sau khi nhìn thấy điều này, vị sáng suốt, là người thành tín, không nên thiên về trạng thái chấp là của tôi.

806. Vì loài Người nghĩ rằng
Cái này là của tôi,
Cái ấy bị sự chết,
Làm hoại diệt hư tàn.
Biết vậy, bậc Hiền trí,
Không gọi, không hướng đến,
Cái này ngã của ta,
Cái này là của ta.

811. Supinena yathāpi saṅgataṃ paṭibuddho puriso na passati, evampi piyāyitaṃ janaṃ
petaṃ kālakataṃ na passati.

811. Cũng giống như sự việc đã được gặp gỡ qua giấc chiêm bao, khi thức giấc, người không còn nhìn thấy, tương tự như thế, với người được yêu mến đã từ trần, đã quá vãng, thì không nhìn thấy nữa.

807. Như những gì hiện lên,
Trong giấc ngủ mộng mị,
Con người khi tỉnh dậy,
Không còn thấy được gì.
Cũng vậy ở đời này,
Người được ưa, ái luyến,
Rồi sẽ chết mất đi,
Không ai còn thấy được.

812. Diṭṭhāpi sutāpi te janā yesaṃ nāmamidaṃ pavuccati, nāmamevāvasissati akkheyyaṃ petassa jantuno.

812. Những người ấy dầu đã được thấy, dầu đã được nghe, đề cập đến họ, tên gọi này được nói ra. Chỉ mỗi tên gọi sẽ còn ở lại, sẽ được nhắc đến đối với người đã từ trần.

808. Các loại hạng người ấy
Ðược thấy và được nghe,
Nên họ được gọi tên,
Tên này hay tên khác.
Với người đã chết đi,
Chỉ được gọi tên không,
Vì chỉ có tên suông,
Sẽ được còn tồn tại.

813. Sokaparidevamaccharaṃ na jahanti giddhā mamāyite, tasmā munayo pariggahaṃ hitvā acariṃsu khemadassino.

813. Những người bị thèm khát ở vật đã được chấp là của ta không buông bỏ sầu muộn, than vãn, và bỏn xẻn. Do đó, các bậc hiền trí, với việc nhìn thấy sự an toàn, sau khi từ bỏ sự bám giữ, đã du hành.

809. Tham đắm cái của ta,
Họ không có từ bỏ,
Sầu khổ và than van,
Cùng xan tham keo kiết.
Do vậy bậc ẩn sĩ,
Sau khi bỏ chấp thủ,
Ðã sống một đời sống,
Thấy được sự an ổn.

814. Patilīnacarassa bhikkhuno bhajamānassa vivittamāsanaṃ, sāmaggiyamāhu tassa taṃ
yo attānaṃ bhavane na dassaye.

814. Ðối với vị tỳ khưu có hạnh sống tách ly, đang thân cận chỗ ngồi vắng vẻ, các vị đã nói rằng điều này là hợp nhất đối với vị ấy, vị ấy sẽ không thị hiện bản thân ở cảnh giới (tái sanh nào nữa).

810. Ðối với vị Tỷ-kheo
Sống thanh vắng một mình,
Sống tu tập tâm ý,
Hướng đến hạnh viễn ly,
Nếp sống vậy được nói,
Hòa hợp với vị ấy,
Và không nêu tự ngã,
Trong hiện hữu của mình.

815. Sabbattha munī anissito na piyaṃ kubbati nopi appiyaṃ, tasmiṃ paradevamaccharaṃ
paṇṇe vāri yathā na lippati.

815. Bậc hiền trí, không bị lệ thuộc vào tất cả các nơi, không tạo ra vật yêu mến cũng không tạo ra vật không yêu mến, than vãn và bỏn xẻn không gây bẩn ở vị ấy, giống như nước không gây bẩn ở lá sen.

811. Vị ẩn sĩ không tựa,
Không y chỉ một ai,
Không làm thành thương yêu,
Không tác thành ghét bỏ.
Do vậy trong sầu than,
Trong xan tham keo kiết,
Như nước trên lá cây,
Không dính ướt làm nhơ.

816. Udabindu yathāpi pokkhare padume vāri yathā na lippati, evaṃ muni no palippati yadidaṃ diṭṭhasutaṃ mutesu vā.

816. Cũng giống như giọt nước ở lá sen, giống như nước không gây bẩn ở hoa sen, tương tự như thế bậc hiền trí không vấy bẩn ở những điều đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác.

812. Giống như một giọt nước,
Không dính ướt hoa sen,
Như nước trên bông sen,
Khôn dính ướt làm nhơ.
Ðối với vật thấy nghe,
Ðược cảm thọ tưởng đến,
Cũng vậy bậc ẩn sĩ
Không dính ướt tham đắm.

817. Dhono na hi tena maññati yadidaṃ diṭṭhasutaṃ mutesu vā, nāññena isuddhimicchati
na hi so rajjati no virajjatī ”ti.

817. Thật vậy, vị đã rũ sạch không suy nghĩ theo lối ấy, tức là về những điều đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, (cũng) không ước muốn sự thanh tịnh theo cách nào khác, bởi vì vị ấy không luyến ái, (cũng) không lìa luyến ái.

813. Do vậy bậc tẩy sạch,
Không có suy tư đến,
Ðiều được thấy được nghe,
Ðược cảm thọ tưởng đến.
Vị ấy muốn thanh tịnh,
Không có dựa gì khác,
Vị ấy không tham đắm,
Cũng không có ly tham.

Jarāsuttaṃ niṭṭhitaṃ. 

Dứt Kinh về Sự Già. 

 

7. TISSAMETTEYYASUTTAṂ (bản Kinh Pali, trích đoạn)

7. KINH VỀ TISSAMETTEYYA (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)

7. KINH TISSAMETTEYYA (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)

818. Methunamanuyuttassa (iccāyasmā tisso metteyyo) vighātaṃ brūhi mārisa, sutvāna tava sāsanaṃ viveke sikkhissāma se.

818. “Thưa Ngài, xin Ngài hãy nói về sự tàn hại dành cho kẻ đeo bám việc đôi lứa. Sau khi lắng nghe lời dạy của Ngài, chúng con sẽ học tập về hạnh viễn ly,” (Đại đức Tissa Metteyya đã nói thế ấy).

814. Tissa Metteyya,
Tôn giả nói như sau:
Thế Tôn hãy nói lên,
Sự tai hại của người,
Ðắm say về dâm dục,
Sau khi nghe, chúng con
Sẽ học tập lời Ngài,
Lời dạy về viễn ly.

819. Methunamanuyuttassa (metteyyāti bhagavā) mussate vāpi sāsanaṃ, micchā ca paṭipajjati etaṃ tasmiṃ anāriyaṃ.

819. (Đức Thế Tôn đã nói như vầy: “Này Metteyya,) đối với kẻ đeo bám việc đôi lứa, lời giảng dạy thậm chí còn bị quên lãng và là kẻ thực hành sai trái; điều này ở kẻ ấy là không thánh thiện.

815. Thế Tôn nói như sau:
Hỡi này Metteyya,
Ai đắm say dâm dục,
Quên mất lời giảng dạy,
Rơi vào đường tà vạy,
Nếp sống ấy không thánh.

820. Eko pubbe caritvāna methunaṃ yo nisevati, yānaṃ bhantaṃ va taṃ loke hīnamāhu puthujjanaṃ.

820. Sau khi sống một mình trước đây, kẻ nào (giờ) gần gũi việc đôi lứa, kẻ ấy ở thế gian, tựa như chiếc xe bị chao đảo, người ta đã gọi là kẻ phàm phu thấp hèn.

816. Ai trước sống một mình,
Nay rơi vào dâm dục,
Như xe bị nghiêng ngã,
Người ấy ở trong đời,
Ðược gọi là phàm phu,
Ðược gọi là hạ liệt.

821. Yaso kittiñca yā pubbe hāyate vāpi tassa sā, etampi disvā sikkhetha methunaṃ vippahātave.

821. Danh vọng và tiếng tăm nào (đã có) trước đây, điều ấy của kẻ ấy (giờ) hiển nhiên cũng bị giảm thiểu. Sau khi nhìn thấy điều này, nên học tập nhằm dứt bỏ hẳn việc đôi lứa.

817. Tiếng tốt có từ trước,
Người ấy bị tổn giảm,
Thấy vậy hãy học tập,
Từ bỏ sự dâm dục.

822. Saṃkappehi pareto so kapaṇo viya jhāyati, sutvā paresaṃ nigghosaṃ maṅku hoti tathāvidho.

 822. Kẻ ấy, bị chi phối bởi các suy tư, trầm tư như là kẻ khốn khổ. Sau khi lắng nghe lời quở trách của những người khác, kẻ thuộc hạng như thế trở nên tủi hổ.

818. Chi phối bởi suy tư,
Trầm ngâm như kẻ nghèo,
Nghe tiếng trách người khác,
Như kẻ bị thất vọng.

823. Atha satthāni kurute paravādehi codito, esa khavassa mahāgedho mosavajjaṃ pagāhati.

823. Rồi (kẻ ấy) tạo ra các vũ khí (các uế nghiệp), bị khiển trách bởi các lời nói của những người khác. Điều ấy, đối với kẻ này, quả là sự vướng mắc lớn lao; (kẻ ấy) lún sâu vào sự giả dối.

819. Bị người khác buộc tội,
Nó làm các đao kiếm,
Trở thành người tham lớn,
Chấp thủ điều vọng ngôn.

824. Paṇḍitoti samaññāto ekacariyaṃ adhiṭṭhito, athāpi methune yutto mando va parikissati.

824. Đã được công nhận là ‘bậc sáng suốt,’ đã phát nguyện hạnh sống một mình, rồi cũng gắn bó vào việc đôi lứa, tựa như gã ngu khờ (kẻ ấy) bị sầu muộn.

820. Ðược danh là Hiền trí,
An trú sống một mình,
Nếu rơi vào dâm dục,
Sầu não như kẻ ngu.

825. Etamādīnavaṃ ñatvā muni pubbāpare idha, ekacariyaṃ daḷhaṃ kayirā na nisevetha methunaṃ.

825. Sau khi biết được điều bất lợi này, ở đây bậc hiền trí trước đó và sau này, nên thực hành vững chải hạnh sống một mình, không nên gần gũi việc đôi lứa.

821. Thấy nguy hại như vậy,
Bậc ẩn sĩ trước sau,
Kiên trì sống cô độc,
Không thực hành dâm dục.

826. Vivekaṃ yeva sikkhetha etadariyānamuttamaṃ, na tena seṭṭho maññetha sa ve nibbānasantike.

826. Nên học tập mỗi hạnh viễn ly, điều này đối với các bậc Thánh là tối thượng, với điều ấy không nên nghĩ (bản thân) là hạng nhất; vị ấy quả nhiên ở gần Niết Bàn.

822. Hãy học tập viễn ly,
Ðây hạnh thánh tối thượng,
Không nghĩ mình tối thắng,
Dầu gần được Niết-bàn.

827. Rittassa munino carato kāmesu anapekkhino, oghatiṇṇassa pihayanti kāmesu gathitā pajāti.

827. Đối với bậc hiền trí đang sống, trống vắng (mọi ô nhiễm), không có sự trông mong các dục, đã vượt qua (bốn) dòng nước lũ, người đời, bị buộc trói ở các dục, mong cầu (được như vị ấy).”

823. Sở hành bậc ẩn sĩ,
Trống không, không mong dục,
Bậc vượt khỏi bộc lưu,
Ðược các người ở đời,
Bị tham dục trói buộc,
Ganh tị và thèm muốn.

Tissameteyyasuttaṃ niṭṭhitaṃ. 

Dứt Kinh về Tissametteyya. 

 

8. PASŪRASUTTAṂ (bản Kinh Pali, trích đoạn)

8. KINH VỀ PASŪRA (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)

8. KINH PASŪRA (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)

828. Idheva suddhi iti vādiyanti nāññesu dhammesu visuddhimāhu, yaṃ nissitā tattha subhaṃ vadānā paccekasaccesu puthū niviṭṭhā.

828. Họ (những kẻ theo tà kiến) nói rằng: ‘Chính ở đây là trong sạch.’ Họ đã nói sự thanh tịnh không có ở các giáo pháp khác. Điều mà họ nương tựa, họ nói điều ấy là tốt đẹp. Phần đông đã đi theo những chân lý riêng biệt.

824. Ở đây chính thanh tịnh,
Họ thuyết giảng như vậy,
Họ nói trong pháp khác,
Không có sự thanh tịnh,
Họ nói chỗ y chỉ,
Ở đây là thanh tịnh,
Họ rộng rãi an trú,
Trong sự thật của mình.

829. Te vādakāmā parisaṃ vigayha bālaṃ dahantī mithu aññamaññaṃ, vadanti te aññasitā kathojjaṃ pasaṃsakāmā kusalā vadānā.

829. Mong muốn tranh luận, những kẻ ấy sau khi chen vào hội chúng, từng đôi, chúng đánh giá lẫn nhau là ngu dốt. Dựa dẫm vào người khác, chúng nói lời bàn cãi, mong muốn lời ca ngợi, chúng nói (học thuyết) là tốt lành.

825. Những ai muốn tranh luận,
Sau khi vào hội chúng,
Họ công kích lẫn nhau,
Họ gọi nhau là ngu,
Họ đi đến người khác,
Và khởi lên tranh luận,
Họ muốn được tán thán,
Họ gọi chúng thiện xảo.

830. Yutto kathāyaṃ parisāya majjhe pasaṃsamicchaṃ vinighāti hoti, apāhatasmiṃ pana maṅku hoti nindāya so kuppati randhamesī.

830. Kẻ gắn bó với sự phát biểu ở giữa hội chúng, trong khi ước muốn lời ca ngợi, thì trở nên lo lắng. Hơn nữa, khi bị bác bỏ thì trở nên xấu hổ, vì sự chê bai kẻ ấy bị bực tức, có sự tìm kiếm điểm thiếu sót.

826. Ham mê thích tranh luận,
Ở giữa các hội chúng,
Ước muốn được tán thán,
Họ sợ hãi thất bại,
Khi bị đánh thất bại,
Họ trở thành rủn chí,
Bị chê, họ nổi giận,
Kẻ tìm lỗi người khác.

831. Yamassa vādaṃ parihīnamāhu apāsadaṃ pañhavīmaṃsakā se, paridevati socati hīnavādo
upaccagā manti anutthunāti.

831. Họ đã nói rằng cuộc tranh luận của người này là hèn mọn, những vị xem xét câu hỏi đã bác bỏ. Người có cuộc tranh luận thấp hèn than vãn, sầu muộn, kể lể rằng: ‘Kẻ ấy đã vượt hẳn tôi.’

827. Khi các nhà thẩm sát,
Phê bình các câu hỏi,
Tuyên bố cuộc tranh luận,
Ði đến chỗ thất bại,
Kẻ nói lời hạ liệt,
Than khóc và sầu não,
Họ rên rỉ than van,
Nó đã đánh bại ta.

832. Ete vivādā samaṇesu jātā etesu ugaghāti nighāti hoti, evampi disvā virame kathojjaṃ
na haññadatthatthi pasaṃsalābhā.

832. Những sự tranh cãi này đã sanh khởi giữa các vị Sa-môn. Ở những việc này có sự hưng phấn và chán nản. Sau khi nhìn thấy luôn cả điều này, nên xa lánh sự bàn cãi, bởi vì không có lợi ích nào khác ngoài việc đạt được lời ca ngợi.

828. Giữa các vị Sa-môn,
Các tranh luận khởi lên,
Trong các tranh luận này,
Có chiến thắng chiến bại.
Do thấy rõ như vậy,
Không vui thích tranh luận
Dầu có được tán thán,
Cũng không lợi ích gì.

833. Pasaṃsito vā pana tattha hoti akkhāya vādaṃ parisāya majjhe, so taṃ hasatī unnamaticca tena pappuyya tamatthaṃ yathāmano ahū.

833. Hoặc hơn nữa, kẻ được ca ngợi ở nơi ấy, sau khi đã nói lên lời tranh luận ở giữa hội chúng, kẻ ấy cười về điều ấy, hãnh diện vì điều ấy, sau khi đã đạt được mục đích ấy theo như ý định đã có.

829. Hay trong tranh luận này,
Nó được lời tán thán,
Sau khi đã nói lên,
Chính giữa các hội chúng.
Do vậy nó vui cười,
Nó tự hào kiêu hãnh,
Ðạt được mục đích ấy,
Như tâm ý nói lên.

834. Yā unnatī sāssa vighātabhūmi mānātimānaṃ vadate paneso, etampi disvā na vivādayetha na hi tena suddhiṃ kusalā vadanti.

834. Cái nào là sự kiêu hãnh, cái ấy đối với kẻ ấy là vùng đất tiêu diệt. Hơn nữa, kẻ ấy nói một cách ngã mạn và ngã mạn thái quá. Sau khi nhìn thấy luôn cả điều này, không nên tranh cãi, các bậc thiện xảo nói sự trong sạch hiển nhiên là không do việc ấy.

830. Cái làm nó cống cao,
Cũng là đất hại nó,
Tuy vậy nó vẫn nói,
Lời cống cao kiêu mạn,
Khi thấy được như vậy,
Hãy đừng có tranh luận,
Bậc thiện xảo nói rằng,
Thanh tịnh không do vậy.

835. Sūro yathā rājakhādāya puṭṭho abhigajjameti paṭisūramicchaṃ, yeneva so tena palehi sūra pubbeva natthi yadidaṃ yudhāya.

835. Giống như vị dũng sĩ, được chu cấp với thức ăn của nhà vua, đi đến, la hét, ước muốn có dũng sĩ đối địch. Này dũng sĩ, ngươi hãy đi đến nơi kẻ (dũng sĩ đối địch) ấy, quả thật trước đây đã không còn (ô nhiễm) gì để mà chiến đấu.

831. Cũng như bậc anh hùng,
Nuôi dưỡng đồ ăn vua,
La hét muốn tìm cầu,
Một địch thủ anh hùng,
Ôi anh hùng hãy tránh,
Chỗ nào có vị ấy,
Từ trước đã không có,
Sự đấu tranh như vậy.

836. Ye diṭṭhimuggayha vivādayanti idameva saccanti ca vādayanti, te tvaṃ vadassu na hi tedha atthi vādamhi jāte paṭisenikattā.

836. Những kẻ nào sau khi học hỏi tà kiến, rồi tranh cãi và nói rằng: ‘Chỉ mỗi điều này là sự thật.’ Ngươi hãy nói với những kẻ ấy rằng: ‘Khi cuộc nói chuyện sanh khởi, người đối kháng với ngươi ở đây thật sự không có.’

832. Những ai chấp tri kiến,
Tranh luận về kiến ấy,
Tuyên bố thuyết giảng rằng:
Chỉ đây là sự thật,
Ông hãy nói với họ,
Ở đây không tranh luận,
Ông hãy nói thêm rằng
Ở đây không địch thủ.

837. Visenikatvā pana ye caranti diṭṭhīhi diṭṭhiṃ avirujjhamānā, tesu tvaṃ kiṃ labhetho pasūra
yesīdha natthi paramuggahītaṃ.

837. Hơn nữa, sau khi tiêu diệt đạo binh (ô nhiễm), những vị nào sống không chống đối quan điểm (này) bằng các quan điểm (khác), này Pasūra, ngươi có thể đạt được gì ở những vị ấy, là những vị ở đây không có điều gì được ôm giữ là tối thắng.

833. Cuộc chiến đấu đã tàn,
Những ai sống như vậy,
Không có sự va chạm,
Giữa kiến này kiến khác,
Hỡi này Pasùra!
Ông được gì nơi họ,
Với người không chấp thủ,
Một sự gì tối thượng?

838. Atha tvaṃ pavitakkamāgamā manasā diṭṭhigatāni cintayanto, dhonena yugaṃ samāgamā na hi tvaṃ sakkhasi sampayātaveti.

838. Giờ ngươi đã đi đến sự suy xét trong khi dùng ý suy nghĩ về các tà kiến. Ngươi đã gặp gỡ sánh đôi với vị đã rũ sạch, ngươi quả không có khả năng để đi cùng.

834. Vậy Ông hãy đi đến,
Suy tư ngẫm nghĩ kỹ,
Với tâm ý suy tư,
Trên những loại tri kiến,
Hãy hoà đồng chung hợp,
Với bậc đã tẩy sạch,
Ông không có thể không
Cùng vị ấy tiến bước.

Pasūrasuttaṃ niṭṭhitaṃ. 
Dứt Kinh về Pasūra. 

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Kinh Tập“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Kinh Tập” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *