Phân Tích Giới Tỳ Khưu II
Chương Sekhiyā: Phẩm Chống Nạnh
Điều học thứ nhất
Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư chống nạnh đi ở nơi xóm nhà. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không chống nạnh đi ở nơi xóm nhà ’ là việc học tập nên được thực hành.”
Không nên chống nạnh đi ở nơi xóm nhà. Vị nào chống nạnh một bên hoặc hai bên rồi đi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ nhì
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư chống nạnh ngồi ở nơi xóm nhà. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không chống nạnh ngồi ở nơi xóm nhà’ là việc học tập nên được thực hành.”
Không nên chống nạnh ngồi ở nơi xóm nhà. Vị nào chống nạnh một bên hoặc hai bên rồi ngồi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị đã vào đến nơi trú ngụ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ ba
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trùm y luôn cả đầu rồi đi ở nơi xóm nhà. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không trùm đầu lại đi ở nơi xóm nhà’ là việc học tập nên được thực hành.”
Vị trùm đầu lại không nên đi ở nơi xóm nhà. Vị nào trùm y luôn cả đầu rồi đi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ tư
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trùm y luôn cả đầu rồi ngồi ở nơi xóm nhà. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không trùm đầu lại ngồi ở nơi xóm nhà’ là việc học tập nên được thực hành.”
Vị trùm đầu lại không nên ngồi ở nơi xóm nhà. Vị nào trùm y luôn cả đầu rồi ngồi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ năm
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đi ở nơi xóm nhà với sự nhón gót. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không đi ở nơi xóm nhà với sự nhón gót’ là việc học tập nên được thực hành.”
Không nên đi ở nơi xóm nhà với sự nhón gót. Vị nào đi ở nơi xóm nhà với sự nhón gót do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ sáu
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi ở nơi xóm nhà với sự ôm đầu gối. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không ngồi ở nơi xóm nhà với sự ôm đầu gối’ là việc học tập nên được thực hành.”
Không nên ngồi ở nơi xóm nhà với sự ôm đầu gối. Vị nào ngồi ở nơi xóm nhà với sự ôm đầu gối bằng tay hoặc ôm đầu gối bằng miếng vải do không có sự tôn trọng thì phạm tộidukkaṭa.
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị đã vào đến nơi trú ngụ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ bảy
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ lãnh đồ khất thực không nghiêm trang như là có ý muốn đổ bỏ. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ thọ lãnh đồ khất thực một cách nghiêm trang’[8] là việc học tập nên được thực hành.”
Nên thọ lãnh đồ khất thực một cách nghiêm trang. Vị nào thọ lãnh đồ khất thực không nghiêm trang như là có ý muốn đổ bỏ do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ tám
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nhìn chỗ này chỗ nọ khi thọ lãnh đồ khất thực. Ngay cả trong lúc vung vãi luôn cả trong lúc làm tràn ra ngoài các vị đều không hay biết. ―(như trên)―
“‘Chú tâm ở bình bát, ta sẽ thọ lãnh đồ khất thực’ là việc học tập nên được thực hành.”
Nên thọ lãnh đồ khất thực với sự chú tâm ở bình bát. Vị nào nhìn chỗ này chỗ nọ khi thọ lãnh đồ khất thực do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, ―(như trên)―vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ chín
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư, trong khi thọ lãnh đồ khất thực, thọ lãnh quá nhiều xúp. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ thọ lãnh đồ khất thực với lượng xúp tương xứng’ là việc học tập nên được thực hành.”
Xúp nghĩa là có hai loại xúp: xúp đậu mugga và xúp đậu māsa là nên được mang đi bằng tay. Nên thọ lãnh đồ khất thực với lượng xúp tương xứng. Vị nào thọ lãnh quá nhiều xúp do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, khi (xúp) có thêm nhiều món khác nhau để tăng hương vị, của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, vì nhu cầu của vị khác, do vật sở hữu của bản thân, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ mười
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ lãnh đồ khất thực được làm vun đầy lên. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ thọ lãnh đồ khất thực vừa ngang miệng (bình bát)’ là việc học tập nên được thực hành.”
Nên thọ lãnh đồ khất thực vừa ngang miệng (bình bát). Vị nào thọ lãnh đồ khất thực được làm vun đầy lên do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Phẩm Chống Nạnh là thứ ba.
–ooOoo–
[1] Sách The Buddhist Monastic Code cho biết khoảng cách của 500 cây cung độ chừng 1 km.
[2] Năm hạng người đồng đạo là tỳ khưu, tỳ khưu ni, cô ni tu tập sự, sa di, và sa di ni.
[3] Sekhiya: (vị lai phân từ thụ động, ngữ căn √sikkh): cần được học tập, nên được rèn luyện.
[4] Động từ nivāseti áp dụng cho antaravāsaka (y nội) nên được dịch là “quấn y (nội).”
[5] Động từ pārupati áp dụng cho uttarāsaṅga (thượng y, y vai trái) nên được dịch là “trùm y (vai trái).”
[6] Nghĩa là nhìn phía trước ở mặt đất khoảng cách 4 hattha, khoảng 2 mét (VinA. iv, 891).
[7] Appasaddo: dịch sát nghĩa là “ít tiếng động, tiếng động nhỏ.” Chú Giải cho ví dụ về tiếng động nhỏ như sau: “Trong căn nhà dài 6 mét có ba vị trưởng lão ngồi, một vị ngồi đầu này, một vị ngồi giữa, một vị ngồi đàng cuối (như vậy vị ngồi giữa cách đều hai vị kia một khoảng cách là 3 mét). Khi vị thứ nhất nói nhỏ nhẹ thì vị ngồi ở giữa nghe và xác định được nội dung, còn vị kia ngồi cách 6 mét nghe tiếng nói nhưng không xác định được nội dung. Cho đến như vậy là tiếng động nhỏ. Trái lại, nếu vị trưởng lão thứ ba xác định được nội dung thì gọi là tiếng động lớn” (VinA. iv, 891).
[8] sakkaccan ti satiṃ upaṭṭhapetvā: nghiêm trang là sau khi thiết lập niệm (VinA. iv, 891).
[9] Hợp từ piṇḍukkhepakaṃ được dịch sát nghĩa là “sự thảy lên cục (cơm).” Như vậy theo sự xác định ở phần không phạm tội thì vật thực cứng và các thứ trái cây được phép thảy vào miệng! Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “piṇḍukkhepakan ti piṇḍaṃ ukkhipitvā ukkhipitvā” (VinA. iv, 893), chúng tôi hiểu sự lập lại của bất biến động từ ukkhipitvā là “đưa lên rồi đưa lên” nên đã ghi lại lời dịch Việt là: “thọ thực theo lối đưa thức ăn (vào miệng) một cách liên tục.”
[10] Hợp từ kabaḷāvacchedaka được dịch sát nghĩa là “sự cắn vắt cơm làm hai.” Cũng như điều trên, khi xem đến phần không phạm tội với các vật thực cứng, các thứ trái cây, các món ăn đặc biệt, chúng tôi hiểu lời giải thích “kabaḷāvacchedakan ti kabaḷaṃ avacchinditvā avacchindivā” của ngài Buddhaghosa là “cắn đi cắn lại vắt cơm,” “cắn vắt cơm từng chút một,” nói theo cách nôm na là “ăn theo lối nhâm nhi.”
[11] Từ nillehakaṃ nghĩa là sự liếm, vét trong ba cụm từ “hattha-nillehakaṃ, patta-nillehakaṃ, oṭṭha-nillehakaṃ” liên quan đến tay, bình bát, và môi. Sở dĩ chúng tôi không dịch là “liếm bình bát” vì điều ấy không thể thực hiện được nên ghi là “nạo vét.” Nếu vị tỳ khưu thọ thực trong đĩa thì từ “liếm” có thể áp dụng (ND).
[12] Xem phần giảng giải chi tiết ở Cullavagga – Tiểu Phẩm, TTPV tập 06, chương IV.
TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)