Phân Tích Giới Tỳ Khưu II

Chương Pācittiya: Phẩm đức vua

Điều học về hậu cung của đức vua

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã ra lệnh cho người giữ công viên rằng: – “Này khanh, hãy đi và làm sạch sẽ công viên. Chúng ta sẽ đi đến công viên.” – “Tâu bệ hạ, xin vâng.” Rồi người giữ công viên nghe lệnh đức vua Pasenadi xứ Kosala, trong lúc làm sạch sẽ công viên đã nhìn thấy đức Thế Tôn đang ngồi ở gốc cây nọ, sau khi nhìn thấy đã đi đến gặp đức vua Pasenadi xứ Kosala, sau khi đến đã tâu với đức vua Pasenadi xứ Kosala điều này: – “Tâu bệ hạ, công viên đã được sạch sẽ. Tuy nhiên, đức Thế Tôn đang ngồi ở đó.” – “Này khanh, hãy vậy đi. Chúng ta sẽ thăm viếng đức Thế Tôn.”

Sau đó, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã đi đến công viên và đã đi đến gần đức Thế Tôn. Vào lúc bấy giờ, có nam cư sĩ nọ đang ngồi thăm viếng đức Thế Tôn. Đức vua Pasenadi xứ Kosala đã nhìn thấy nam cư sĩ ấy đang ngồi thăm viếng đức Thế Tôn, sau khi nhìn thấy đã hoảng sợ đứng lại. Khi ấy, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã khởi ý điều này: “Theo như việc người đàn ông này thăm viếng đức Thế Tôn thì không phải là kẻ ác” nên đã đi đến gần đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, nam cư sĩ ấy do sự tôn kính đức Thế Tôn đã không cúi lạy đức vua Pasenadi xứ Kosala cũng không đứng dậy chào. Khi ấy, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã không được hài lòng (nghĩ rằng): “Tại sao người đàn ông này lại không cúi lạy cũng không đứng dậy chào khi ta đi đến?” Khi ấy, đức Thế Tôn nhận biết đức vua Pasenadi xứ Kosala không được hài lòng của nên đã nói với đức vua Pasenadi xứ Kosala điều này: – “Tâu đại vương, vị nam cư sĩ này là vị nghe nhiều, kinh điển đã được truyền thừa, đã lìa khỏi tham ái trong các dục.”

Khi ấy, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã khởi ý điều này: “Nam cư sĩ này quả không phải là thấp thỏi. Đức Thế Tôn còn khen ngợi người này” rồi đã nói với nam cư sĩ ấy điều này: – “Này nam cư sĩ, khanh có thể nói lên điều có lợi ích.” – “Tâu bệ hạ, rất đúng.” Sau đó, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Pasenadi xứ Kosala bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.

Vào lúc bấy giờ, đức vua Pasenadi xứ Kosala đang ngự ở tầng trên của tòa lâu đài. Đức vua Pasenadi xứ Kosala đã nhìn thấy nam cư sĩ ấy tay cầm dù đang đi ở trên đường, sau khi nhìn thấy đã ra lệnh mời đến rồi đã nói điều này: – “Này nam cư sĩ, nghe nói khanh nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa. Này nam cư sĩ, tốt thay khanh hãy nói Pháp cho các cung phi của trẫm.” – “Tâu bệ hạ, điều thần biết được là cũng nhờ vào các ngài đại đức. Chính các ngài đại đức sẽ nói Pháp cho các cung phi của bệ hạ.” Khi ấy, đức vua Pasenadi xứ Kosala (nghĩ rằng): “Nam cư sĩ đã nói đúng” nên đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch ngài, tốt thay xin đức Thế Tôn hãy chỉ thị một vị tỳ khưu là vị sẽ nói Pháp cho các cung phi của trẫm.” Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, ―(như trên)― cho đức vua Pasenadi xứ Kosala bằng bài Pháp thoại. ―(như trên)― hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.

Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng: – “Này Ānanda, như thế thì ngươi hãy nói Pháp cho các cung phi của đức vua.” – “Bạch ngài, xin vâng.” Rồi đại đức Ānanda nghe theo đức Thế Tôn đã đi vào lần này lần khác và đã nói Pháp cho các cung phi của đức vua. Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Ānanda đã mặc y cầm y bát đi đến chỗ ngụ của đức vua Pasenadi xứ Kosala. Vào lúc bấy giờ, đức vua Pasenadi xứ Kosala đang nằm cùng với hoàng hậu Mallikā. Hoàng hậu Mallikā đã nhìn thấy đại đức Ānanda từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã vội vàng đứng lên. Tấm vải choàng màu vàng của hoàng hậu đã rơi xuống. Khi ấy, đại đức Ānanda ngay tại chỗ đó đã quay lại, đi trở về tu viện, và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu.

Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao đại đức Ānanda khi chưa được báo tin trước lại đi vào hậu cung của đức vua?” ―(như trên)― “Này Ānanda, nghe nói ngươi khi chưa được báo tin trước lại đi vào hậu cung của đức vua, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này Ānanda, vì sao ngươi khi chưa được báo tin trước lại đi vào hậu cung của đức vua vậy? Này Ānanda, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

Này các tỳ khưu, đây là mười điều nguy hiểm trong việc đi vào hậu cung của đức vua. Thế nào là mười? Này các tỳ khưu, trường hợp đức vua đang nằm với hoàng hậu. Vị tỳ khưu đi vào nơi ấy. Hoặc là khi nhìn thấy vị tỳ khưu hoàng hậu nở nụ cười, hoặc là khi nhìn thấy hoàng hậu vị tỳ khưu nở nụ cười. Trong trường hợp ấy, đức vua khởi ý như vầy: “Rõ ràng giữa những người này đã xảy ra chuyện, hoặc họ sẽ làm ra chuyện.” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ nhất trong việc đi vào hậu cung của đức vua.

Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, đức vua có nhiều phận sự có nhiều công việc cần phải làm, sau khi đi đến với người đàn bà nào đó rồi không nhớ. Do việc ấy, cô ấy mang thai. Trong trường hợp ấy, đức vua khởi ý như vầy: “Ở đây, không có người nào khác đi vào ngoại trừ vị xuất gia; có thể là việc làm của vị xuất gia?” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ nhì trong việc đi vào hậu cung của đức vua.

Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, trong hậu cung của đức vua có vật báu nào đó bị mất trộm. Trong trường hợp ấy, đức vua khởi ý như vầy: “Ở đây, không có người nào khác đi vào ngoại trừ vị xuất gia; có thể là việc làm của vị xuất gia?” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ ba trong việc đi vào hậu cung của đức vua.

Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, trong hậu cung của đức vua các chuyện nội vụ đang được giữ kín lại bị tiết lộ ra bên ngoài. Trong trường hợp ấy, đức vua khởi ý như vầy: “Ở đây, không có người nào khác đi vào ngoại trừ vị xuất gia; có thể là việc làm của vị xuất gia?” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ tư trong việc đi vào hậu cung của đức vua.

Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, trong hậu cung của đức vua, hoặc là con âm mưu giết cha hoặc là cha âm mưu giết con. Họ khởi ý như vầy: “Ở đây, không có người nào khác đi vào ngoại trừ vị xuất gia; có thể là việc làm của vị xuất gia?” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ năm trong việc đi vào hậu cung của đức vua.

Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, đức vua đưa người có địa vị thấp lên địa vị cao. Những người không hài lòng với điều ấy khởi ý như vầy: “Đức vua thân cận với vị xuất gia; có thể là việc làm của vị xuất gia?” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ sáu trong việc đi vào hậu cung của đức vua.

Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, đức vua đưa người có địa vị cao xuống địa vị thấp. Những người không hài lòng với điều ấy khởi ý như vầy: “Đức vua thân cận với vị xuất gia; có thể là việc làm của vị xuất gia?” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ bảy trong việc đi vào hậu cung của đức vua.

Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, đức vua điều động quân đội không đúng thời. Những người không hài lòng với điều ấy khởi ý như vầy: “Đức vua thân cận với vị xuất gia; có thể là việc làm của vị xuất gia?” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ tám trong việc đi vào hậu cung của đức vua.

Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, đức vua điều động quân đội đúng thời, giữa đường lại quay trở về. Những người không hài lòng với điều ấy khởi ý như vầy: “Đức vua thân cận với vị xuất gia; có thể là việc làm của vị xuất gia?” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ chín trong việc đi vào hậu cung của đức vua.

Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, hậu cung của đức vua là đông đúc với những voi, đông đúc với những ngựa, đông đúc với những xe, các sắc thinh hương vị xúc đều gợi lên sự đắm nhiễm không thích hợp cho vị xuất gia. Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ mười trong việc đi vào hậu cung của đức vua. Này các tỳ khưu, đây là mười điều nguy hiểm trong việc đi vào hậu cung của đức vua.

Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách đại đức Ānanda bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, về sự khó khăn trong việc ăn uống, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào khi chưa được báo tin trước mà vượt qua ngưỡng cửa (phòng ngủ) của đức vua dòng Sát-đế-lỵ đã được đội lên vương miện trong lúc đức vua chưa đi khỏi trong lúc vật báu (hoàng hậu) chưa lui ra thì phạm tội pācittiya.”

Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Dòng Sát-đế-lỵ nghĩa là hậu duệ thuần khiết được khéo sanh ra từ cả hai bên là từ dòng bên mẹ và từ dòng bên cha cho đến bảy thế hệ tổ tiên, không bị gièm pha, không bị chỉ trích khi nói về nguồn gốc.

Đã được đội lên vương miện: đã được đăng quang với lễ phong vương của dòng Sát-đế-lỵ.

Trong lúc đức vua chưa đi khỏi: đức vua chưa ra khỏi phòng ngủ.

Trong lúc vật báu (hoàng hậu) chưa lui ra: hoàng hậu chưa ra khỏi phòng ngủ, hoặc cả hai chưa ra khỏi.

Chưa được báo tin trước: chưa được thỉnh mời (đi vào).

Ngưỡng cửa nghĩa là ngạch cửa của phòng ngủ được đề cập đến.

Phòng ngủ nghĩa là bất cứ nơi nào được quy định là chỗ nằm của đức vua, thậm chí chỉ được bao quanh bằng khung màn che.

Vượt qua ngưỡng cửa: vị vượt qua ngạch cửa bước thứ nhất thì phạm tội dukkaṭa. Vượt qua bước thứ nhì thì phạm tội pācittiya.

Khi chưa được báo tin, nhận biết là chưa được báo tin, vị vượt qua ngưỡng cửa thì phạm tộipācittiya. Khi chưa được báo tin, có sự hoài nghi, vị vượt qua ngưỡng cửa thì phạm tộipācittiya. Khi chưa được báo tin, (lầm) tưởng là đã được báo tin, vị vượt qua ngưỡng cửa thì phạm tội pācittiya.

Khi đã được báo tin, (lầm) tưởng là chưa được báo tin, phạm tội dukkaṭa. Khi đã được báo tin, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi đã được báo tin, nhận biết là đã được báo tin thì vô tội.

Khi đã được báo tin, (đức vua) không phải là dòng Sát-đế-lỵ, chưa được đăng quang với lễ phong vương của dòng Sát-đế-lỵ, hoặc là đức vua đã ra khỏi phòng ngủ, hoặc là hoàng hậu đã ra khỏi phòng ngủ, hoặc cả hai đã ra khỏi phòng ngủ, không phải ở trong phòng ngủ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học về hậu cung của đức vua là thứ nhất.

–ooOoo–

Điều học về vật quý giá

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ tắm ở dòng sông Aciravatī. Có người Bà-la-môn nọ sau khi bỏ xuống trên bờ túi xách có năm trăm (đồng tiền) rồi cũng đã tắm ở dòng sông Aciravatī, sau đó đã quên lửng rồi ra đi. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Túi xách này là của người Bà-la-môn ấy, chớ để bị mất cắp ở chỗ này” rồi đã giữ lấy. Sau đó, người Bà-la-môn ấy sau khi nhớ ra đã vội vã chạy trở lại và đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này: – “Này ông, vậy ông có nhìn thấy túi xách của tôi không?” – “Này Bà-la-môn, đây này,” rồi đã trao cho. Khi ấy, người Bà-la-môn ấy đã khởi ý điều này: “Bằng phương kế gì để ta khỏi phải biếu vị tỳ khưu này một bình bát đầy?” (nên đã nói rằng): – “Này ông, của tôi không phải là năm trăm, của tôi là một ngàn,” sau khi giữ (vị tỳ khưu) lại rồi đã thả ra.

Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao vị tỳ khưu lại nhặt lấy vật quý giá?” ―(như trên)― “Này tỳ khưu, nghe nói ngươi nhặt lấy vật quý giá, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại nhặt lấy vật quý giá vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật được xem là quý giá thì phạm tội pācittiya.”

Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

Vào lúc bấy giờ, ở thành Sāvatthī có lễ hội. Dân chúng chưng diện trang điểm đi đến công viên. Bà Visākhā mẹ của Migāra cũng chưng diện trang điểm (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến công viên.” Sau khi đi ra khỏi làng (nghĩ rằng): “Ta sẽ làm gì sau khi đi đến công viên? Hay là ta nên thăm viếng đức Thế Tôn?” rồi đã tháo ra đồ trang sức, dùng thượng y buộc lại thành gói rồi trao cho người tớ gái (nói rằng): – “Này em, hãy cầm lấy gói đồ này.” Sau đó, bà Visākhā mẹ của Migāra đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho bà Visākhā mẹ của Migāra đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, bà Visākhā mẹ của Migāra đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Khi ấy, cô tớ gái ấy đã quên lửng gói đồ ấy và ra đi. Các tỳ khưu đã nhìn thấy rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, như thế thì các ngươi hãy nhặt lấy và để riêng ra.”

Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, ta cho phép nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật được xem là quý giá ở trong khuôn viên tu viện hoặc ở trong khuôn viên chỗ ngụ rồi để riêng ra (nghĩ rằng): ‘Là của ai, người ấy sẽ đem đi.’ Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật được xem là quý giá thì phạm tội pācittiya ngoại trừ ở trong khuôn viên tu viện hoặc ở trong khuôn viên chỗ ngụ.”

Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

Vào lúc bấy giờ, trong xứ Kāsī có ngôi làng là nơi thương mãi của gia chủ Anāthapiṇḍika. Và vị gia chủ ấy đã dặn dò viên quản lý rằng: “Nếu các ngài đại đức đi đến, ngươi có thể dọn bữa ăn.” Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu trong khi đi du hành ở xứ Kāsī đã đi đến ngôi làng là nơi thương mãi của gia chủ Anāthapiṇḍika. Người đàn ông ấy đã nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã đi đến gặp các vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đã đảnh lễ các vị tỳ khưu ấy và đã nói điều này: – “Thưa các ngài, xin các ngài đại đức hãy nhận lời bữa ăn của gia chủ vào ngày mai.” Các vị tỳ khưu ấy đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Sau đó, khi trải qua đêm ấy người đàn ông ấy đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm rồi cho người thông báo thời giờ. Vị ấy sau khi tháo ra chiếc nhẫn đeo ngón tay rồi đã dâng bữa ăn đến các vị tỳ khưu ấy (nói rằng): – “Các ngài đại đức sau khi thọ thực xin cứ việc ra đi. Tôi cũng sẽ đi làm công việc.” Rồi đã quên lửng chiếc nhẫn đeo ngón tay và ra đi. Các vị tỳ khưu sau khi nhìn thấy (nghĩ rằng): “Nếu chúng ta đi, chiếc nhẫn đeo ngón tay này sẽ bị mất trộm” nên đã ngồi lại ngay tại chỗ ấy. Sau đó, người đàn ông ấy khi xong công việc quay trở lại đã nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy nên đã nói điều này: – “Thưa các ngài, tại sao các ngài đại đức ngồi lại ngay tại chỗ này?” Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho người đàn ông ấy, rồi sau khi đi đến thành Sāvatthī đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, ta cho phép nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật được xem là quý giá ở trong khuôn viên tu viện hoặc ở trong khuôn viên chỗ ngụ rồi để riêng ra (nghĩ rằng): ‘Là của ai, người ấy sẽ đem đi.’ Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật được xem là quý giá thì phạm tội pācittiya ngoại trừ trong khuôn viên tu viện hoặc trong khuôn viên chỗ ngụ. Vị tỳ khưu sau khi nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật được xem là quý giá ở trong khuôn viên tu viện hoặc ở trong khuôn viên chỗ ngụ nên để riêng ra (nghĩ rằng): ‘Là của ai, người ấy sẽ đem đi.’ Đây là điều đúng đắn trong trường hợp ấy.”

Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Vật quý giá nghĩa là ngọc trai, ngọc ma-ni, ngọc pha lê, ngọc xa-cừ, đá quý, ngọc san hô, vàng, bạc, hồng ngọc, ngọc mắt mèo.

Vật được xem là quý giá nghĩa là vật gì được dân chúng ưa chuộng và bảo quản, vật này gọi là vật được xem là quý giá.

Ngoại trừ trong khuôn viên tu viện hoặc trong khuôn viên chỗ ngụ: trừ ra khuôn viên tu viện (và) khuôn viên chỗ ngụ.

Khuôn viên tu viện nghĩa là bên trong tu viện đối với tu viện đã được rào lại, là vùng phụ cận đối với tu viện không được rào lại.

Khuôn viên chỗ ngụ nghĩa là bên trong chỗ ngụ đối với chỗ ngụ đã được rào lại, là vùng phụ cận đối với chỗ ngụ không được rào lại.

Nhặt lấy: tự mình nhặt lấy thì phạm tội pācittiya.

Bảo nhặt lấy: bảo người khác nhặt lấy thì phạm tội pācittiya.

Vị tỳ khưu sau khi nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật được xem là quý giá ở trong khuôn viên tu viện hoặc ở trong khuôn viên chỗ ngụ nên để riêng ra: Sau khi ghi nhận hình dáng hoặc đặc điểm rồi để riêng ra và nên thông báo rằng: “Ai có vật bị mất, người ấy hãy đi đến.” Nếu có người đi đến nơi ấy, thì nên nói với người ấy rằng: “Này đạo hữu, đồ vật của đạo hữu như thế nào?” Nếu mô tả đúng hình dáng hoặc đặc điểm thì nên trao cho. Nếu không mô tả đúng thì nên nói rằng: “Này đạo hữu, hãy tìm kiếm.” Vị sắp sửa rời khỏi trú xứ ấy, nên trao lại tận tay của những vị tỳ khưu thích hợp ở tại nơi ấy rồi ra đi. Nếu không có những vị tỳ khưu thích hợp, nên trao lại tận tay của những vị gia chủ thích hợp ở tại nơi ấy rồi ra đi.

Đây là điều đúng đắn trong trường hợp ấy: đây là sự hợp lý trong trường hợp ấy.

Vị sau khi nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật được xem là quý giá ở trong khuôn viên tu viện hoặc ở trong khuôn viên chỗ ngụ rồi để riêng ra (nghĩ rằng): ‘Là của ai, người ấy sẽ đem đi,’ vị lấy vật được xem là quý giá theo lối thân thiết, vị lấy trong một thời hạn, vị nghĩ là vật quăng bỏ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học về vật quý giá là thứ nhì.

–ooOoo–

Điều học về việc vào lành lúc sái thời

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đi vào làng lúc sái thời rồi ngồi ở đám đông nói chuyện nhảm nhí liên quan đến nhiều vấn đề như là: chuyện đức vua, chuyện kẻ trộm, chuyện quan đại thần, chuyện binh lính, chuyện kinh dị, chuyện chiến trường, chuyện thức ăn, chuyện nước uống, chuyện vải vóc, chuyện giường nằm, chuyện vòng hoa, chuyện hương thơm, chuyện thân quyến, chuyện xe cộ, chuyện làng xóm, chuyện thị trấn, chuyện thành thị, chuyện quốc gia, chuyện đàn bà, chuyện đàn ông, chuyện người hùng, chuyện đường xá, chuyện về chỗ có hũ (của cải chôn giấu), chuyện ma quỷ, chuyện linh tinh, chuyện tiên đoán về thế gian, chuyện tiên đoán về biển cả, chuyện sẽ xảy ra và sẽ không xảy ra như vầy hay là như vầy. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại đi vào làng lúc sái thời rồi ngồi ở đám đông nói chuyện nhảm nhí liên quan đến nhiều vấn đề như là: chuyện đức vua, ―(như trên)― chuyện sẽ xảy ra và sẽ không xảy ra như vầy hay là như vầy giống như các người tại gia hưởng dục vậy?”

Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại đi vào làng lúc sái thời rồi ngồi ở đám đông nói chuyện nhảm nhí liên quan đến nhiều vấn đề như là: chuyện đức vua, ―(như trên)― chuyện sẽ xảy ra và sẽ không xảy ra như vầy hay là như vầy?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi đi vào làng lúc sái thời rồi ngồi ở đám đông nói chuyện nhảm nhí liên quan đến nhiều vấn đề như là: chuyện đức vua, ―(như trên)― chuyện sẽ xảy ra và sẽ không xảy ra như vầy hay là như vầy, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại đi vào làng lúc sái thời rồi ngồi ở đám đông nói chuyện nhảm nhí liên quan đến nhiều vấn đề như là: chuyện đức vua, ―(như trên)― chuyện sẽ xảy ra và sẽ không xảy ra như vầy hay là như vầy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào đi vào làng lúc sái thời thì phạm tội pācittiya.”

Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu trong lúc đi đến thành Sāvatthī thuộc xứ Kosala đã đi đến gần ngôi làng nọ vào lúc chiều tối. Dân chúng sau khi nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy đã nói điều này: – “Thưa các ngài, xin hãy vào.” Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đi vào làng lúc sái thời” rồi trong lúc ngần ngại đã không đi vào. Bọn đạo tặc đã cướp bóc các vị tỳ khưu ấy. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã đi đến thành Sāvatthī và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, ta cho phép đi vào làng lúc sái thời khi đã thông báo. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào đi vào làng lúc sái thời không thông báo thì phạm tội pācittiya.”

Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đi đến thành Sāvatthī thuộc xứ Kosala đã đi đến gần ngôi làng nọ vào lúc chiều tối. Dân chúng sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu ấy đã nói điều này: – “Thưa ngài, xin hãy vào.” Khi ấy, vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đi vào làng lúc sái thời không thông báo” rồi trong lúc ngần ngại đã không đi vào. Bọn đạo tặc đã cướp bóc vị tỳ khưu ấy. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến thành Sāvatthī và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, ta cho phép đi vào làng lúc sái thời khi đã thông báo vị tỳ khưu hiện diện. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào đi vào làng lúc sái thời không thông báo vị tỳ khưu hiện diện thì phạm tội pācittiya.”

Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị rắn cắn. Vị tỳ khưu khác (nghĩ rằng): “Ta sẽ mang lại lửa” rồi đi đến làng. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đi vào làng không thông báo vị tỳ khưu hiện diện” rồi trong lúc ngần ngại đã không đi vào. Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, trong trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế ta cho phép đi vào làng lúc sái thời không thông báo vị tỳ khưu hiện diện. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào đi vào làng lúc sái thời không thông báo vị tỳ khưu hiện diện thì phạm tội pācittiya ngoại trừ trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế.”

Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Vị tỳ khưu hiện diện nghĩa là có thể thông báo để đi vào (làng).

Vị tỳ khưu không hiện diện nghĩa là không thể thông báo để đi vào (làng).

Lúc sái thời nghĩa là từ lúc đã quá nửa ngày cho đến rạng đông (ngày hôm sau).

Đi vào làng: vị vượt qua hàng rào của ngôi làng được rào lại thì phạm tội pācittiya. Vị đi vào vùng phụ cận của ngôi làng không được rào lại thì phạm tội pācittiya.

Ngoại trừ trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế: trừ ra trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế.

Vào lúc sái thời, nhận biết là vào lúc sái thời, vị đi vào làng không thông báo vị tỳ khưu hiện diện thì phạm tội pācittiya ngoại trừ trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế. Vào lúc sái thời, có sự hoài nghi, vị đi vào làng không thông báo vị tỳ khưu hiện diện thì phạm tộipācittiya ngoại trừ trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế. Vào lúc sái thời, (lầm) tưởng là vào lúc hợp thời, vị đi vào làng không thông báo vị tỳ khưu hiện diện thì phạm tộipācittiya ngoại trừ trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế.

Vào lúc hợp thời, (lầm) tưởng là lúc sái thời, phạm tội dukkaṭa. Vào lúc hợp thời, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Vào lúc hợp thời, nhận biết là lúc hợp thời thì vô tội.

Trong trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế, sau khi thông báo vị tỳ khưu hiện diện rồi đi vào (làng), không có vị tỳ khưu hiện diện rồi đi vào (làng) không có thông báo, vị đi bên trong tu viện, vị đi đến chỗ ngụ của tỳ khưu ni, vị đi đến chỗ ngủ của các tu sĩ ngoại đạo, vị đi trở về, con đường đi ngang qua ngôi làng, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học về việc vào làng lúc sái thời là thứ ba.

–ooOoo–

Điều học về ống đựng kim

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng dòng Sakya, trong thành Kapilavatthu, tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đã được người thợ làm đồ sừng nọ thỉnh cầu rằng : “Các ngài đại đức nào có nhu cầu về ống đựng kim, tôi sẽ dâng ống đựng kim.” Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu yêu cầu nhiều ống đựng kim. Những vị có các ống đựng kim nhỏ thì yêu cầu các ống đựng kim lớn. Những vị có các ống đựng kim lớn thì yêu cầu các ống đựng kim nhỏ. Khi ấy, trong lúc làm nhiều ống đựng kim cho các tỳ khưu, người thợ làm đồ sừng ấy không thể làm hàng khác để bán nên không nuôi nổi bản thân, ngay cả vợ con của người này cũng phải chịu khổ sở. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều ống đựng kim? Người này trong lúc làm nhiều ống đựng kim cho các vị này không thể làm hàng khác để bán nên không nuôi nổi bản thân, ngay cả vợ con của người này cũng phải chịu khổ sở.

Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao các tỳ khưu lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều ống đựng kim?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi không biết chừng mực và yêu cầu nhiều ống đựng kim, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều ống đựng kim vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào bảo làm ống đựng kim bằng xương, hoặc bằng ngà, hoặc bằng sừng thì (ống đựng kim ấy) nên được đập vỡ và phạm tội pācittiya.”

Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Xương nghĩa là bất cứ loại xương gì.

Ngà nghĩa là ngà voi được đề cập đến.

Sừng nghĩa là bất cứ loại sừng gì.

Bảo làm: Vị (tự) làm hoặc bảo làm, trong lúc tiến hành thì phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được thì nên đập vỡ rồi nên sám hối tội pācittiya.

Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya.

Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa. Được làm bởi người khác, vị nhận được rồi sử dụng thì phạm tội dukkaṭa.

Trong trường hợp hột nút, đồ đánh lửa, cái khóa thắt lưng, hộp đựng thuốc cao, que bôi thuốc cao, cán dao cạo, đồ gạt nước,[2] vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học về ống đựng kim là thứ tư.

–ooOoo–

Điều học về giường nằm

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sakya nằm giường cao. Khi ấy, đức Thế Tôn trong lúc đi dạo quanh các chỗ trú ngụ cùng với nhiều vị tỳ khưu đã đi đến trú xá của đại đức Upananda con trai dòng Sakya. Đại đức Upananda con trai dòng Sakya đã nhìn thấy đức Thế Tôn từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch ngài, xin hãy đi đến. Xin đức Thế Tôn hãy nhìn xem cái giường của con.” Khi ấy, đức Thế Tôn ngay tại chỗ ấy đã quay lại và bảo các vị tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, kẻ rồ dại cần được chỉ bảo về chỗ nằm.” Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách đại đức Upananda con trai dòng Sakya bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Trong lúc cho thực hiện giường hoặc ghế mới, vị tỳ khưu nên bảo làm chân cao tám ngón tay theo ngón tay của đức Thiện Thệ[3] ngoại trừ phần khung giường ở bên dưới. Nếu vượt quá mức ấy thì nên cắt bớt và phạm tội pācittiya.”

Mới nghĩa là có liên quan đến việc làm (giường hoặc ghế) được đề cập.

Giường nghĩa là có bốn loại giường: giường lắp ráp, giường xếp, giường chân cong, giường có chân tháo rời được.

Ghế nghĩa là có bốn loại ghế: ghế lắp ráp, ghế xếp, ghế chân cong, ghế có chân tháo rời được.

Trong lúc cho thực hiện: trong khi (tự) làm hoặc trong khi bảo làm.

Nên bảo làm chân cao tám ngón tay theo ngón tay của đức Thiện Thệ ngoại trừ phần khung giường ở bên dưới: trừ ra phần khung giường ở bên dưới. Vị (tự) làm hoặc bảo làm vượt quá mức ấy, trong lúc tiến hành thì phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được thì nên cắt bớt rồi nên sám hối tội pācittiya.

Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya.

Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa. Được làm bởi người khác, vị đạt được rồi sử dụng thì phạm tội dukkaṭa.

Vị làm theo kích thước, vị làm thấp hơn, do người khác làm quá kích thước sau khi đạt được thì cắt bớt rồi sử dụng, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học về giường nằm là thứ năm.

–ooOoo–

Điều học về độn bông gòn

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư cho thực hiện giường ghế độn bông gòn. Dân chúng trong lúc đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại cho thực hiện giường ghế độn bông gòn giống như những kẻ tại gia hưởng dục vậy?”

Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại cho thực hiện giường ghế độn bông gòn?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi cho thực hiện giường ghế độn bông gòn, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― “Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại cho thực hiện giường ghế độn bông gòn vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào bảo thực hiện giường ghế độn bông gòn thì (bông gòn) nên được móc ra và phạm tội pācittiya.”

Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Giường nghĩa là có bốn loại giường: giường lắp ráp, giường xếp, giường chân cong, giường có chân tháo rời được.

Ghế nghĩa là có bốn loại ghế: ghế lắp ráp, ghế xếp, ghế chân cong, ghế có chân tháo rời được.

Bông gòn nghĩa là có ba loại bông gòn: bông gòn từ cây, bông gòn từ dây leo, bông gòn từ cỏ.

Bảo thực hiện: vị (tự) làm hoặc bảo làm, trong lúc tiến hành thì phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được thì nên móc ra rồi nên sám hối tội pācittiya.

Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya.

Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa. Được làm bởi người khác, vị đạt được rồi sử dụng thì phạm tội dukkaṭa.

Trong trường hợp vị làm đồ băng bó, dây buộc lưng, dây đeo vai, túi đựng bát, đồ lọc nước, gối kê; sau khi đạt được (giường ghế) do người khác làm thì móc ra rồi sử dụng, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học về độn bông gòn là thứ sáu.

–ooOoo–

Điều học về tấm lót ngồi

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tấm lót ngồi đã được đức Thế Tôn cho phép đến các tỳ khưu. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Tấm lót ngồi đã được đức Thế Tôn cho phép” nên đã sử dụng các tấm lót ngồi không theo kích thước. Các vị treo ở phía trước và phía sau của giường và của ghế. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại sử dụng các tấm lót ngồi không theo kích thước?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi sử dụng các tấm lót ngồi không theo kích thước, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― “Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại sử dụng các tấm lót ngồi không theo kích thước vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Trong lúc cho thực hiện tấm lót ngồi, vị tỳ khưu nên bảo làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài hai gang tay, chiều rộng một gang rưỡi theo gang tay của đức Thiện Thệ. Nếu vượt quá mức ấy thì (tấm lót ngồi) nên được cắt bớt và phạm tội pācittiya.”

Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi có thân hình to lớn. Vị ấy khi sắp đặt tấm lót ngồi ở phía trước đức Thế Tôn cứ kéo căng ra khắp các phía rồi mới ngồi xuống. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với đại đức Udāyi điều này: – “Này Udāyi, vì sao sau khi sắp đặt tấm lót ngồi ngươi cứ kéo căng ra khắp các phía giống như là căng ra tấm da bị nhăn vậy?” – “Bạch ngài, như thế là vì tấm lót ngồi đã được đức Thế Tôn cho phép đến các tỳ khưu thì quá nhỏ.” Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, ta cho phép đường viền của tấm lót ngồi là một gang. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Trong lúc cho thực hiện tấm lót ngồi, vị tỳ khưu nên bảo làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài hai gang tay, chiều rộng một gang rưỡi, đường viền một gang theo gang tay của đức Thiện Thệ. Nếu vượt quá mức ấy thì (tấm lót ngồi) nên được cắt bớt và phạm tội pācittiya.”

Tấm lót ngồi nghĩa là vật có đường viền được nói đến.

Trong lúc cho thực hiện: trong khi (tự) làm hoặc trong khi bảo làm. Nên bảo làm theo kích thước: Ở đây, kích thước này là chiều dài hai gang tay, chiều rộng một gang rưỡi, đường viền một gang theo gang tay của đức Thiện Thệ. Vị (tự) làm hoặc bảo làm vượt quá mức ấy, trong lúc tiến hành thì phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được thì nên cắt bớt rồi nên sám hối tội pācittiya.

Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya.

Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa. Được làm bởi người khác, vị đạt được rồi sử dụng thì phạm tội dukkaṭa.

Vị làm theo kích thước, vị làm nhỏ hơn, sau khi đạt được (tấm lót ngồi) do người khác làm quá kích thước thì cắt bớt rồi sử dụng, vị làm mái che hoặc thảm trải nền hoặc tấm vách chắn hoặc nệm hoặc gối kê, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học về tấm lót ngồi là thứ bảy.

–ooOoo–

Điều học về Y đắp ghẻ

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, y đắp ghẻ đã được đức Thế Tôn cho phép đến các tỳ khưu. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Y đắp ghẻ đã được đức Thế Tôn cho phép” nên đã sử dụng các y đắp ghẻ không theo kích thước. Các vị trong lúc để lòng thòng ở phía trước và phía sau rồi đi đó đây. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

– “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại sử dụng các y đắp ghẻ không theo kích thước?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi sử dụng các y đắp ghẻ không theo kích thước, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại sử dụng các y đắp ghẻ không theo kích thước vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Trong lúc cho thực hiện y đắp ghẻ, vị tỳ khưu nên bảo làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài bốn gang tay, chiều rộng hai gang theo gang tay của đức Thiện Thệ. Nếu vượt quá mức ấy thì (y đắp ghẻ) nên được cắt bớt và phạm tội pācittiya.”

Y đắp ghẻ nghĩa là nhằm mục đích băng bó cho vị có ghẻ hoặc mụt nhọt hoặc vết thương hoặc bệnh lở loét ở phía dưới lỗ rún và ở phía trên đầu gối.

Trong lúc cho thực hiện: trong khi (tự) làm hoặc trong khi bảo làm. Nên bảo làm theo kích thước: Ở đây, kích thước này là chiều dài bốn gang tay chiều rộng hai gang theo gang tay của đức Thiện Thệ[4] (1m x 0,5 m). Vị (tự) làm hoặc bảo làm vượt quá mức ấy, trong lúc tiến hành thì phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được thì nên cắt bớt rồi nên sám hối tội pācittiya.

Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya.

Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa. Được làm bởi người khác, vị đạt được rồi sử dụng thì phạm tội dukkaṭa.

Vị làm theo kích thước, vị làm nhỏ hơn, sau khi đạt được (y đắp ghẻ) do người khác làm quá kích thước thì cắt bớt rồi sử dụng, vị làm mái che hoặc thảm trải nền hoặc tấm vách chắn hoặc nệm hoặc gối kê, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học về y đắp ghẻ là thứ tám.

–ooOoo–

Điều học về vải choàng tắm mưa

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, vải choàng tắm mưa đã được đức Thế Tôn cho phép đến các tỳ khưu. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Vải choàng tắm mưa đã được đức Thế Tôn cho phép” nên đã sử dụng các vải choàng tắm mưa không theo kích thước. Các vị trong lúc để lòng thòng ở phía trước và phía sau rồi đi đó đây. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại sử dụng các vải choàng tắm mưa không theo kích thước?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi sử dụng các vải choàng tắm mưa không theo kích thước, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại sử dụng các vải choàng tắm mưa không theo kích thước vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Trong lúc cho thực hiện vải choàng tắm mưa, vị tỳ khưu nên bảo làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài sáu gang tay, chiều rộng hai gang rưỡi theo gang tay của đức Thiện Thệ. Nếu vượt quá mức ấy thì (vải choàng tắm mưa) nên được cắt bớt và phạm tội pācittiya.”

Vải choàng tắm mưa nghĩa là nhằm nhu cầu của bốn tháng mùa mưa.

Trong lúc cho thực hiện: trong khi (tự) làm hoặc trong khi bảo làm. Nên bảo làm theo kích thước: Ở đây, kích thước này là chiều dài sáu gang tay, chiều rộng hai gang rưỡi theo gang tay của đức Thiện Thệ (1,50 m x 0,625 m). Vị (tự) làm hoặc bảo làm vượt quá mức ấy, trong lúc tiến hành thì phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được thì nên cắt bớt rồi nên sám hối tội pācittiya.

Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya.

Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa. Được làm bởi người khác, vị đạt được rồi sử dụng thì phạm tội dukkaṭa.

Vị làm theo kích thước, vị làm nhỏ hơn, sau khi đạt được (vải choàng tắm mưa) do người khác làm quá kích thước thì cắt bớt rồi sử dụng, vị làm mái che hoặc thảm trải nền hoặc tấm vách chắn hoặc nệm hoặc gối kê, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học về vải choàng tắm mưa là thứ chín.

–ooOoo–

Điều học về trưởng lão Nanda

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Nanda con trai người dì của đức Thế Tôn là đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái, và thấp hơn đức Thế Tôn bốn ngón tay. Vị ấy mặc y có kích thước y của đức Thiện Thệ. Các tỳ khưu trưởng lão đã nhìn thấy đại đức Nanda từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đi đến” rồi đã rời chỗ ngồi đứng dậy. Các vị ấy sau khi nhận ra người đã đi đến liền phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao đại đức Nanda lại mặc y có kích thước y của đức Thiện Thệ?” ―(như trên)― “Này Nanda, nghe nói ngươi mặc y có kích thước y của đức Thiện Thệ, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này Nanda, vì sao ngươi lại mặc y có kích thước y của đức Thiện Thệ vậy? Này Nanda, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào cho thực hiện y có kích thước y của đức Thiện Thệ hoặc rộng hơn thì (y ấy) nên được cắt bớt và phạm tội pācittiya. Trong trường hợp này, kích thước y của đức Thiện Thệ dành cho đức Thiện Thệ là chiều dài chín gang tay, chiều rộng sáu gang theo gang tay của đức Thiện Thệ. Đây là kích thước y của đức Thiện Thệ dành cho đức Thiện Thệ.”

Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Kích thước y của đức Thiện Thệ nghĩa là chiều dài chín gang tay, chiều rộng sáu gang theo gang tay của đức Thiện Thệ.

Cho thực hiện: vị (tự) làm hoặc bảo làm, trong lúc tiến hành phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được thì nên cắt bớt rồi nên sám hối tội pācittiya.

 Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya.

Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa. Được làm bởi người khác, vị đạt được rồi sử dụng thì phạm tội dukkaṭa.

Vị làm nhỏ hơn, sau khi đạt được (y) do người khác làm quá kích thước thì cắt bớt rồi sử dụng, vị làm mái che hoặc thảm trải nền hoặc tấm vách chắn hoặc nệm hoặc gối kê, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học về trưởng lão Nanda là thứ mười.

Phẩm Đức Vua là thứ chín.

–ooOoo–

Tóm lược phầm này

Của đức vua, và vật quý giá, vị hiện diện, kim may, và (chân) giường, (độn) bông gòn, tấm lót ngồi, và (y đắp) ghẻ, (choàng tắm) thuộc mùa mưa, và (y) đức Thiện Thệ.

–ooOoo–

Tóm lược các phẩm

Nói dối, thảo mộc, và giáo giới, vật thực, và đạo sĩ lõa thể, (uống) rượu, có sinh vật, (nói) theo Pháp, với phẩm đức vua, chúng gồm có chín phẩm.

–ooOoo–

Bạch chư đại đức, chín mươi hai điều pācittiya đã được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Các đại đức được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

Phần Nhỏ Nhặt đã được đầy đủ.

–ooOoo–

[1] Được ghi nghĩa theo Chú Giải, “pahāradānākāraṃ dassetvā …” (VinA. iv, 878). Dịch sát từ thì hành động này là ‘giá tay để tát tai’ (tala: lòng bàn tay, sattika: cây thương, con dao nhỏ).

[2] Một số vật dụng trên được đề cập ở Cullavagga 2 – Tiểu Phẩm 2, TTPV tập 07: khóa thắt lưng (vīṭha, tr. 93), hộp đựng thuốc cao (añjanī, tr. 91), que bôi thuốc cao (añjanisalākā, tr. 91), đồ gạt nước (udakapuñchanī, tr. 55).

[3] Sugataṅgulena: theo ngón tay của đức Thiện Thệ. Theo từ điển của Childers, aṅgula là bề rộng của ngón tay, tương dương 1 inch =2,54 cm; vậy 8 aṅgula = 2,54 x 8 = 20,32 cm. Tài liệu The Buddhist Monsatic Code cho biết chiều dài của 8 aṅgula vào khoảng 16,6 cm; đó là nói về chân giường (pādakaṃ). Tuy nhiên, do câu sau: “ngoại trừ phần khung giường ở bên dưới” nên chân giường được tính từ dưới đất lên phần bên dưới mối nối của thanh ngang và chân giường, hay nói cách khác 8 aṅgulachính là khoảng hở giữa mặt đất và thanh ngang của khung giường. Hiểu theo cách này thì chỗ nằm cách mặt đất bao nhiêu cũng không được xác định rõ, có thể là 40 cm hoặc 50 cm tùy theo bề rộng của thanh ngang (độ cao như vậy xét ra cũng hợp lý). Nếu tính ngón tay của đức Thiện Thệ có chiều dài gấp ba lần ngón tay của người bình thường thì giường nằm có vẻ hơi cao (tối thiểu là 70 cm nếu tính thanh ngang của giường có bề rộng là 20 cm).

[4] Gang tay của đức Thiện Thệ (sugatavidatthi): Với những kích thước của tấm lót ngồi, y đắp ghẻ, và y tắm mưa, độ dài gang tay của đức Thiện Thệ nên lấy số đo là 25 cm, tức là độ dài gang tay của người nam bậc trung thay vì gấp ba lần (xem thêm điều saṅghādisesa thứ sau về làm cốc liêu). Như thế, kích thước các cạnh của tấm lót ngồi căn bản không đường viền sẽ là 50 cm x 37,5 cm, và đức Phật cho phép thêm vào đường viền 25 cm. Chúng tôi nghĩ là đường viền sẽ bao bọc cả bốn cạnh; tuy nhiên khi đọc lời trình bày về tấm lót ngồi có kèm theo hình vẽ của ngài Mahāsamaṇa Chao trong tài liệu Vinayamukha thì vấn đề xem ra phức tạp hơn nhiều, quý vị nên tìm đọc để suy nghiệm.

 

TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)

Các bài viết trong sách

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *