ĐỌC HIỂU PALI – BÀI HỌC SỐ 19 – TỲ KHƯU THIỆN HẢO (BHIKKHU VĀYĀMA)

BÀI HỌC SỐ 19: KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN (tiếp theo)

Thứ Bảy, 10-10-2020

 

Bảng viết tắt:

thng thành ngữ

bđkh (thì) bất định khứ

Dhammacakkappavattanasutta (tiếp theo)

12. ‘Yāvakīvañca me, bhikkhave, imesu catūsu ariyasaccesu evaṃ tiparivaṭṭaṃ dvādasākāraṃ yathābhūtaṃ ñāṇadassanaṃ na suvisuddhaṃ ahosi, / neva tāvāhaṃ, bhikkhave, sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇa-brāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya ‘anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti paccaññāsiṃ.

(Này các tỳ-khưu, chừng nào tri kiến như thật về ba luân, mười hai trạng thái trong Bốn đế này của Ta chưa được khéo thanh tịnh; chừng/khi ấy, này các tỳ-khưu, ta không tuyên bố/nói rằng: ‘Đã chánh giác vô thượng chánh đẳng giác’ trong thế giới gồm cả Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với các sa-môn và bà-la-môn, và với chư Thiên và nhân loại.)

13. ‘Yato ca kho me, bhikkhave, imesu catūsu ariyasaccesu evaṃ tiparivaṭṭaṃ dvādasākāraṃ yathābhūtaṃ ñāṇadassanaṃ suvisuddhaṃ ahosi, / athāhaṃ, bhikkhave, sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya ‘anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti paccaññāsiṃ. / Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi – ‘akuppā me vimutti, ayamantimā jāti, natthidāni punabbhavo’’ti. / Idamavoca bhagavā. Attamanā pañcavaggiyā bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.

(Này các tỳ-khưu, chừng nào tri kiến như thật về ba luân, mười hai trạng thái trong Bốn đế này của Ta được khéo thanh tịnh; khi ấy, này các tỳ-khưu, ta tuyên bố/nói rằng: ‘Đã chánh giác vô thượng chánh đẳng giác’ trong thế giới gồm cả Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với các sa-môn và bà-la-môn, và với chư Thiên và nhân loại. Hơn nữa, tri kiến đã khởi sanh cho ta: ‘Có sự giải thoát bất động cho ta, đây là sự sanh cuối cùng, giờ đây không còn tái sanh nữa’. Thế Tôn đã nói lên điều này. Nhóm năm vị tỳ-khưu được hài lòng, hoan hỷ lời dạy của Thế Tôn.)

14. Imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne āyasmato koṇḍaññassa virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi – ‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ, sabbaṃ taṃ nirodhadhamma’nti.

(Lại nữa, khi lời dạy này đang nói ra, pháp nhãn hoàn hảo vô cấu đã khởi sanh cho tôn giả Koṇḍañña như vầy: ‘Bất cứ cái gì là sanh/tập pháp, tất cả cái ấy là diệt pháp.’)

Ngữ vựng: 

yāvakīvañca = yāva (trt) chừng nào + kīvaṃ (bbt) bao lâu + ca

tiparivaṭṭa = ti (tt) 3 + parivatta (trut) vòng tròn, luân

dvādasākāra = dvādasa (tt) 12 + ākāra (nt) trạng thái, điều kiện

yathābhūtaṃ (trt): như thật

suvisuddha = su (tt) tốt, khéo + visuddha (qkpt của viujjhati) thanh tịnh, trong sạch

tāvāhaṃ = tāva (trt) chừng ấy + ahaṃ

sadevaka (tt): cùng với chư Thiên, với Thiên giới

loka (nt): thế giới/gian, cõi đời

samāraka (tt): bao gồm/luôn cả Ma vương/giới

sabrahmaka (tt): bao gồm/luôn cả Phạm thiên giới

sassamaṇabrāhmaṇī pajā (thng) ‘với các sa-môn và bà-la-môn trong ấy’ = sa (ttố như saṃ) với, giống như + samaṇa (nt) sa-môn, ẩn sĩ, du sĩ + brāhmaṇa (nt) bà-la-môn + pajā (nut) nam giới, quần chúng, thế hệ

sadevamanussā (thng) ‘với chư Thiên và nhân loại’ = sa+deva (nt) thiên nhân + manussa (nt) nhân loại, loài người

paccaññāsiṃ (bđkh của paṭijānāti): thông báo, bố cáo, tuyên bố

yato (trt): từ/do đâu, khi nào

udapādi (bđkh của uppajjati): đã khởi sanh/trở thành

akuppa = na + kuppa (tt) dao động, không vững, run lắc

ayamantima = ayaṃ + antima (tt) cuối, cuối cùng

idamavoca = idaṃ + avoca (bđkh của vatti)  đã nói/bảo

attamana (tt): vừa lòng, thoả thích 

bhāsita (qkpt của bhāsati): đã nói/bảo

abhinanduṃ (bđkh của abhinandati): đã hoan hỷ/vui thích với

bhaññamāna (htpt của bhaññati): đang được nói/giảng

viraja (tt): thoát khỏi phiền não, vô uế, hoàn hảo 

vītamala = vīta (tt) không có + mala (trut) cấu uế, bụi

dhammacakkhu = dhamma + cakkhu (trut) mắt

kiñci (bbt): bất cứ thứ gì/ai 

samudayadhamma = samudaya (nt) sự khởi sanh, nguồn gốc + dhamma

nirodhadhamma = nirodha (nt) sự diệt mất/tiêu diệt + dhamma

15. Pavattite ca pana bhagavatā dhammacakke bhummā devā saddamanussāvesuṃ – ‘etaṃ bhagavatā bārāṇasiyaṃ isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ appaṭivattiyaṃ samaṇena vā brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmi’nti. 

(Lại nữa, khi pháp luân được Thế Tôn chuyển vận, chư Thiên địa cầu đã thốt lên rằng: ‘Pháp luân vô thượng mà chưa từng được sa-môn hoặc bà-la-môn hoặc Thiên nhân hoặc Ma vương hoặc Phạm thiên hoặc bất cứ ai ở đời chuyển vận, đã được chuyển vận bởi Thế Tôn (khi ngài trú) tại Vườn Nai, ở Isipatana, trong xứ Bārāṇasī’.)

Bhummānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā cātumahārājikā devā saddamanussāvesuṃ – ‘etaṃ bhagavatā bārāṇasiyaṃ isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ, appaṭivattiyaṃ samaṇena vā brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmi’nti. 

(Sau khi nghe tiếng của chư Thiên địa cầu, chư Thiên cõi Tứ đại thiên vương đã thốt lên rằng: ‘Pháp luân vô thượng mà chưa từng được sa-môn hoặc bà-la-môn hoặc Thiên nhân hoặc Ma vương hoặc Phạm thiên hoặc bất cứ ai ở đời chuyển vận, đã được chuyển vận bởi Thế Tôn (khi ngài trú) tại Vườn Nai, ở Isipatana, trong xứ Bārāṇasī’.)

Cātumahārājikānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā tāvatiṃsā devā saddamanussāvesuṃ – ‘etaṃ bhagavatā bārāṇasiyaṃ isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ appaṭivattiyaṃ samaṇena vā brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmi’nti. 

(Sau khi nghe tiếng của chư Thiên cõi Tứ đại thiên vương, chư Thiên cõi Đao-lợi/Ba mươi ba đã thốt lên rằng: ‘Pháp luân vô thượng mà chưa từng được sa-môn hoặc bà-la-môn hoặc Thiên nhân hoặc Ma vương hoặc Phạm thiên hoặc bất cứ ai ở đời chuyển vận, đã được chuyển vận bởi Thế Tôn (khi ngài trú) tại Vườn Nai, ở Isipatana, trong xứ Bārāṇasī’.)

Tāvatiṃsānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā yāmā devā saddamanussāvesuṃ – ‘etaṃ bhagavatā bārāṇasiyaṃ isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ appaṭivattiyaṃ samaṇena vā brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmi’nti.

(Sau khi nghe tiếng của chư Thiên cõi Đao-lợi, chư Thiên cõi Dạ-ma đã thốt lên rằng: ‘Pháp luân vô thượng mà chưa từng được sa-môn hoặc bà-la-môn hoặc Thiên nhân hoặc Ma vương hoặc Phạm thiên hoặc bất cứ ai ở đời chuyển vận, đã được chuyển vận bởi Thế Tôn (khi ngài trú) tại Vườn Nai, ở Isipatana, trong xứ Bārāṇasī’.)

Yāmānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā tusitā devā saddamanussāvesuṃ – ‘etaṃ bhagavatā bārāṇasiyaṃ isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ appaṭivattiyaṃ samaṇena vā brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmi’nti. 

(Sau khi nghe tiếng của chư Thiên cõi Dạ-ma, chư Thiên cõi Đâu-suất đã thốt lên rằng: ‘Pháp luân vô thượng mà chưa từng được sa-môn hoặc bà-la-môn hoặc Thiên nhân hoặc Ma vương hoặc Phạm thiên hoặc bất cứ ai ở đời chuyển vận, đã được chuyển vận bởi Thế Tôn (khi ngài trú) tại Vườn Nai, ở Isipatana, trong xứ Bārāṇasī’.)

Tusitānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā nimmānaratī devā saddamanussāvesuṃ – ‘etaṃ bhagavatā bārāṇasiyaṃ isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ appaṭivattiyaṃ samaṇena vā brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmi’nti. 

(Sau khi nghe tiếng của chư Thiên cõi Đâu-suất, chư Thiên cõi Hoá Lạc đã thốt lên rằng: ‘Pháp luân vô thượng mà chưa từng được sa-môn hoặc bà-la-môn hoặc Thiên nhân hoặc Ma vương hoặc Phạm thiên hoặc bất cứ ai ở đời chuyển vận, đã được chuyển vận bởi Thế Tôn (khi ngài trú) tại Vườn Nai, ở Isipatana, trong xứ Bārāṇasī’.)

Nimmānaratīnaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā paranimmitavasavattī devā saddamanussāvesuṃ – ‘etaṃ bhagavatā bārāṇasiyaṃ isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ appaṭivattiyaṃ samaṇena vā brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmi’nti. 

(Sau khi nghe tiếng của chư Thiên cõi Hoá lạc, chư Thiên cõi Tha hoá tự tại đã thốt lên rằng: ‘Pháp luân vô thượng mà chưa từng được sa-môn hoặc bà-la-môn hoặc Thiên nhân hoặc Ma vương hoặc Phạm thiên hoặc bất cứ ai ở đời chuyển vận, đã được chuyển vận bởi Thế Tôn (khi ngài trú) tại Vườn Nai, ở Isipatana, trong xứ Bārāṇasī’.)

Paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā brahmakāyikā devā saddamanussāvesuṃ – ‘etaṃ bhagavatā bārāṇasiyaṃ isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ appaṭivattiyaṃ samaṇena vā brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmi’nti.

(Sau khi nghe tiếng của chư Thiên cõi Tha hoá tự tại, chư Phạm chúng thiên đã thốt lên rằng: ‘Pháp luân vô thượng mà chưa từng được sa-môn hoặc bà-la-môn hoặc Thiên nhân hoặc Ma vương hoặc Phạm thiên hoặc bất cứ ai ở đời chuyển vận, đã được chuyển vận bởi Thế Tôn (khi ngài trú) tại Vườn Nai, ở Isipatana, trong xứ Bārāṇasī’.)

Ngữ vựng: 

bhumma (tt): thuộc địa cầu/trái đất

saddamanussāvesuṃ = saddaṃ (trut) tiếng, âm thanh + anussāvesuṃ (bđkh của anussāveti) đã thông báo/tuyên bố

kenaci (bbt): bởi/do bất cứ thứ gì/ai

cātumahārājika = catu (tt) 4 + mahārājika (tt) thuộc Thiên vương

tāvatiṃsā (tt): thuộc 33/Đao-lợi thiên

yāma (tt): thuộc Dạ-ma thiên

tusita (tt): thuộc Đâu-suất thiên

nimmānaratī (tt): thuộc Hoá lạc thiên

paranimmitavasavattī (tt): thuộc Tha hoá tự tại thiên

brahmakāyika (tt): thuộc Phạm thiên chúng

16. Itiha tena khaṇena tena muhuttena yāva brahmalokā saddo abbhuggacchi. / Ayañca dasasahassilokadhātu saṅkampi sampakampi sampavedhi, appamāṇo ca uḷāro obhāso loke pāturahosi atikkama devānaṃ devānubhāvan’ti.

(Ở đây, trong sát-na ấy, khoảnh khắc ấy, tiếng như vậy đã vang tới tận Phạm thiên giới. Và mười ngàn cõi giới này đã rung lắc, chuyển động, và bị rung chuyển dữ dội; một hào quang vô lượng và tuyệt hảo đã xuất hiện trên thế gian, vượt quá thiên lực của chư Thiên.)

17. Atha kho bhagavā imaṃ udānaṃ udānesi – ‘aññāsi vata, bho, koṇḍañño, aññāsi vata, bho, koṇḍañño’ti! Iti hidaṃ āyasmato koṇḍaññassa ‘aññāsikoṇḍañño’ tveva nāmaṃ ahosīti.

(Rồi Thế Tôn đã nói lên lời này: ‘Ôi này chư hiền, Koṇḍañña đã giác ngộ! Ôi này chư hiền, Koṇḍañña đã giác ngộ! Như vậy, đã có danh hiệu ‘Aññāsikoṇḍañña’ này cho tôn giả koṇḍañña.)

Dhammacakkappavattanasuttaṃ niṭṭhitaṃ. (Kinh Chuyển Pháp Luân đã kết thúc.)

Ngữ vựng: 

itiha = iti (bbt) như vậy + iha (bbt) ở đây

khaṇa (nt): chốc, lúc, lát, khoảnh khắc

muhutta (nt, trut): chốc, lúc, lát, khoảng thời gian ngắn

yāva (trt): cho đến 

abbhuggacchati (abhi+ud+gam+a+ti): phát ra, dấy/nổi lên

dasasahassilokadhātu = dasasahassa (tt) 10.000 + lokadhātu (nut) cõi giới

saṅkampi (bđkh của saṅkampeti): rung lắc, lay động

sampakampi (bđkh của sampakampati): bị chuyển/lay động

sampavedhi (bđkh của sampavedhati): bị rung lắc dữ dội, bị ảnh hưởng mạnh

appamāṇa (tt): vô biên/hạn/lượng, bát ngát, bao la

uḷāra (tt): tuyệt vời, xuất sắc, cao quý 

obhāsa (trut): ánh sáng, hào quang

pāturahosi (bđkh của pātubhavati): đã xuất hiện/trở nên rõ ràng

atikkamma (bbqkpt của atikkamati): sau khi vượt qua/thắng phục/trội hơn

anubhāva (nt): năng/oai lực, vẻ huy hoàng

udāna (trut): lời nói/phát biểu 

udāneti (ud+ā+√ī+e+ti): thốt ra, phát biểu

aññāsi (bđkh của jānāti): đã biết

hidaṃ = hi (bbt) thực vậy, chắc chắn + idaṃ

tveva = iti + eva

niṭṭhita (qkpt của niṭṭhāti): đã kết thúc/hoàn tất

 

Nhóm tổ chức lớp Đọc hiểu Pāḷi
—————————————
Email: dochieupali@gmail.com
FB: www.facebook.com/groups/dochieupali
Zalo: https://zalo.me/g/tswjmg798
Tổng hợp tài liệu: Đọc Hiểu Pali – Tổng Hợp Link & Tài Liệu Bài Học – Tỳ Khưu Thiện Hảo (BHIKKHU VĀYĀMA)

* Tài liệu này để các học viên trong lớp Đọc Hiểu Pali do Sư Thiện Hảo hướng dẫn tham khảo. Do sự thỉnh mời của một số quý vị thiền sinh mong muốn học tiếng Pali, đây là lớp đầu tiên Sư Thiện Hảo giảng dạy online, và tài liệu này không tránh khỏi có những chỗ chưa hoàn thiện, thậm chí có những chỗ sai ngoài ý muốn. Chúng tôi kính mong quý vị hoan hỷ góp ý để tài liệu và lớp học được hoàn thiện tốt hơn. Nguyện Dhamma được trường tồn và đem lại lợi lạc cho phần đông.

 

Các bài viết trong sách

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *