Life of Sayagyi U Ba Khin: Early Years | His first Vipassana Course | An Important Incident | Outstanding Government Service | Torchbearer of Dhamma | Last Years |
Cuộc đời của Sayagyi U Ba Khin: Những năm đầu tiên | Khóa học Vipassana đầu tiên của ông | Một biến cố quan trọng | Người phục vụ xuất sắc của chính phủ | Ngọn đuốc Dhamma | Những năm cuối đời |
Early Years / Những năm đầu tiên
Sayagyi U Ba Khin was born in Rangoon, the capital of Burma, on 6 March 1899. He was the younger of two children in a family of modest means living in a working class district. Burma was ruled by Britain at the time, as it was until after the Second World War. Learning English was therefore very important; in fact, job advancement depended on having a good speaking knowledge of English.
Sayagyi U Ba Khin sinh ra ở Rangoon, thủ đô của Miến Điện, vào ngày 6 tháng 3 năm 1899. Ông là con út trong gia đình có hai người con, một gia đình nghèo sống trong khu phố lao động. Miến Điện ngày đó bị cai trị bởi Anh kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Vì vậy việc học tiếng Anh là rất quan trọng; sự thăng tiến trong công việc tùy thuộc vào khả năng sử dụng tiếng Anh.
Fortunately, an elderly man from a nearby factory assisted U Ba Khin in entering the Methodist Middle School at the age of eight. He proved a gifted student. He had the ability to commit his lessons to memory, learning his English grammar book by heart from cover to cover. He was first in every class and earned a middle school scholarship. A Burmese teacher helped him gain entrance to St. Paul’s Institution, where every year he was again at the head of his high school class.
U Ba Khin may mắn được một người đàn ông lớn tuổi ở gần khu nhà máy đã hỗ trợ vào trường trung học Methodist khi ông lên tám tuổi. Ông tỏ ra là một học sinh rất xuất sắc. Ông có khả năng ghi nhớ các bài giảng, học thuộc lòng sách ngữ pháp tiếng Anh từ đầu đến cuối. Năm học nào ông cũng đứng nhất lớp và nhận được một học bổng của trường trung học. Một giáo viên người Miến Điện đã giúp ông vào học trường Thánh Phaolô, ông lại xếp hạng nhất trong những năm học cấp 3 ở đó.
In March of 1917, he passed the final high school examination, winning a gold medal as well as a college scholarship. But family pressures forced him to discontinue his formal education to start earning money.
Vào tháng 3 năm 1917, ông hoàn thành kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông, đạt huy chương vàng và nhận được học bổng vào đại học. Nhưng áp lực kinh tế gia đình đã buộc ông thôi học để đi làm kiếm sống.
His first job was with a Burmese newspaper called The Sun, but after some time he began working as an accounts clerk in the office of the Accountant General of Burma. Few other Burmese were employed in this office since most of the civil servants in Burma at the time were British or Indian. In 1926 he passed the Accounts Service examination, given by the provincial government of India. In 1937, when Burma was separated from India, he was appointed the first Special Office Superintendent.
Ban đầu, ông đi làm cho một tòa soạn báo Miến Điện có tên là The Sun, sau đó ít lâu, ông bắt đầu làm kế toán cho phòng kế toán tổng hợp Miến Điện. Ở đó có rất ít người Miến Điện được nhận vào làm, hầu hết các công chức thời đó là người Anh hoặc Ấn Độ. Năm 1926 ông thi đậu kỳ thi ngành Kế Toán do chính phủ Ấn Độ tổ chức. Năm 1937, khi Miến Điện được tách khỏi Ấn Độ, ông được bổ nhiệm chức Giám Sát Văn Phòng Đặc Biệt.
His first Vipassana Course / Khóa học Vipassana đầu tiên của ông
It was on 1 January 1937, that Sayagyi tried meditation for the first time. A student of Saya Thetgyi—a wealthy farmer and meditation teacher—was visiting U Ba Khin and explained Anapana meditation to him. When Sayagyi tried it, he experienced good concentration, which impressed him so much that he resolved to complete a full course. Accordingly, he applied for a ten-day leave of absence and set out for Saya Thetgyi’s teaching centre.
Vào ngày 1 tháng 1 năm 1937, lần đầu tiên Sayagyi trải nghiệm một buổi thiền. Một học trò của Saya Thetgyi – một nông dân giàu có và là một giáo viên dạy thiền – đến thăm U Ba Khin và giảng giải cho ông hiểu về thiền Anapana . Khi Sayagyi trải nghiệm thiền Anapana, ông nhận được một sự tập trung tốt, điều đó đã gây ấn tượng mạnh mẽ với ông đến nỗi ông quyết định hoàn thành hết khóa học. Sau đó, ông xin nghỉ phép mười ngày để lên đường đến trung tâm giảng dạy của Saya Thetgyi.
Now, over fifty years later, when Vipassana meditation is freely available to seekers in many countries all over the world, it may seem strange to contemplate that in Burma, at that time, meditation teachers were rare. Lay teachers were even rarer. Saya Thetgyi had studied and practiced for 14 years under the guidance of Ledi Sayadaw, a well-known monk, meditation teacher and renowned Pali scholar. Before coming into contact with Ledi Sayadaw, Saya Thetgyi had practiced only Anapana for seven years because he was unable to find a teacher who could instruct him in Vipassana.
Thời nay, sau hơn năm mươi năm, khi thiền Vipassana có mặt ở nhiều quốc gia khắp thế giới, thì thật lạ khi biết rằng ở Miến Điện vào thời đó có rất ít giáo viên dạy thiền. Giáo viên không chuyên thì càng hiếm hơn. Saya Thetgyi đã học và thực hành thiền dưới sự dẫn dắt của Ledi Sayadaw, một nhà sư tiếng tăm, một giáo viên dạy thiền và một học giả Pali nổi tiếng. Trước khi gặp Ledi Sayadaw, Saya Thetgyi đã thực hành thiền Anapana bảy năm vì ông không thể tìm được giáo viên dạy thiền Vipassana.
It is a testament to U Ba Khin’s determination to learn Vipassana that he left the headquarters on short notice. His desire to meditate was so strong that only one week after trying Anapana, he was on his way to Saya Thetgyi’s centre at Pyawbwegyi.
Đó là một minh chứng rõ ràng cho thấy quyết tâm học Vipassana của U Ba Khin khi ông quyết định rời trụ sở chỉ trong một thời gian ngắn. Khát khao học thiền của ông mạnh mẽ đến mức chỉ sau một tuần thử học Anapana, ông đã lên đường đến trung tâm của Saya Thetgyi ở Pyawbwegyi.
The small village of Pyawbwegyi is due south of Rangoon, across the Rangoon River and miles of rice paddies. Although it is only eight miles from the city, the muddy fields before harvest time make it seem longer; travelers must cross the equivalent of a shallow sea.
Ngôi làng Pyawbwegyi nhỏ bé nằm ở phía nam Rangoon, bắc qua sông Rangoon và ở cách xa đồng ruộng. Mặc dù nó chỉ cách thành phố tám dặm, nhưng những cánh đồng lầy lội trước mùa gặt làm nó trở nên xa hơn, du khách đi qua đó giống như băng qua một vùng biển sâu.
When U Ba Khin crossed the Rangoon River, it was low tide, and the sampan boat he hired could only take him to Phyarsu village—about half the distance—along a tributary which connected to Pyawbwegyi. Sayagyi climbed the river bank, sinking in mud up to his knees. He covered the remaining distance on foot across the fields, arriving with his legs caked in mud.
Khi U Ba Khin băng qua sông Rangoon thì thủy triều xuống, con thuyền mà ông thuê chỉ có thể đưa ông đến làng Phyarsu – khoảng chừng nửa đoạn đường – dọc theo một nhánh sông nối đến Pyawbwegyi. Sayagyi bơi đến bờ sông, bùn ngập đến đầu gối. Ông đi bộ trên suốt quãng đường còn lại, hai chân chìm trong bùn lầy.
That same night, U Ba Khin and another Burmese student, who was a disciple of Ledi Sayadaw, received Anapana instructions from Saya Thetgyi. The two students advanced rapidly, and were given Vipassana the next day. Sayagyi progressed well during this first ten-day course, and continued his work during frequent visits to his teacher’s centre and meetings with Saya Thetgyi whenever he came to Rangoon.
Tối hôm đó, U Ba Khin và một học viên Miến Điện khác, là đệ tử của Ledi Sayadaw, được hướng dẫn thiền Anapana từ Saya Thetgyi. Cả hai học viên tiến bộ rất nhanh và được dạy Vipassana vào ngày hôm sau. Sayagyi học rất tốt trong khóa học mười ngày này, trở về tiếp tục công việc hằng ngày nhưng vẫn thường xuyên ghé thăm trung tâm thiền của thầy ông và Saya Thetgyi mỗi khi ông đến Rangoon.
When he returned to his office, Sayagyi found an envelope on his desk. He feared that it might be a dismissal note but found, to his surprise, that it was a promotion letter. He had been chosen for the post of Special Office Superintendent in the new office of the Auditor General of Burma.
Khi trở về văn phòng, Sayagyi thấy một bìa thư trên bàn. Ông sợ rằng đó là thư sa thải, nhưng thật ngạc nhiên, đó là một bức thư thăng chức. Ông được chọn cho chức vụ Tổng Giám Đốc Văn Phòng Đặc Biệt trong văn phòng mới của Tổng Kiểm Toán Miến Điện.
An Important Incident / Một biến cố quan trọng
In 1941, a seemingly happenstance incident occurred which was to be important in Sayagyi’s life. He had been promoted at the beginning of that year to the post of Chief Accounts Officer, Burma Railways Board. One of his duties was to travel on the Rangoon-Mandalay line auditing accounts for local stations. He travelled in a special carriage for the chief accountant, with full facilities for office work and sleeping overnight. His carriage would be attached to the main train, then detached at various stations.
Năm 1941, một biến cố quan trọng xảy ra trong cuộc đời Sayagyi. Ông được bổ nhiệm làm giám đốc kế toán cho ủy ban đường sắt Miến Điện. Một trong những nhiệm vụ của ông là đi lại trên tuyến đường sắt Rangoon-Mandalay để kiểm tra công việc kế toán của các ga tàu địa phương. Ông được đi trên toa tàu dành riêng cho kế toán trưởng, với đầy đủ tiện nghi cho công việc văn phòng và nghỉ qua đêm. Toa tàu của ông được ráp vào tàu chính, sau đó được tách ra ở các ga khác nhau.
One day in July, by error his carriage was detached at a station in the town of Kyaukse, 40 miles south of Mandalay. Although he was not scheduled to audit the accounts here, as Accounts Officer, he was permitted to check the accounts of any station, and he proceeded to do so. After his work was over, he decided to visit the nearby Shwetharlyaung hill and set out with the local station master. From the top of the hill they could see a cluster of buildings in the distance. They recognized it as the monastery of Webu Sayadaw (who later on became known, and was widely respected in Burma for his attainments in meditation). They decided to go to the monastery.
Vào một ngày tháng bảy, do trục trặc nên toa tàu của ông bị tách ra ở một ga thuộc thị trấn Kyaukse, cách Mandalay 40 dặm. Mặc dù ông không được xếp lịch kiểm tra công tác kế toán tại đây, nhưng với tư cách một kế toán trưởng, ông được phép kiểm tra ngẫu nhiên tất các cả ga, và ông đã tiến hành làm như vậy. Sau khi xong việc, ông quyết định đến thăm ngọn đồi Shwetharlyaung gần đó cùng với người trưởng ga tàu địa phương. Từ đỉnh đồi, nhìn thấy các cụm tòa nhà ở xa xa, họ nhận ra đó là tu viện của Webu Sayadaw (người mà sau này được biết đến và tôn kính rộng rãi ở Miến Điện nhờ những thành tựu đạt được trong thiền định). Họ quyết định đi đến tu viện đó.
At about 3:00 p.m. they arrived at the compound. An old nun sat pounding chillies and beans, and they asked her if they could pay respects to the Sayadaw.
Khoảng 3 giờ chiều, họ đã đến được cổng tu viện. Một nữ tu già đang nghiền ớt và đậu, và họ đã xin bà để họ gặp Sayadaw.
“This is not the time to see the reverend Sayadaw,” she said. “He is meditating and will not come out of his hut until about six o’clock. This monk does not entertain people. He only comes out of his hut for about half an hour in the evening. If there are people here at this time he may give a discourse and then return to his hut. He will not meet people at times they may wish to meet him.”
“Giờ không phải là lúc để gặp Sayadaw đáng kính”, bà nói. “Ông đang ngồi thiền và sẽ không ra khỏi túp lều của ông cho đến khoảng sáu giờ. Vị sư này không quen làm vừa lòng mọi người đâu. Ông chỉ ra khỏi lều khoảng nửa tiếng vào buổi tối. Nếu có người đến vào giờ này, ông sẽ nói chuyện với họ và sau đó trở về túp lều của ông. Ông sẽ không gặp mọi người vào mọi lúc mà họ muốn”
U Ba Khin explained that he was a visitor from Rangoon and that he did not have much time. He would like very much to meet Webu Sayadaw. Would it not be possible to pay respects outside?
U Ba Khin giải thích rằng ông là khách đến từ Rangoon và không có nhiều thời gian. Ông tha thiết muốn gặp Webu Sayadaw. Ông có thể bày tỏ lòng tôn kính bên ngoài này được không?
The nun pointed out the hut, a small bamboo structure, and the visitors went there together. Sayagyi knelt on the ground and said, “Venerable Sir, I have come all the way from Lower Burma, Rangoon, and wish to pay respects to you.”
Vị nữ tu chỉ vào túp lều, một túp lều nhỏ được làm bằng tre, và hai vị khách cùng tiến đến đó. Sayagyi quỳ dưới đất và nói , “Thưa Ngài, tôi đến từ miền nam Miến Điện, Rangoon, và tôi mong được thể hiện sự tôn kính với Ngài.”
To everyone’s astonishment, the door to the hut opened and the Sayadaw emerged, preceded by a cloud of mosquitoes. Sayagyi paid respects, keeping his attention in the body with awareness of anicca.
Trước sự ngạc nhiên của mọi người, cửa lều mở ra và Sayadaw xuất hiện, phía trước ông là một bầy muỗi. Sayagyi thể hiện lòng tôn kính, giữ sự tập trung trên cơ thể với ý thức rõ rệt về vô thường.
“What is your aspiration, layman?” Webu Sayadaw asked Sayagyi.
“Khát vọng của anh là gì, người thế tục?” Webu Sayadaw hỏi Sayagyi.
“My aspiration is to attain nibbāna, sir,” U Ba Khi replied.
“Khát vọng của tôi là đạt được Niết Bàn (nibbāna), thưa Ngài,” U Ba Khin trả lời
“Nibbāna? How are you going to attain nibbāna?”
“Niết Bàn? Anh dự định đi đến Niết Bàn như thế nào?”
“Through meditation and by knowing anicca, sir,” said Sayagyi.
“Bằng thiền định và hiểu biết về Vô Thường (anicca),thưa Ngài, Sayagyi nói.
“Where did you learn to be aware of this anicca?”
“Anh học nhận thức về vô thường ở đâu?”
Sayagyi explained how he had studied Vipassana meditation under Saya Thetgyi.
Sayagyi giải thích về việc học thiền Vipassana dưới sự hướng dẫn của Saya Thetgyi.
“You have been practicing Vipassana?”
“Anh đang thực hành thiền Vipassana?”
“Yes, sir, I am practicing Vipassana.”
“Vâng, thưa Ngài, tôi đang thực hành thiền Vipassana.”
“What sort of Vipassana?”
“Loại Vipassana nào?”
Webu Sayadaw questioned him closely and Sayagyi gave the details. The Sayadaw was very pleased.
Webu Sayadaw hỏi rất kỹ và Sayagyi kể rất chi tiết. Sayadaw rất hài lòng.
He said, “I have been meditating in this jungle alone for years in order to experience such stages of Vipassana as you describe.” He seemed astonished to encounter a householder who had reached advanced proficiency in the practice without being a monk.
Ông nói , “Tôi đã ngồi thiền một mình nhiều năm trong rừng để trải nghiệm những giai đoạn của Vipassana như anh mô tả.” Ông rất ngạc nhiên khi gặp một người chủ nhà đã đạt được trình độ cao trong luyện tập mà không trở thành một nhà sư.
Webu Sayadaw meditated with Sayagyi, and after some time said, “You must start teaching now. You have acquired good pāramī, and you must teach the Dhamma to others. Do not let people who meet you miss the benefits of receiving this teaching. You must not wait. You must teach-teach now!”
Webu Sayadaw ngồi thiền với Sayagyi, một lát sau ông nói, “Anh phải bắt đầu dạy. Anh có phẩm hạnh tốt, anh hãy dạy Dhamma cho người khác. Đừng để người khác bỏ lỡ những lợi lạc có thể nhận được từ sự giảng dạy của anh. Đừng chờ đợi nữa. Hãy dạy-dạy đi !”
With a Dhamma injunction of such strength from this saintly person, U Ba Khin felt he had no choice but to teach. Back at the railway station, the station master became his first student. Sayagyi instructed him in Anapana meditation in his railway carriage, using the two tables of the dining compartment as their seats.
Với một mệnh lệnh mạnh mẽ của Dhamma từ vị thánh này, U Ba Khin cảm thấy không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc dạy. Trở về ga xe lửa, người trưởng trạm này trở thành học trò đầu tiên của ông. Sayagyi hướng dẫn người trưởng trạm thiền Anapana trong toa xe lửa, sử dụng 2 chiếc bàn ăn làm chỗ ngồi.
U Ba Khin did not begin teaching in a formal way until about a decade after he first met Webu Sayadaw. Saya Thetgyi also encouraged him to teach Vipassana. Once during the Japanese occupation of Burma, Saya Thetgyi came to Rangoon and stayed with one of his students who was a government official. When his host and other students expressed a wish to see Saya Thetgyi more often, he replied, “I am like the doctor who can only see you at certain times. But U Ba Khin is like the nurse who will see you any time.”
Như vậy, U Ba Khin chưa bắt đầu dạy chính thức cho đến một thập kỷ sau lần đầu gặp gỡ Webu Sayadaw. Saya Thetgyi cũng khuyến khích ông dạy thiền Vipassana. Trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Miến Điện, Saya Thetgyi đến Rangoon và ở đó cùng với một học trò của ông là một người làm quan chức chính phủ. Khi chủ nhà và một nhóm học trò ngỏ ý muốn gặp Saya Thetgyi thường xuyên hơn, ông trả lời , “Tôi giống như bác sĩ mà các bạn chỉ gặp được vào những thời điểm nhất định. Nhưng U Ba Khin thì giống như y tá để các bạn có thể gặp mọi lúc.”
Outstanding Government Service / Người phục vụ xuất sắc của chính phủ
Sayagyi’s government service continued for another twenty-six years. He became Accountant General on 4 January 1948, the day Burma gained independence. For the next two decades, he was employed in various capacities in the government, most of the time holding two or more posts, each equivalent to the head of a department. At one time he served as head of three separate departments simultaneously for three years and, on another occasion, head of four departments for about one year.
Sayagyi tiếp tục phục vụ chính phủ trong 26 năm tiếp theo. Ông trở thành kế toán trưởng vào ngày 4 tháng 1 năm 1948, ngày mà Miến Điện giành được độc lập. Trong vòng hai thập kỷ tiếp theo, ông được bổ nhiệm vào các vị trí khác nhau trong chính phủ, hầu hết thời gian ông giữ hai hoặc nhiều chức vụ, mỗi chức vụ tương đương người đứng đầu của một phòng ban. Có một thời gian, ông giữ vị trí lãnh đạo cho 3 phòng ban khác nhau đồng thời trong 3 năm, và vào một thời điểm khác ông làm lãnh đạo cùng lúc 4 phòng ban trong 1 năm.
When he was appointed as the chairman of the State Agricultural Marketing Board in 1956, the Burmese government conferred on him the title of “Thray Sithu,” a high honorary title. Only the last four years of Sayagyi’s life were devoted exclusively to teaching meditation. The rest of the time he combined his skill in meditation with his devotion to government service and his responsibilities to his family. Sayagyi was a married householder with five daughters and one son.
Khi ông được bổ nhiệm làm chủ tịch Ban Tiếp Thị Nông Nghiệp năm 1956, chính phủ Miến Điện đã trao tặng ông danh hiệu “Thray Sithu”, một danh hiệu cao quý. Bốn năm cuối đời Sayagyi dành trọn thời gian cống hiến cho việc dạy thiền. Thời gian còn lại đó, ông kết hợp những kỹ năng về thiền vào sự cống hiến cho chính phủ và làm tròn trách nhiệm với gia đình. Sayagyi có một cuộc hôn nhân được gia đình sắp đặt với năm đứa con gái và một con trai.
Torchbearer of Dhamma / Ngọn đuốc Dhamma
In 1950 he founded the Vipassana Association of the Accountant General’s Office where lay people, mainly employees of that office, could learn Vipassana. In 1952, the International Meditation Centre (I.M.C.) was opened in Rangoon, two miles north of the famous Shwedagon pagoda. Here many Burmese and foreign students had the good fortune to receive instruction in the Dhamma from Sayagyi.
Năm 1950 ông sáng lập Hiệp hội Vipassana của văn phòng kế toán tổng hợp để những người chưa biết về thiền Vipassana , chủ yếu là nhân viên trong văn phòng đó, có thể học Vipassana. Năm 1952, Trung Tâm Thiền Quốc Tế (I.M.C.) được thành lập ở Rangoon, cách ngôi chùa Shwedagon nổi tiếng hai dặm về phía bắc. Tại đây nhiều người Miến Điện và những người nước ngoài khác đã may mắn nhận được dẫn dắt Dhamma từ Sayagyi.
In 1953, Webu Sayadaw accepted an invitation to come to I.M.C. for a week with his entourage of monks to meditate and to give mettā. Until that time, he had confined his travels to only three places: the meditation compounds in Kyaukse and Shwebo, and the village he was born in, Ingyinpin. This visit demonstrated Webu Sayadaw’s high regard for Sayagyi, since it was unusual for a monk to stay at the meditation centre of a lay teacher.
Năm 1953, Webu Sayadaw cùng một nhóm các nhà sư nhận lời mời đến thăm I.M.C. trong một tuần để hành thiền và lan tỏa mettā. Trong thời gian đó, ông giới hạn hành trình tại 3 địa điểm : Kyaukse, Shwebo và ngôi làng Ingyinpin nơi ông được sinh ra. Chuyến viếng thăm này là minh chứng sự quan tâm của Webu Sayadaw đối với Sayagyi, bởi vì việc một nhà sư ở lại một trung tâm thiền của một giáo viên không chuyên là chưa bao giờ xảy ra.
At one time, Sayagyi decided to fulfill the Burmese tradition of becoming a monk at least once in one’s lifetime. Without notifying anyone in advance, he and a Burmese student of his went to Webu Sayadaw’s centre at Shwebo and, under Webu’s guidance, took robes for a period of ten days.
Có một lần, Sayagyi quyết định thực hiện truyền thống Miến Điện là trở thành tu sĩ ít nhất một lần trong đời. Không thông báo trước cho bất kỳ ai, ông và một học viên người Miến Điện đã đến trung tâm của Webu Sayadaw tại Shwebo, và dưới sự dẫn dắt của Webu, ông đã khoác tấm áo choàng lên người trong thời gian 10 ngày.
Between the years of 1954 and his death in 1977, Webu Sayadaw made regular annual visits to towns in southern Burma to teach Dhamma. During Sayagyi’s lifetime, he periodically visited I.M.C. as well. The Sayadaw was held to be an arahant (fully enlightened being), and it was a high honour for I.M.C. to receive him.
Từ năm 1954 cho đến năm cuối đời 1977, Webu Sayadaw đã tổ chức nhiều chuyến đi hằng năm đến các thị trấn miền nam Miến Điện để dạy Dhamma. Trong suốt quãng thời gian sống của Sayagyi, ông cũng ghé thăm I.M.C đều đặn. Sayadaw được xem như một vị arahant (người được giác ngộ hoàn toàn), đó là một vinh dự cho I.M.C. khi đón nhận ông.
When Webu Sayadaw visited Sayagyi’s centre, he usually gave a short Dhamma talk every day. He once mentioned, “When we first visited this place it was like a jungle, but now what progress has been made in these years. It resembles the time of the Buddha when many benefited! Can one imagine how many enjoyed the fruits of Dhamma in a single moment? Can one count the number? Innumerable!”
Mỗi khi Webu Sayadaw ghé thăm trung tâm của Sayagyi, ông thường có một buổi nói chuyện ngắn. Ông đã từng nói , “lần đầu tôi đến đây, nó giống như rừng rậm, nhưng đã có nhiều tiến bộ đạt được trong những năm gần đây. Nó giống như ở thời Đức Phật khi mà có nhiều người hưởng được lợi lạc! Có thể tưởng tượng bao nhiêu người được hưởng thành quả của Dhamma trong khoảnh khắc đó? Có thể đếm được bao nhiêu thành quả không? Một con số không thể đếm được!”
Because of his highly demanding government duties, Sayagyi was only able to teach a small number of students. Many of his Burmese students were connected with his government work. Many Indian students were introduced by Goenkaji. Sayagyi’s students from abroad were small in number but diverse, including leading Western Buddhists, academicians, and members of the diplomatic community in Rangoon.
Bởi vì nhiều đòi hỏi cao trong nhiệm vụ với chính phủ, Sayagyi chỉ có thể dạy được một số ít học viên. Các học viên người Miến Điện của ông thường là có liên quan đến các công việc trong chính phủ của ông. Nhiều học viên người Ấn Độ khác được giới thiệu bởi Goenkaji. Các học viên nước ngoài của Sayagyi thì ít nhưng đa dạng, bao gồm các phật tử, học giả phương Tây hàng đầu và các thành viên của công đồng ngoại giao ở Rangoon.
From time to time, Sayagyi was invited to address foreign audiences in Burma on the subject of Dhamma. On one occasion, for example, he was asked to deliver a series of lectures at the Methodist Church in Rangoon. These lectures were published as a booklet titled “What Buddhism Is.” Copies were distributed to Burmese embassies and various Buddhist organizations around the world. This booklet attracted a number of Westerners to attend courses with Sayagyi.
Thỉnh thoảng, Sayagyi được mời thuyết giảng cho khán giả nước ngoài ở Miến Điện về chủ đề Dhamma. Một lần, ông được yêu cầu giảng một loạt các bài giảng tại nhà thờ Methodist ở Rangoon. Những bài giảng được xuất bản thành quyển sách có tựa đề “What Buddhism Is.” . Sách đã được gửi đến đại sứ quán Miến Điện và nhiều tổ chức Phật Giáo khác trên thế giới. Tập sách này đã thu hút được nhiều người phương Tây tham gia khóa học với Sayagyi.
On another occasion he delivered a lecture to a group of press representatives from Israel, who were in Burma on the occasion of the visit of Israel’s prime minister, David Ben Gurion. This lecture was later published under the title “The Real Values of True Buddhist Meditation.”
Một dịp khác, ông đã có một buổi thuyết trình cho một nhóm đại diện báo chí từ Israel, những người này đến Miến Điện trong chuyến thăm Miến Điện của thủ tướng Israel, David Ben Gurion. Bài giảng này sau đó được xuất bản thành sách với tựa đề “The Real Values of True Buddhist Meditation.”
Sayagyi was active in the planning for the Sixth Buddhist Council known as Chaṭṭha Saṅgāyana (Sixth Recitation) which was held in 1954-56 in Rangoon. Sayagyi was a founding member in 1950 of two organizations which were later merged to become the Union of Burma BuddhaSāsana Council (U.B.S.C.), the main planning body for the Great Council. U Ba Khin served as an executive member of the U.B.S.C. and as chairman of the committee for paṭipatti (practice of meditation).
Sayagyi đã tích cực lên kế hoạch cho Đại Hội Phật Giáo lần thứ sáu, còn gọi là Chaṭṭha Saṅgāyana (Bài Tụng Thứ Sáu) được tổ chức năm 1954-56 tại Rangoon. Sayagyi là một thành viên sáng lập vào năm 1950 của hai tổ chức mà sau này sáp nhập với nhau thành Hội Liên Hiệp Phật Giáo Miến Điện (U.B.S.C.), một nhánh chính của Đại Hội Đồng. U Ba Khin từng là người quản lý cho U.B.S.C. và là chủ tịch hội đồng paṭipatti (thực hành thiền định).
He also served as honorary auditor of the Council and was therefore responsible for maintaining the accounts for all dāna(donation) receipts and expenditures. There was an extensive building programme spread over 170 acres to provide housing, dining areas and kitchen, a hospital, library, museum, four hostels and administrative buildings. The focal point of the entire enterprise was the Mahā Pāsāṇaguhā (Great Cave), a massive hall where approximately five thousand monks from Burma, Sri Lanka, Thailand, India, Cambodia and Laos gathered to recite, purify, edit and publish the Tipiṭaka (Buddhist scriptures). The monks, working in groups, prepared the Pāli texts for publication, comparing the Burmese, Sri Lankan Thai, and Cambodian editions and the Roman-script edition of the Pāli Text Society in London. The corrected and approved texts were recited in the Great Cave. Ten to fifteen thousand lay men and women came to listen to the recitations of the monks.
Ông cũng là một kiểm toán viên danh dự của Hội Đồng và do đó chịu trách nhiệm cân đối tài khoản cho những khoản tiền quyên góp và tiền chi tiêu cho Hội Đồng. Có một chương trình xây dựng rộng lớn trải rộng trên 170 mẫu đất để cung cấp nhà ở, khu vực ăn uống và nhà bếp, một bệnh viện, thư viện, đền chùa, bốn nhà trọ và các tòa nhà điều hành. Tâm điểm của các hoạt động trên là xây dựng nên Mahā Pāsāṇaguhā (Great Cave), một hội trường lớn có sức chứa năm ngàn tu sĩ từ Miến Điện, Sri Lanka, Thái Lan, Ấn Độ, Campuchia, Lào , họ tập trung lại để đọc, thanh lọc, chỉnh sửa và xuất bản cuốn Tipiṭaka (Thánh Thư Phật Giáo). Các nhà sư, làm việc theo nhóm, chuẩn bị bản thảo bằng tiếng Pāli, so sánh với các ấn bản tiếng Miến Điện, Sri Lanka, Thái Lan, Campuchia và bản thảo tiếng La Mã của Hội Văn Bản Pāli ở Luân Đôn. Các bản đã chỉnh sửa và thông qua thì được đọc và tụng niệm ở Great Cave. Mười đến mười lăm ngàn phật tử đã đến nghe các bài tụng của các nhà sư.
To efficiently handle the millions in donations that came for this undertaking, U Ba Khin created a system of printing receipt books on different coloured paper for different amounts of dāna, ranging from the humblest donation up to very large amounts. Only selected people were allowed to handle the larger contributions, and every donation was scrupulously accounted for, avoiding any hint of misappropriation.
Để xử lý hiệu quả hàng triệu khoản quyên góp cho công việc này, U Ba Khin đã tạo ra một hệ thống biên lai nhiều màu cho các khoản quyên góp khác nhau, được sắp xếp từ các khoản quyên góp nhỏ nhất cho đến lớn nhất. Chỉ những người được chọn mới được phép xử lý các khoản đóng góp lớn hơn, và mỗi khoản đóng góp đều được tính toán kỹ lưỡng, nhằm tránh việc sử dụng phung phí hay chiếm dụng.
Sayagyi remained active with the U.B.S.C. in various capacities until 1967. In this way he combined his responsibilities and talents as a layman and government official with his strong Dhamma volition to spread the teaching of Buddha. In addition to the prominent public service he gave to that cause, he continued to teach Vipassana regularly at his centre. Some of the Westerners who came to the Sixth Council were referred to Sayagyi for instruction in meditation since at that time there was no other teacher of Vipassana who was fluent in English.
Sayagyi duy trì hoạt động cho U.B.S.C. trong nhiều mảng công việc khác nhau cho đến năm 1967. Bằng cách này, ông đã kết hợp trách nhiệm và tài năng của mình như một phật tử và quan chức chính phủ với ý chí Dhamma mạnh mẽ để truyền bá giáo lý của Đức Phật. Ngoài những việc làm đáng chú ý để phục vụ công đồng với mục đích như trên, ông vẫn tiếp tục dạy Vipassana thường xuyên tại trung tâm của ông. Nhiều người phương Tây đã đến Đại Hội Thứ Sáu gặp Sayagyi để được hướng dẫn thiền vì thời đó không có giáo viên dạy thiền Vipassana nào có thể nói tiếng Anh trôi chảy.
Last Years / Những năm cuối đời
Sayagyi finally retired from his outstanding career in government service in 1967. From that time, until his death in 1971, he stayed at I.M.C., teaching Vipassana. Shortly before his death he thought back to all those who had helped him—the old man who had helped him start school, the Burmese teacher who helped him join St. Paul’s and, among many others, one friend whom he had lost sight of over forty years earlier and now found mentioned in the local newspaper. He dictated letters addressed to this old friend and to some foreign students and disciples, including Goenkaji. On the 18th of January, Sayagyi suddenly became ill. When his newly rediscovered friend received Sayagyi’s letter on the 20th, he was shocked to read Sayagyi’s death announcement in the same post.
Sayagy cuối cùng cũng nghỉ hưu, gác lại sự nghiệp xuất sắc cho chính phủ năm 1967. Từ khoảng thời gian đó cho đến năm 1971 khi ông mất, ông sống tại I.M.C., dạy thiền Vipassana. Một thời gian ngắn trước khi mất, ông thường nghĩ về những người đã từng giúp đỡ ông – người đàn ông đứng tuổi giúp ông đi học ở ngôi trường đầu tiên, giáo viên người Miến Điện người đã giúp ông vào trường thánh Phao lô, và nhiều người khác nữa, một người bạn mà ông đã mất liên lạc 40 năm trước nay được tìm thấy từ một tờ báo địa phương. Ông đã viết thư cho người bạn cũ đó và một vài học viên nước ngoài và các đệ tử, bao gồm cả Goenkaji. Vào ngày 18 tháng 1, Sayagyi đột nhiên đổ bệnh. Khi người bạn cũ ông vừa tìm được nhận được bức thư của Sayagyi vào ngày 20, ông thật sự bị sốc khi đọc được tin Sayagyi đã mất trong cùng thời điểm đó.
After Sayagyi’s death, Webu Sawadaw visited Rangoon and gave a private interview to about 25 students from Sayagyi’s centre. When it was reported to the Sayadaw that Sayagyi had died, he said, “Your Sayagyi never died. A person like your Sayagyi will not die. You may not see him now, but his teaching lives on. Not like some persons who, even though they are alive, are as if dead-who serve no purpose and who benefit none.”
Sau khi Sayagyi mất, Webu Sawadaw có ghé thăm Rangoon và có một buổi gặp mặt riêng với khoảng 25 học viên tại trung tâm của Sayagyi. Khi nghe tin Sayagyi mất, Sayadaw nói rằng “Sayagyi của các bạn chưa bao giờ chết. Một người người như Sayagyi sẽ không chết. Có thể bạn không nhìn thấy ông ấy, nhưng những lời dạy của ông còn sống mãi. Không giống như những người, mặc dù họ còn sống, nhưng giống như những người đã chết, những người sống không có mục đích và không làm được lợi ích gì cho người khác.”
Goenkaji was in India conducting a course when news of his teacher’s death reached him. He sent a telegram back to I.M.C. which contained the famous Pali verse: “Aniccā vata saṅkhārā,uppādavaya-dhammino. Uppajjitvā nirujjhanti, tesaṃ vūpasamo sukho.” -Impermanent truly are compounded things, by nature arising and passing away. If they arise and are extinguished, their eradication brings happiness.
Goenkaji đang trong một khóa dạy ở Ấn Độ khi nghe tin báo thầy ông đã mất. Ông liền gửi một bức thư về cho I.M.C. với những vần thơ Pali nổi tiếng:
“Aniccā vata saṅkhārā,uppādavaya-dhammino.
Uppajjitvā nirujjhanti, tesaṃ vūpasamo sukho.”
–Vô thường thật sự là phức tạp, tự nhiên sinh ra và mất đi.
Nếu có sinh thì cũng có diệt, sự diệt trừ cũng mang lại hạnh phúc.
One year later, in a tribute to his teacher, Goenkaji wrote: “Even after his passing away one year ago, observing the continued success of the courses, I get more and more convinced that it is his mettā (loving-kindness) force which is giving me all the inspiration and strength to serve so many people… Obviously the force of Dhamma is immeasurable.”
Một năm sau đó, để tỏ lòng tôn kính với thầy của mình, Goenkaji đã viết : “Mặc dù thầy đã qua đời được 1 năm, khi quan sát sự thành công liên tục của các khóa học, tôi càng tin chắc rằng tâm từ bi của thầy đã mang lại cho tôi nguồn cảm hứng và sức mạnh để phục vụ nhiều người…Rõ ràng lợi ích của Dhamma là không thể đếm được.”
Sayagyi U Ba Khin’s aspirations are being accomplished. The Buddha’s teachings, carefully preserved all these centuries, are still being practiced, and are still bringing results here and now.
Khát vọng của Sayagyi U Ba Khin đã được thực hiện. Những lời dạy của Đức Phật đã được giữ gìn cẩn thận qua nhiều thế kỷ, tiếp tục được nhiều người thực hành và vẫn mang lại nhiều kết quả tốt đẹp cho đến tận bây giờ.
As Sayagyi said, “The time-clock of Vipassana has now struck-that is, for the revival of Vipassana in practice. We have no doubt whatsoever that definite results would accrue to those who would, with an open mind, sincerely undergo a course of training under a competent teacher-I mean results which will be accepted as good, concrete, vivid, personal, here-and-now; results which will keep in good stead and in a state of well-being and happiness for the rest of their lives.”
Đúng như Sayagyi đã nói , “Đồng hồ của Vipassana đã điểm, cho sự hồi sinh của Vipassana. Chúng ta không chút nghi ngờ nào về kết quả chắc chắn sẽ được tích lũy cho những người với một tâm trí cởi mở, chân thành trải qua một khóa học cùng với một giáo viên đủ khả năng – Ý tôi nói kết quả có nghĩa là trở nên tốt hơn, vững chãi, tỏa sáng, độc lập, ở đây và bây giờ ; kết quả sẽ giữ cho một người ổn định trong trạng thái hạnh phúc và hạnh phúc cho đến cuối đời.”