THÁNH NHÂN KÝ SỰ
PHẨM VĪJANĪ
51. Ký Sự về Trưởng Lão Vidhūpanadāyaka
- Chiếc quạt đã được tôi dâng cúng đến đức Phật Padumuttara, bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy, đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy.
- Sau khi đã làm cho tâm của mình được tịnh tín, tôi đã chắp tay lên. Tôi đã đảnh lễ bậc Toàn Giác rồi ra đi, mặt hướng phía bắc.
- Sau khi cầm lấy chiếc quạt, bậc Đạo Sư đấng Vô Thượng ở thế gian, trong khi đang đứng ở nơi Hội Chúng tỳ khưu đã nói lên lời kệ này:
- “Do sự dâng cúng chiếc quạt này và do các nguyện lực của tâm, (người ấy) không sa vào đọa xứ trong một trăm ngàn kiếp.”
- Có sự ra sức tinh tấn, có tính khẳng quyết, được định tĩnh là đức tính của tâm, vào lúc bảy tuổi tính từ khi sanh tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
- (Trước đây) sáu mươi ngàn kiếp, đã có mười sáu vị vua tên Vījamāna là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
- Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Vidhūpanadāyaka[1] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Vidhūpanadāyaka là phần thứ nhất.
–ooOoo–
52. Ký Sự về Trưởng Lão Sataraṃsika
- Sau khi trèo lên tảng đá cao, đấng Tối Thượng Nhân đã ngồi xuống. Tôi là vị Bà-la-môn thông thạo về chú thuật (cư ngụ) ở không xa ngọn núi.
- Khi đấng Đại Hùng, vị Trời của chư Thiên, bậc Nhân Ngưu đã ngồi xuống, tôi đã chắp tay lên và đã ngợi ca đấng Lãnh Đạo Thế Gian rằng:
- “Vị này là đức Phật, đấng Đại Hùng, bậc giảng giải về Giáo Pháp cao quý, đứng đầu Hội Chúng tỳ khưu, chói sáng như là đống lửa.
- Tợ như đại dương không bị suy suyển, tợ như biển cả khó mà vượt qua, bậc Hữu Nhãn thuyết giảng Giáo Pháp tợ như (con sư tử) vua của loài thú không bị hãi sợ.”
- Biết được ý định của tôi, đấng Lãnh Đạo Padumuttara đứng ở nơi Hội Chúng tỳ khưu, đã nói lên những lời kệ này:
- “Sự chắp tay này đã được dâng cúng và đức Phật tối thượng đã được ngợi ca bởi người nào, (người ấy) sẽ cai quản Thiên quốc ba mươi ngàn kiếp.
- Cho đến một trăm ngàn kiếp (về sau này), bậc Toàn Giác tên Aṅgīrasa, vị đã dứt bỏ tội lỗi, sẽ hiện khởi.
- (Người ấy) sẽ là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, là vị A-la-hán với tên Sataraṃsī.”
- Vào lúc bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình. Tôi có ánh sáng tỏa ra, (cho nên) tôi có tên là Sataraṃsī (trăm tia sáng).
- Ở mái che hoặc ở gốc cây, tôi là người có thiền chứng, được thỏa thích về thiền. Tôi duy trì thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.
- (Trước đây) sáu mươi ngàn kiếp, (đã có) bốn vị có tên Rāma là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
- Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sataraṃsiya đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sataraṃsika là phần thứ nhì.
–ooOoo–
53. Ký Sự về Trưởng Lão Sayanadāyaka
- Với tâm ý trong sạch, tôi đã dâng cúng chiếc giường đến đức Phật Padumuttara ấy, bậc có lòng thương tưởng đến tất cả thế gian.
- Do sự dâng cúng chiếc giường ấy, có sự thành tựu của hạt giống (đã được gieo) ở thửa ruộng tốt, các của cải được sanh lên cho tôi đây; điều này là quả báu của chiếc giường.
- Tôi thực hiện việc nằm ngủ ở trên không trung, tôi nâng đỡ trái đất này, tôi có quyền lãnh đạo đối với các sanh mạng; điều này là quả báu của chiếc giường.
- (Trước đây) năm ngàn kiếp, đã có tám vị (tên là) Mahāvara. Và (trước đây) ba ngàn bốn trăm kiếp, (đã có) bốn vị có oai lực lớn lao.
- Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sayanadāyaka[2] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sayanadāyaka là phần thứ ba.
–ooOoo–
54. Ký Sự về Trưởng Lão Gandhodakiya
- Đã có lễ hội ở cội Đại Bồ Đề của đức Phật Padumuttara. Tôi đã mang theo cái bầu nước đã được trang hoàng và tôi đã dâng cúng nước có hương thơm.
- Vào thời điểm rưới nước cho cội Bồ Đề, có đám mây lớn đã đổ mưa. Và đã có tiếng động lớn trong lúc sấm sét đang nổ ra.
- Tôi đã mệnh chung ở tại nơi ấy (và đã tái sanh) tợ như tốc độ của tia sét ấy. Trong khi đứng ở thế giới chư Thiên, tôi đã nói lên lời kệ này:
- “Ôi đức Phật! Ôi Giáo Pháp! Ôi sự thành tựu của bậc Đạo Sư của chúng ta! (Khi) thân thể của tôi bị ngã xuống thì tôi sướng vui ở thế giới chư Thiên.”
- Chỗ trú ngụ của tôi cao vút, có một trăm tầng lầu được vươn lên, có một trăm ngàn thiếu nữ luôn luôn vây quanh tôi.
- Các bệnh tật của tôi không được biết đến, sự sầu muộn của tôi không có, tôi không nhìn thấy sự bực bội; điều này là quả báu của nghiệp phước thiện.
- (Trước đây) hai ngàn tám trăm kiếp, tôi đã là đức vua Saṃvasita, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
- Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Gandhodakiya[3] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Gandhodakiya là phần thứ tư.
–ooOoo–
55. Ký Sự về Trưởng Lão Opavayha
- Tôi đã dâng cúng con ngựa thuần chủng đến đức Phật Padumuttara. Sau khi dâng tặng cho bậc Toàn Giác, tôi đã đi về căn nhà của mình.
- Vị có tên Devala là Thinh Văn hàng đầu của bậc Đạo Sư, là người thừa tự của Giáo Pháp cao quý, đã đi đến gặp tôi (nói rằng):
- “Đức Thế Tôn chỉ sử dụng bình bát và vật dụng thiết yếu của mình, con ngựa thuần chủng là không thích hợp. Biết được ý định của ngươi nên bậc Hữu Nhãn đã chấp thuận.”
- Sau khi cho người định giá con ngựa Sindhu có tốc độ như gió là phương tiện di chuyển mau chóng, tôi đã dâng cúng vật dụng thích hợp đến đức Phật Padumuttara.
- Nơi chốn nào tôi đi tái sanh dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, có những con ngựa với tốc độ như gió, đáng được thuần phục, được tô điểm, (đã) sanh lên cho tôi.
- Những ai đạt được sự tu lên bậc trên (với Ngài), lợi ích của những vị ấy là đã được thành tựu tốt đẹp. Nếu đức Phật sẽ hiện hữu ở thế gian, tôi có thể gặp lại Ngài lần nữa.
- Tôi đã là vị vua có oai lực lớn lao, là người chinh phục bốn phương, là chúa tể của xứ Jambudīpa hai mươi tám lần.
- Lần sau cùng này của tôi là sự hiện hữu cuối cùng trong sự luân chuyển. Sau khi từ bỏ sự hơn thua, tôi đã đạt được vị thế Bất Động.
- (Trước đây) ba mươi bốn ngàn kiếp, tôi đã là vị Sát-đế-lỵ có quyền uy vĩ đại, được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
- Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Opavayha đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Opavayha là phần thứ năm.
–ooOoo–
56. Ký Sự về Trưởng Lão Saparivārāsana
- Tôi đã dâng cúng vật thực đến đức Phật Padumuttara. Tôi đã đi đến địa điểm thọ trai ấy và đã rải rắc các bông hoa nhài.
- Đức Phật, đấng Lãnh Đạo cao cả của thế gian, bậc có bản thể chính trực, định tĩnh, ngồi ở chỗ ngồi ấy đã tán dương về phần vật thực rằng:
- Cũng giống như chỉ một ít hạt giống được gieo xuống cánh đồng màu mỡ, khi có mưa rào thích hợp đổ xuống, kết quả làm vui lòng người nông phu.
- Tương tợ y như thế, phần vật thực này đã được ngươi gieo xuống thửa ruộng màu mỡ, trong khi sanh ra ở cõi hữu, quả báu sẽ làm ngươi vui lòng.”
- Sau khi nói xong điều này, sau khi đã ngợi ca về phần vật thực, bậc Toàn Giác tên Padumuttara đã ra đi, mặt hướng phía bắc.
- Tôi đã thu thúc trong giới bổn Pātimokkha và ở năm giác quan, được gắn bó với sự cô tịch, tôi sống không còn lậu hoặc.
- Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Saparivārāsana[4] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Saparivārāsana là phần thứ sáu.
–ooOoo–
57. Ký Sự về Trưởng Lão Pañcadīpaka
- Sau khi đã khéo an trú trong Chánh Pháp của đức Phật Padumuttara, bậc có lòng thương tưởng đến tất cả sanh linh, tôi đã có được quan điểm chính chắn.
- Tôi đã dâng cúng vật thí là các cây đèn sau khi đã đặt vòng quanh cội Bồ Đề. Trong khi đang có niềm tin, tôi đã tức thời thắp sáng các cây đèn.
- Nơi chốn nào tôi đi tái sanh dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, có những người cầm đuốc ở không trung; điều này là quả báu của việc dâng cúng đèn.
- Tôi thể nghiệm được sự nhìn thấy ở xung quanh một trăm do-tuần, sau khi đã vượt xuyên qua bức tường, xuyên qua tảng đá, và ngọn núi.
- (Trước đây) ba ngàn bốn trăm kiếp, các vị vua có tên Satacakkhu đã là các đấng Chuyển Luân Vương có quyền uy vĩ đại, có oai lực lớn lao.
- Nhờ vào phần dư sót của nghiệp ấy, tôi đã đạt được sự đoạn tận các lậu hoặc. Tôi duy trì thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.
- Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pañcadīpaka[5] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pañcadīpaka là phần thứ bảy.
–ooOoo–
58. Ký Sự về Trưởng Lão Dhajadāyaka
- Ở tại cội cây Bồ Đề của đức Phật Padumuttara, tôi đã trở nên mừng rỡ. Với tâm mừng rỡ tôi đã treo ngọn cờ ở chóp đỉnh của cội cây.
- Tôi đã nhặt các lá cây bị rụng xuống rồi đã đổ bỏ ở bên ngoài. Tôi đã đảnh lể cội Bồ Đề tối thượng tợ như (đảnh lễ) bậc Toàn Giác là vị trong sạch bên trong, trong sạch bên ngoài, đã được giải thoát, không còn lậu hoặc, đang ở trước mặt.
- Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đứng ở nơi Hội Chúng tỳ khưu đã nói lên những lời kệ này:
- “Do cả hai việc là dâng cúng ngọn cờ và sự phục vụ này, người ấy không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.
- (Người ấy) sẽ thọ hưởng sự huy hoàng ở cõi trời không phải là ít ở giữa chư Thiên, sẽ là vị vua ở quốc độ hàng trăm lần, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương có tên Uggata.
- Được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, sau khi thọ hưởng sự thành đạt (người ấy) sẽ thỏa thích trong Giáo Pháp của đức Thế Tôn Gotama.”
- Có tính khẳng quyết về sự nỗ lực, được an tịnh, không còn mầm mống tái sanh, tôi duy trì thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.
- (Trước đây) năm mươi mốt ngàn kiếp, (tôi đã) có tên Uggata. (Trước đây) năm mươi ngàn kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Megha.
- Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Dhajadāyaka[6] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Dhajadāyaka là phần thứ tám.
–ooOoo–
59. Ký Sự về Trưởng Lão Paduma
- Trong khi công bố về bốn Sự Thật, trong khi giúp cho đám đông dân chúng chứng ngộ Niết Bàn, bậc chuyển vận Giáo Pháp cao quý (đã) đổ mưa cơn mưa Bất Tử.
- Tôi đã cầm lấy đóa sen hồng còn cả cuống đứng ở tầng thượng. Được mừng rỡ, tôi đã ném lên không trung (cúng dường) bậc Hiền Trí Padumuttara.
- Và trong khi đóa sen hồng đang đi đến, ngay khi ấy đã có điều kỳ diệu. Biết được ý định của tôi, bậc cao quý trong số các vị đang thuyết giảng đã nắm lấy.
- Sau khi cầm lấy đóa sen tối thượng trong các loài hoa bằng bàn tay hạng nhất, (đức Phật) đứng ở nơi Hội Chúng tỳ khưu đã nói lên những lời kệ này:
- “Người nào đã thảy đóa sen hồng này đến đấng Toàn Tri, bậc Hướng Đạo, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.
- (Người ấy) sẽ là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc ba mươi kiếp, và sẽ ngự trị quốc độ thuộc đất liền ở trái đất bảy trăm lần.
- Sau khi tính đếm số lượng cánh hoa ở tại nơi ấy, (người ấy) sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương (bấy nhiêu lần), khi ấy sẽ có trận mưa bông hoa đổ xuống từ không trung.
- Vào một trăm ngàn kiếp (về sau này), bậc Đạo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
- Là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, (người ấy) sẽ Niết Bàn không còn lậu hoặc.”
- Tôi đã ra khỏi lòng (mẹ) có sự nhận biết mình, có niệm (đầy đủ). Vào lúc năm tuổi tính từ khi sanh, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
- Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Paduma đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Paduma là phần thứ chín.
–ooOoo–
60. Ký Sự về Trưởng Lão Asanabodhiya
- Vào lúc bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã đi đến gần bậc Tối Thượng Nhân.
- Đối với đức Thế Tôn Tissa, bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy, tôi đã trở nên mừng rỡ. Với tâm mừng rỡ, tôi đã gieo trồng cội Bồ Đề tối thượng.
- (Cội Bồ Đề) là giống cây mọc ở trên mặt đất có tên là Asana. Tôi đã chăm sóc cội Bồ Đề tối thượng Asana năm năm.
- Sau khi nhìn thấy cội cây đã được trổ hoa là điều kỳ diệu khiến lông rởn ốc. Trong khi tán dương việc làm của mình, tôi đã đi đến gặp đức Phật tối thượng.
- Khi ấy, bậc Toàn Giác Tissa, đấng Tự Chủ, nhân vật cao cả ấy, sau khi ngồi xuống ở Hội Chúng tỳ khưu, đã nói lên những lời kệ này:
- “Người nào đã gieo trồng cội cây Bồ Đề này và đã tôn trọng sự cúng dường đức Phật, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.
- Người ấy sẽ cai quản Thiên quốc ở giữa chư Thiên ba mươi kiếp, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương sáu mươi bốn lần.
- Được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, sau khi mệnh chung từ chính cõi trời Đẩu Suất, sau khi thọ hưởng hai sự thành đạt, người ấy sẽ sướng vui ở bản thể nhân loại.
- Có tính khẳng quyết về sự nỗ lực, được an tịnh, không còn mầm mống tái sanh, sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, người ấy sẽ Niết Bàn không còn lậu hoặc.”
- Tôi đã gắn bó với sự độc cư, được an tịnh, không còn mầm mống tái sanh. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
- Kể từ khi tôi đã gieo trồng cội Bồ Đề trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc gieo trồng cội Bồ Đề.
- Trước đây bảy mươi bốn kiếp, (tôi đã) được nổi tiếng với tên Daṇḍasena. Khi ấy, tôi đã là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật.
- Trước đây bảy mươi ba kiếp, đã có bảy vị lãnh chúa là các đấng Chuyển Luân Vương tên Samantanemi.
- Trước đây hai mươi lăm kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Puṇṇaka, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
- Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Asanabodhiya[7] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Asanabodhiya là phần thứ mười.
–ooOoo–
Phần Tóm Lược
Vị có cây quạt, vị Sataraṃsī, chiếc giường, vị có nước hương thơm, vị có phương tiện di chuyển, vị có vật phụ thuộc, cây đèn, ngọn cờ, vị cúng dường hoa sen hồng, và cội Bồ Đề là thứ mười. Như thế, (tổng cộng) có chín mươi hai câu kệ đã được nói đến.
Phẩm Vījanī là phẩm thứ sáu.
–ooOoo–