THÁNH NHÂN KÝ SỰ II

PHẨM METTEYYA

401. Ký Sự về Trưởng Lão Tissametteyya

  1. Ở gần đỉnh của sườn núi, (tôi là) vị đạo sĩ khổ hạnh tên Sobhita (chỉ) ăn trái cây đã được rụng xuống và cư ngụ ở trong vùng đồi núi.
  2. Khi ấy, trong lúc tầm cầu mục đích tối thượng về việc đạt đến thế giới Phạm Thiên, tôi đã mang lửa và củi lại rồi nhóm lửa.
  3. Có ý muốn tiếp độ tôi, đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara ấy, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đã đi đến khu vực của tôi.  
  4. Này bậc đại phước, ông đang làm gì vậy? Xin ông hãy cho tôi lửa và củi. Tôi (sẽ) chăm sóc ngọn lửa, nhờ đó tôi sẽ có được sự trong sạch.”
  5. Hỡi người nhân loại, ngài là bậc hiền thiện. Hỡi đấng Thiên Nhân, ngài biết rõ (sự việc). Ngài hãy chăm sóc ngọn lửa, lửa và củi của ngài đây này.”
  6. Sau đó, đấng Chiến Thắng đã cầm lấy gỗ củi và đã nhóm lên ngọn lửa. Gỗ củi (của tôi) ở nơi ấy đã không bốc cháy; (đó là) điều kỳ diệu của bậc Đại Ẩn Sĩ.
  7. Ngọn lửa của ông không bốc cháy, sự hiến cúng của ông không có, sự hành trì của ông là vô nghĩa. Vậy ông hãy chăm sóc ngọn lửa của Ta.”
  8. Hỡi vị đại anh hùng, ngọn lửa ấy của ngài được gọi là loại lửa gì? Xin ngài giảng giải cho tôi luôn, cả hai chúng ta sẽ chăm sóc (ngọn lửa) ấy.”
  9. Về sự diệt tận các pháp là nhân tố, và về sự tịnh lặng các ô nhiễm, sau khi từ bỏ sự ganh tỵ và bỏn xẻn; ba việc này là sự cúng hiến của Ta.”
  10. Này vị đại anh hùng, ngài là hạng người như thế nào? Thưa ngài, ngài có dòng dõi thế nào? Sở hành và cách tu luyện của ngài khiến tôi thích thú vô cùng.”
  11. Ta được sanh ra trong gia tộc Sát-đế-lỵ, đã đạt đến sự toàn hảo về thắng trí, đã được đoạn tận tất cả các lậu hoặc, giờ đây không còn tái sanh nữa.”
  12. Hỡi đấng Phát Quang, hỡi vị Xua Tan tăm tối, hỡi bậc Thiên Nhân, nếu ngài là đức Phật, đấng Toàn Tri, là bậc Đoạn Tận khổ đau, tôi sẽ lễ bái ngài.”
  13. Tôi đã trải ra tấm da dê và đã dâng cúng chỗ ngồi: “Hỡi đấng Bảo Hộ, hỡi bậc Toàn Tri, xin ngài hãy ngồi xuống. Tôi sẽ phục vụ ngài.”
  14. Đức Thế Tôn đã ngồi xuống tại chỗ ấy, trên tấm da dê đã khéo được trải rộng. Sau khi thỉnh mời bậc Toàn Giác, tôi đã đi đến ngọn núi.
  15. Và tôi đã chất trái cây tinduka đầy túi đựng vật dụng rồi mang về. Tôi đã trộn trái cây với mật ong rồi dâng lên đức Phật.
  16. Khi ấy, đấng Chiến Thắng đã thọ dụng trong lúc tôi đang trầm tư. Tại đó, trong khi ngắm nhìn bậc Lãnh Đạo Thế Gian, tôi đã khiến tâm được tịnh tín.
  17. Bậc Thông Suốt Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đã ngồi ở khu ẩn cư của tôi và đã nói lên những lời kệ này:
  18. Người nào (với tâm) tịnh tín tự tay mình làm Ta được thỏa mãn với trái cây, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.
  19. Người ấy sẽ cai quản Thiên quốc hai mươi lăm lần, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương một ngàn lần.
  20. 3911. Được gắn liền với nghiệp phước thiện, cơm ăn, nước uống, vải vóc, và chỗ nằm vô cùng giá trị biết được ước muốn của người ấy ngay lập tức sẽ sanh lên cho người ấy là người đã có nghiệp (thiện) trong quá khứ. Và người này sẽ luôn luôn được vui vẻ, không có tật bệnh.
  21. Chốn nào người ấy sanh lên, là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, người ấy sẽ được sung sướng ở khắp mọi nơi rồi sẽ đi đến bản thể nhân loại.
  22. Là vị giảng huấn, thông thạo về chú thuật, thông suốt ba tập Vệ-đà, người ấy sẽ đi đến với bậc Toàn Giác và sẽ trở thành bậc A-la-hán.”
  23. Từ khi tôi nhớ lại bản thân, từ khi tôi đạt được hiểu biết, tôi không có sự thiếu hụt về của cải; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
  24. Tôi đã đạt được Giáo Pháp cao quý, đã tiêu diệt tham ái và sân hận, đã được đoạn tận tất cả các lậu hoặc, giờ đây không còn tái sanh nữa.
  25. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  26. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  27. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Tissametteyya đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Tissametteyya là phần thứ nhất.

 

–ooOoo–

 

402. Ký Sự về Trưởng Lão Puṇṇaka

  1. Ở gần đỉnh của sườn núi, có đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại, cư ngụ ở trong vùng đồi núi. Đức Phật đáng kính bị lâm bệnh.
  2. Cho đến lúc ấy, đã có tiếng động ở vùng lân cận khu ẩn cư của tôi. Trong khi đức Phật đang (viên tịch) Niết Bàn, có ánh sáng đã xuất hiện.
  3. Từ loài gấu, chó sói, linh cẩu, cọp, và sư tử ở trong cụm rừng già cho đến toàn bộ (thú rừng) đã rống lên.
  4. Sau khi nhìn thấy hiện tượng bất thường ấy, tôi đã đi đến ngọn núi. Tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy đấng Giác Ngộ, bậc không bị đánh bại, đã tịch diệt.
  5. Bậc không bị đánh bại đã tịch diệt ví như là cây sālā chúa đã được trổ hoa, tợ như mặt trời đã mọc lên, như là đống than đã tàn ngọn lửa.
  6. Sau khi gom đầy cỏ và củi, tôi đã tạo dựng giàn hỏa thiêu ở tại nơi ấy. Sau khi hoàn tất giàn hỏa thiêu khéo được tạo dựng, tôi đã thiêu đốt thi thể.
  7. Sau khi thiêu đốt thi thể, tôi đã rưới nước thơm. Ngay khi ấy, có con Dạ-xoa đứng ở trên không trung đã đặt tên (cho tôi) rằng:
  8. Này vị hiền trí, công việc đối với bậc Đại Ẩn Sĩ, đấng Tự Chủ đã được ông làm đầy đủ, vậy ông hãy luôn luôn có tên là Puṇṇaka.”[1]
  9. Sau khi chết đi lìa bỏ thân ấy, tôi đã đi đến thế giới chư Thiên. Tại nơi ấy, có hương thơm bằng chất liệu thuộc cõi trời tỏa ra ở không trung.
  10. Cũng ở tại nơi đó, khi ấy tên gọi của tôi đã là “Puṇṇaka.” Dầu trở thành vị Thiên nhân hay là loài người, tôi đều làm tròn đủ ý định (của mình).
  11. Lần sau cùng này của tôi là sự hiện hữu cuối cùng trong sự luân chuyển. Cũng ở nơi đây tên Puṇṇaka được công bố là tên gọi (của tôi).
  12. Sau khi đã làm hài lòng đấng Toàn Giác Gotama, bậc Cao Quý dòng Sakya, sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, tôi sống không còn lậu hoặc.
  13. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của công việc (hỏa táng) thi thể.
  14. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch, tất cả các lậu hoặc đã được đoạn tận, tôi sống không còn lậu hoặc.
  15. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  16. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Puṇṇaka đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Puṇṇaka là phần thứ nhì.

 

–ooOoo–

 

403. Ký Sự về Trưởng Lão Mettagū

  1. Ở không xa núi Hi-mã-lạp, có ngọn núi tên là Asoka. Tại nơi ấy, khu ẩn cư của tôi đã được hóa hiện ra bởi vị trời Vissakamma.
  2. Bậc Toàn Giác cao cả, đấng Đại Bi, bậc Hiền Trí tên Sumedha vào buổi sáng sau khi mặc y đã đi đến tôi để khất thực.
  3. Khi bậc Lãnh Đạo Thế Gian, đấng Đại Hùng Sumedha đi đến, tôi đã nhận lấy bình bát của đấng Thiện Thệ và đã chứa đầy với bơ lỏng và dầu ăn.
  4. Sau khi đã dâng cúng đức Phật tối thượng, bậc Lãnh Đạo Thế Gian Sumedha, tôi đã chắp tay lên và đã khởi lên niềm vui dào dạt:
  5. Do sự bố thí bơ lỏng này và do các nguyện lực của tác ý, dầu trở thành vị Thiên nhân hay là loài người, mong sao cho tôi đạt được sự an lạc sung mãn.
  6. Mong sao cho tôi lánh xa chốn đọa đày trong khi luân hồi cõi này cõi khác. Mong sao cho tôi khẳng định được tâm về điều ấy và đạt được vị thế Bất Động.”
  7. Này người Bà-la-môn, điều lợi ích cho ngươi đã được ngươi đạt thành một cách tốt đẹp, là việc ngươi đã nhìn thấy Ta. Sau khi đi đến gặp Ta, ngươi sẽ trở thành vị A-la-hán.
  8. Sau khi đạt đến thành công lớn, ngươi hãy tự tin, chớ lo sợ. Bởi vì sau khi bố thí bơ lỏng đến Ta, ngươi được hoàn toàn giải thoát khỏi sự (tái) sanh.
  9. Do sự bố thí bơ lỏng này và do các nguyện lực của tác ý, dầu trở thành vị Thiên nhân hay là loài người, ngươi sẽ đạt được sự an lạc sung mãn.
  10. Do sự bố thí bơ lỏng này và do sự hành trì tâm từ ái, ngươi sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong một ngàn tám trăm kiếp.
  11. Và ngươi sẽ trở thành vị Thiên Vương ba mươi tám lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
  12. Và ngươi sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương năm mươi mốt lần, là người chinh phục bốn phương, là đấng chúa tể của vùng đất Jambu.
  13. Tợ như đại dương là không bị xao động, giống như trái đất là khó mang vác, và tương tợ y như thế của cải thuộc về ngươi sẽ là vô lượng.”
  14. Sau khi từ bỏ sáu mươi koṭi (600 triệu) tiền vàng, tôi đã xuất gia. Trong khi tầm cầu điều tốt đẹp gì mà tôi đã đi đến với Bāvarī[2]?
  15. Tại nơi ấy, tôi học tập các chú thuật và sáu phần về tướng số. “Bạch đấng Đại Hiền Trí,[3] trong khi hủy diệt điều tăm tối ấy Ngài đã hiện khởi.
  16. Bạch đấng Đại Hiền Trí, có sự ước muốn về việc nhìn thấy Ngài con đã đi đến. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của Ngài, con đã đạt đến vị thế Bất Động.”
  17. Tôi đã dâng cúng bơ lỏng đến đức Phật trong ba mươi ngàn kiếp. Trong khoảng thời gian ấy, tôi không biết rõ lượng bơ lỏng đã được tôi dâng cúng.
  18. Hiểu được ý định của tôi, biết được tâm tư của tôi, (mọi vật) đã được sanh lên, đã được tạo ra theo như ước muốn. Tôi được thỏa mãn về mọi thứ.
  19. Ôi đức Phật! Ôi Giáo Pháp! Ôi sự thành tựu của bậc Đạo Sư của chúng ta! Bởi vì sau khi dâng cúng chỉ chút ít bơ lỏng, tôi đạt được vô lượng.
  20. Cho đến nước trong đại dương được nhìn thấy từ núi Neru so sánh với bơ lỏng của tôi thì không chạm đến được phần chia của một góc (bơ lỏng của tôi).
  21. Cho đến số lượng của vũ trụ đang được hình thành, khoảng không gian ấy không sánh bằng các tấm vải đã được sanh lên cho tôi.
  22. Núi chúa Hi-mã-lạp cũng chính là ngọn núi hàng đầu sẽ không là sự so sánh đối với vật thơm đã được thoa cho tôi.
  23. (Tôi đã đạt được) vải vóc, vật thơm, bơ lỏng, thức ăn, và ở kiếp hiện tại này là Niết Bàn không còn tạo tác; điều này là quả báu của việc dâng cúng bơ lỏng.
  24. (Tôi có được) sự trú vào các thiết lập niệm, có hành xứ về thiền định, có sự thọ hưởng các chi phần giác ngộ ở ngày hôm nay; điều này là quả báu của việc dâng cúng bơ lỏng.
  25. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch, tất cả các lậu hoặc đã được đoạn tận, tôi sống không còn lậu hoặc.
  26. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  27. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Mettagū[4] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Mettagū là phần thứ ba.

 

–ooOoo–

 

404. Ký Sự về Trưởng Lão Dhotaka

  1. Sông Gaṅgācó tên là Bhāgīrathī được phát xuất từ núi Hi-mã-lạp, lúc bấy giờ chảy dọc theo cửa khẩu của (thành phố) Haṃsavatī.
  2. Tu viện tên là Sobhita đã khéo được tạo lập ở cạnh bờ sông Gaṅgā. Đức Phật Padumuttara, đấng Lãnh Đạo Thế Gian, cư ngụ tại nơi ấy.
  3. Như là vị (Chúa Trời) Inda với chư Thiên cõi Đạo Lợi, đức Thế Tôn đã ngồi xuống ở tại nơi ấy phía trước đám người tợ như con sư tử không bị hãi sợ.
  4. Tôi là vị Bà-la-môn sống ở thành phố Haṃsavatī có tên là Chaḷaṅga. Tôi là vị đại hiền trí có tên như thế.
  5. Khi ấy, có một ngàn tám trăm người theo tôi. Được tháp tùng bởi những người học trò ấy, tôi đã đi đến bờ sông Gaṅgā.
  6. Tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy các vị sa-môn không giả dối, có các tội lỗi đã được gội rửa, đang băng qua sông Bhāgīrathī. Tôi đã tức thời suy nghĩ như vầy:
  7. Những người con trai có danh tiếng lớn lao này của đức Phật trong khi sáng chiều băng qua (sông) khiến bản thân bị khó khăn, bản thân của họ bị hành hạ.
  8. Đức Phật được gọi là vị Cao Cả của thế gian luôn cả chư Thiên, (vậy mà) ta không có hành động cúng dường là việc làm trong sạch con đường đi đến các cảnh giới tái sanh.
  9. Hay là ta nên cho thực hiện cây cầu ở sông Gaṅgā (dâng) đến đức Phật Tối Thượng? Sau khi cho thực hiện việc làm này, ta (sẽ) vượt qua sự hiện hữu này.”
  10. Trong khi tin tưởng rằng: “Hành động được làm sẽ có (kết quả) dồi dào cho ta,” tôi đã bố thí một trăm ngàn và đã cho xây dựng cây cầu.
  11. Sau khi đã cho xây dựng cây cầu ấy, tôi đã đi đến đấng Lãnh Đạo Thế Gian. Sau khi chắp tay lên ở đầu, tôi đã nói lời nói này:
  12. Bạch đấng Đại Hiền Trí, cây cầu lớn này đã được làm hết một trăm ngàn và đã được con bảo làm vì lợi ích của Ngài, xin Ngài thọ nhận.”
  13. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đã ngồi xuống ở hội chúng tỳ khưu và đã nói lên những lời kệ này:
  14. Người nào được tịnh tín đã bảo thực hiện cây cầu cho Ta với các bàn tay của mình, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.
  15. Dẫu cho bị rơi xuống từ vực thẳm, từ ngọn núi, hoặc từ thân cây, thậm chí bị chết đi, người này sẽ đạt được vị thế; điều này là quả báu của việc dâng cúng cây cầu.
  16. Các kẻ thù không áp chế được, ví như cơn gió không áp chế được cây đa có mạng rễ đã được phát triển; điều này là quả báu của việc dâng cúng cây cầu.
  17. Các kẻ cướp không áp chế người này, các vị Sát-đế-lỵ không khinh bỉ, người này thoát khỏi tất cả kẻ thù; điều này là quả báu của việc dâng cúng cây cầu.
  18. Khi hiện diện ở ngoài trời (và) bị thiêu đốt bởi sức nóng dữ dội, (do) được gắn liền với nghiệp phước thiện, các cảm thọ sẽ không có.
  19. thế giới chư Thiên hoặc ở loài người, sau khi biết được ước muốn của người ấy, phương tiện di chuyển bằng voi sẽ được hóa hiện ra, sẽ được tạo ra ngay lập tức.
  20. Một ngàn con ngựa giống Sindhu có tốc độ của gió là phương tiện di chuyển nhanh chóng sẽ đi đến sáng chiều; điều này là quả báu của việc dâng cúng cây cầu.
  21. Sau khi đi đến bản thể nhân loại, người này sẽ được sung sướng. Ngay cả ở đây cũng sẽ có phương tiện di chuyển bằng voi cho chính con người ấy.
  22. Vào một trăm ngàn kiếp (về sau này), bậc Đạo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
  23. Là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, (người này) sẽ biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc và sẽ Niết Bàn không còn lậu hoặc.”
  24. Ôi việc làm của tôi đã được thực hiện tốt đẹp đến vị (Phật) tên Padumuttara! Sau khi thể hiện sự tôn kính đến vị ấy, tôi đã đạt đến sự diệt tận các lậu hoặc.
  25. Có tính khẳng quyết về sự nỗ lực, tôi được an tịnh, không còn mầm mống tái sanh. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  26. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  27. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch, tất cả các lậu hoặc đã được đoạn tận, giờ đây không còn tái sanh nữa.
  28. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Dhotaka[5] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Dhotaka là phần thứ tư.

 

–ooOoo–

 

405. Ký Sự về Trưởng Lão Upasiva

  1. Ở không xa núi Hi-mã-lạp, có ngọn núi tên là Anoma, có khu ẩn cư của tôi đã khéo được xây dựng, có gian nhà rộng bằng lá đã khéo được tạo lập.
  2. Và con sông chảy qua nơi ấy có bến nước cạn xinh xắn làm thích ý. Và dọc theo bến nước cạn ấy, có nhiều sen hồng sen xanh mọc lên.
  3. Có các loài cá như là cá pāṭhīna, cá pāvusa, cá valaja, cá muñja, và cá rohita. Con sông nhỏ, chứa đầy dẫy những cá và rùa, luôn luôn trôi chảy.
  4. Ở nơi ấy, các loài hoa timira, hoa asoka, hoa khuddamālaka, hoa nguyệt quế, hoa nguyệt quế núi đã được nở rộ tỏa hương đến khu ẩn cư của tôi.
  5. Ở nơi ấy, loài hoa kūṭaja và các rừng hoa nhài được nở rộ. Ở nơi ấy, có nhiều cây sālā, cây salala, và cây campaka được nở rộ.
  6. Các loài cây ajjuna, cây atimutta, và cây mahānāma được nở rộ, và loài cây asana có hương thơm ngọt ngào, chúng nở rộ hoa ở khu ẩn cư của tôi.
  7. Các loại cây uddālaka, cây pāṭalika, cây yūthika, cây piyaṅguka, và cây bimbijālaka bao phủ ở xung quanh nửa do-tuần.
  8. Ở nơi ấy, có nhiều loại cây mātaṅgava, cây sattali, cây pāṭalī, cây sinduvāraka, cây aṅkolaka, và cây tālakūṭa được nở rộ hoa.
  9. Ở nơi ấy, có nhiều cây cánh kiến trắng nở rộ hoa ở khu ẩn cư của tôi. Trong khi những cây này đang nở rộ hoa, nhiều cây trở nên rực rỡ. Khu ẩn cư của tôi tỏa ra với hương thơm ấy ở xung quanh.
  10. Và có những loại trái cây ngọt như trái harītaka, trái āmalaka, trái xoài, trái mận đỏ, tráivibhīṭaka, trái táo, trái bhallātaka, và trái billa.
  11. Và ở nơi ấy có những loại trái cây như trái tinduka, trái piyāla, trái cam thảo, tráikāsumārī, trái mít, trái sa-kê, trái chuối, trái badarī.
  12. Ở nơi ấy, có nhiều trái cây ambāṭaka và trái cây vallikāra. Các cây bījapūra và câysapāriya được kết trái ở khu ẩn cư của tôi.
  13. Từ nơi ấy có nhiều trái cây như trái āḷaka, trái isimugga, và trái moda bao phủ, đã chín tới và trĩu nặng. Và có các trái cây như trái vả và trái sung.
  14. Ở nơi ấy, có nhiều trái ớt, trái tiêu, trái đa, trái táo rừng, trái sung, và trái pāriya đã chín một phần.
  15. Và có nhiều loại cây này và loại cây khác đã kết trái ở khu ẩn cư của tôi. Cũng có nhiều cây có bông hoa đã đơm hoa ở khu ẩn cư của tôi.
  16. Các loài thảo mộc như là āluva, kaḷamba, bilālī, takkala, ālaka, luôn cả tālaka đều được tìm thấy ở khu ẩn cư của tôi.
  17. Ở không xa khu ẩn cư của tôi (đã) có hồ nước thiên nhiên rộng lớn, có nước trong, có nước mát, có bến nước cạn xinh xắn, làm thích ý.
  18. Ở nơi ấy, có nhiều sen hồng, sen xanh, kết hợp với sen trắng, được che phủ bởi những cây mạn-đà-la, tỏa ra với nhiều hương thơm khác loại.
  19. Có những đóa sen hồng đang tượng hình, các đóa hoa khác nở hoa có tua nhụy, có nhiều đóa có các cánh hoa rũ xuống trở thành những gương sen.
  20. Có mật tiết ra từ củ sen, có sữa và bơ lỏng từ các rễ và ngó sen, chúng tỏa ra nhiều hương thơm khác loại (hòa quyện) với hương thơm ấy ở xung quanh.
  21. Có nhiều bông súng trắng và mùi thơm của xoài thoảng qua được nhận biết. Ở kế bờ hồ nước thiên nhiên, có nhiều cây dừa dại được đơm bông.
  22. Có các cây bandhujīva khéo nở rộ hoa và các cây setavārī có hương thơm ngát. Có các con cá sấu loại kumbhīla, loại suṃsumāra, và loại gahaka được sanh ra ở tại nơi ấy.
  23. Có nhiều mãng xà là loài thú kiếm mồi trong hồ nước thiên nhiên ở tại nơi ấy. Và có các loài cá pāṭhīna, cá pāvusa, cá valaja, cá muñja, và cá rohita.
  24. Có đầy dẫy các loài cá, các con rùa, và các con rái cá nữa. Và có các con chim bồ câu, các con ngỗng trời, các con gà rừng, và các loài sống ở sông.
  25. Có nhiều chim le le, ngỗng đỏ, chim campaka, chim jīvajīvaka, chim kalandaka, chim ưng, chim diều hâu, và chim uddhara.
  26. Có nhiều chim koṭṭhaka, chim sukapota, loài cua, loài bò rừng, loài thú kāreṇī, và loài thú tilaka sống nương nhờ hồ nước ấy.
  27. Các con sư tử, cọp, báo, gấu, chó sói, linh cẩu, các loài khỉ, và luôn cả loài kim-sỉ-điểu được nhìn thấy ở khu ẩn cư của tôi.
  28. Trong khi ngửi các hương thơm ấy, trong khi ăn các thứ trái cây (ấy), và trong khi uống nước có hương thơm (ấy), tôi sống ở khu ẩn cư của tôi.
  29. Có các con sơn dương, nai, heo rừng, hươu, các loài có dáng vóc nhỏ bé, và luôn cả các con đom đóm có ánh sáng sống ở khu ẩn cư của tôi.
  30. Ở nơi ấy có nhiều chim thiên nga, chim cò, chim công, chim sáo, chim cu, chimmañjarikā, chim cú mèo, và chim gõ kiến.
  31. Có nhiều loài yêu tinh, loài người khổng lồ, và luôn cả loài quỉ sứ, loài quỷ dữ, loài nhân điểu, và luôn cả các loài bò sát sống ở khu ẩn cư của tôi.
  32. Có nhiều vị ẩn sĩ có đại oai lực, có tâm thanh tịnh, được định tĩnh, tất cả đều mang bầu nước, có y choàng là tấm da dê, các vị mang búi tóc rối ấy sống ở khu ẩn cư của tôi.
  33. Và (các vị ấy) nhìn với khoảng cách của cán cày, cẩn trọng, có hành vi thanh tịnh, hài lòng với việc có hay không có, sống ở khu ẩn cư của tôi.
  34. Được hỗ trợ bởi các năng lực của bản thân, các vị ấy luôn luôn di chuyển ở không trung (vừa đi) vừa phất phơ bộ y phục vỏ cây vừa kềm giữ tấm y da dê.
  35. Các vị ấy không mang theo nước, củi gỗ, hoặc củi nhóm lửa, và các vị ấy đã tự thân đạt được (các thứ ấy), điều này là quả báu của phép kỳ diệu.
  36. Sau khi nhận lấy cái máng bằng kim loại, các vị ấy sống ở giữa rừng ví như những con voi dòng long tượng, tợ như con sư tử không bị hãi sợ.
  37. Một số vị đi đến Tây Ngưu Hóa Châu, một số vị khác đi đến Đông Thắng Thần Châu, và một số vị khác đi đến Bắc Câu Lưu Châu tùy theo năng lực của tự thân. Sau khi mang lại vật thực từ các nơi ấy, các vị thọ thực chung.
  38. Khi ấy, trong lúc tất cả các vị có oai lực nổi bật như thế ấy đang ra đi, khu rừng được rộn ràng bởi âm thanh bộ y bằng da dê của (các vị).
  39. Bạch đấng Đại Hiền Trí, các vị như thế ấy là những người học trò có sự khổ hạnh nổi bậc của con. Được tùy tùng bởi các vị ấy, con sống ở khu ẩn cư của con.
  40. Được hoan hỷ với việc làm của bản thân, các vị này đã cùng nhau tụ hội, và cũng đã được huấn luyện. Là những người có sự mong mỏi về việc làm của bản thân, có giới hạnh, cẩn trọng, rành rẽ về các pháp vô lượng tâm, họ đã làm con hài lòng.”
  41. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, bậc Hướng Đạo sau khi nhận biết thời điểm đã đi đến.
  42. Sau khi đi đến, đấng Toàn Giác, bậc Hiền Trí, vị có sự nhiệt tâm, cẩn trọng, đã ôm lấy bình bát, rồi đấng Toàn Giác đã đến gần tôi để khất thực.
  43. Khi đấng Đại Hùng, bậc Lãnh Đạo Padumuttara đã đi đến, tôi đã sắp xếp tấm thảm cỏ và đã rải rắc bằng các bông hoa sālā.
  44. Tôi đã thỉnh đấng Toàn Giác ngồi xuống. Trở nên mừng rỡ, với tâm ý đã được kích động, tôi đã mau chóng leo lên ngọn núi và đã thâu nhặt gỗ trầm hương.
  45. Sau khi hái trái mít có kích thước bằng bầu nước, có hương thơm cõi trời, tôi đã đặt ở trên vai rồi đã đi đến gần đấng Hướng Đạo.
  46. Sau khi đã dâng trái cây đến đức Phật, tôi đã thoa trầm hương. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã đảnh lễ đức Phật tối thượng.
  47. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đã ngồi xuống ở giữa những vị ẩn sĩ và đã nói những lời kệ này:
  48. Người nào đã dâng cúng trái cây, trầm hương, và chỗ ngồi đến Ta, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.
  49. Cho dầu ở làng hoặc ở rừng, ở các sườn núi hoặc ở các hang động, vật thực sẽ hiện ra đúng theo tâm (ước muốn) của người này.
  50. Được sanh lên ở thế giới chư Thiên hoặc ở loài người, người nam này sẽ làm toại ý nhóm tùy tùng với các thức ăn và với các loại vải vóc.
  51. Chốn nào được sanh lên là bản thể Thiên nhân hay loài người, sau khi có được của cải không bị suy suyển, người nam này sẽ luân hồi.
  52. Người này sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong ba mươi ngàn kiếp, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương một ngàn lần.
  53. Và người này sẽ cai quản Thiên quốc bảy mươi mốt lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
  54. Vào một trăm ngàn kiếp (về sau này), bậc Đạo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
  55. Là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, (người này) sẽ biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc và sẽ sống không còn lậu hoặc.”
  56. Điều lợi ích được thành tựu một cách tốt đẹp đã được thành tựu đến tôi, là việc tôi đã được nhìn thấy đấng Lãnh Đạo, tôi đã thành tựu tam minh, tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
  57. Cho dầu ở làng hoặc ở rừng, ở các sườn núi hoặc ở các hang động, sau khi biết được tâm của tôi vật thực luôn luôn hiện đến cho tôi.
  58. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  59. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  60. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Upasiva đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Upasiva là phần thứ năm.

 

–ooOoo–

 

406. Ký Sự về Trưởng Lão Nandaka

  1. Trong thời quá khứ, tôi đã là thợ săn thú rừng ở trong khu rừng rậm hoang dã. Trong lúc tìm kiếm thú rừng là loài nai, tôi đã nhìn thấy đấng Chiến Thắng, bậc Tự Chủ.
  2. Bậc Toàn Giác, đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại tên là Anuruddha. Khi ấy, có ước muốn độc cư, bậc trí tuệ ấy đã đi sâu vào trong khu rừng.
  3. Tôi đã cầm lấy bốn cây gậy rồi đã đặt ở bốn vị trí. Sau khi thực hiện mái che đã được làm khéo léo, tôi đã phủ lên bằng những đóa hoa sen.
  4. Sau khi đã lợp xong mái che, tôi đã đảnh lễ đấng Tự Chủ. Tôi đã quăng bỏ cây cung ngay tại chỗ ấy và đã xuất gia vào đời sống không gia đình.
  5. Được xuất gia không bao lâu, bệnh tật đã khởi lên cho tôi. Tôi đã nhớ lại việc làm trước đây rồi đã qua đời ở tại nơi ấy.
  6. Được gắn liền với nghiệp trước đây, tôi đã đi đến cõi trời Đẩu Suất. Ở tại nơi ấy, có cung điện bằng vàng được tạo ra theo như ước muốn.
  7. Tôi đã chú nguyện về phương tiện di chuyển ở cõi trời là chiếc xe đã được buộc vào một ngàn con ngựa. Sau khi bước lên chiếc xe ấy, tôi ra đi theo như ước muốn.
  8. Từ đó, trong khi tôi là vị Thiên nhân và trong khi tôi được đưa đi, có chiếc lọng được che cho tôi ở xung quanh một trăm do-tuần.
  9. Tôi nằm ở cái giường thường xuyên được lót bằng bông hoa. Và có các đóa hoa sen từ trên không trung liên tục rơi xuống.
  10. Khi ảo ảnh (ở mắt) đang lung linh và sức nóng đang thiêu đốt, sức nóng đã không làm tôi bị nóng bức; điều này là quả báu của mái che.
  11. Trong khi vượt qua khổ cảnh, các địa ngục đã đóng lại đối với tôi. Ở mái che hoặc ở gốc cây, tôi không biết đến sự nóng bức.
  12. Sau khi chú nguyện sự niệm tưởng về đất, tôi băng qua nước biển mặn, việc làm của tôi đây đã được thực hiện tốt đẹp; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  13. Thậm chí không có con đường, tôi tạo ra con đường, tôi đi bằng đường không trung. Ôi việc làm của tôi đã được thực hiện tốt đẹp; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  14. Tôi biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc của tôi đã được đoạn tận; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  15. Cuộc sống trước đây đã được buông bỏ, tôi là tỳ khưu của đức Phật, và là người thừa tự Chánh Pháp; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  16. Tôi đã làm hài lòng đấng Thiện Thệ Gotama, bậc Cao Quý của dòng Sakya. Tôi là ngọn cờ của Giáo Pháp, là người thừa tự Giáo Pháp; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  17. Tôi đã hầu cận đấng Toàn Giác Gotama bậc Cao Quý của dòng Sakya và đã hỏi đấng Lãnh Đạo Thế Gian về Đạo Lộ đi đến bờ kia.
  18. Được yêu cầu, đức Phật đã thuyết giảng về Đạo Lộ thâm sâu vi tế. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của Ngài, tôi đã đạt đến sự diệt tận các lậu hoặc.
  19. Ôi việc làm của tôi đã được thực hiện tốt đẹp! Tôi đã được giải thoát khỏi sự sanh, đã được đoạn tận tất cả các lậu hoặc, giờ đây không còn tái sanh nữa.
  20. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  21. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  22. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Nandaka đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Nandaka là phần thứ sáu.

 

–ooOoo–

 

407. Ký Sự về Trưởng Lão Hemaka

  1. Vào lúc bấy giờ, có vị đạo sĩ khổ hạnh tên là Anoma đã tạo lập khu ẩn cư được xây dựng khéo léo ở gần chóp đỉnh của sườn núi và đã sống ở gian nhà rộng bằng lá.
  2. Sự thực hành khổ hạnh của vị ấy đã được thành tựu. Được đạt đến sự thành tựu về các năng lực của bản thân, vị hiền trí có sự nhiệt tâm, cẩn trọng, đang tiến đến bản thể sa-môn của chính mình.
  3. (Vị ấy) tự tin ở giáo lý của mình và rành rẽ về học thuyết của người khác, được nổi tiếng ở trên trời dưới đất và rành rẽ về điềm báo hiệu.
  4. Vị hiền trí không còn sầu muộn, không giết hại, (thọ) chút ít vật thực, không tham lam, hài lòng với việc có hay không có, chứng thiền, thỏa thích về thiền.
  5. Bậc Toàn Giác cao cả, đấng Bi Mẫn, bậc Hiền Trí tên Piyadassī, có ước muốn giúp cho chúng sanh vượt qua, khi ấy Ngài đã lan tỏa với tâm bi mẫn.
  6. Sau khi nhìn thấy người có khả năng giác ngộ, bậc Đại Hiền Trí Piyadassī vẫn đi đến dẫu cho (khoảng cách là) một ngàn vũ trụ, và bậc Hiền Trí giáo giới (người ấy).
  7. Có ý muốn tiếp độ tôi, Ngài đã đi đến khu ẩn cư của tôi. Tôi chưa từng nhìn thấy đấng Chiến Thắng trước đây, và cũng chưa từng được nghe từ bất cứ ai.
  8. Tôi hiểu biết rành rẽ về các điềm báo hiệu, các mộng mị, và các tướng mạo. Tôi được nổi tiếng về thiên văn địa lý và rành rẽ về thuật chiêm tinh.
  9. Tại đó, sau khi lắng nghe đức Phật tôi đây đã làm cho tâm được tịnh tín. Trong khi ăn hoặc trong khi ngồi xuống, tôi thường xuyên nhớ lại.
  10. Khi tôi nhớ lại như vậy, đức Thế Tôn cũng đã tưởng nhớ lại. Trong khi tưởng nhớ đến đức Phật, tôi có được phỉ lạc ngay lập tức.
  11. Và đã xảy ra một lần khác nữa, bậc Đại Hiền Trí đã đi đến gần tôi. Tôi cũng không biết về người đã đi đến: “Vị này là đức Phật, bậc Đại Hiền Trí.”
  12. Bậc Thương Tưởng, đấng Bi Mẫn, bậc Đại Hiền Trí Piyadassī đã tỏ rõ về bản thân rằng: “Ta là đức Phật (ở thế gian) gồm luôn cả chư Thiên.”
  13. Sau khi nhận ra đấng Toàn Giác, bậc Đại Hiền Trí Piyadassī, tôi đã làm cho tâm của chính mình được tịnh tín rồi đã nói lời nói này:
  14. Những người khác tự ngồi xuống ở ghế đẩu, ghế bành, và các ghế dài. Còn ngài là đấng Toàn Tri, xin ngài hãy ngồi xuống chỗ ngồi bằng châu báu.”
  15. Ngay khi ấy, tôi đã hóa hiện ra chiếc ghế đẩu toàn bộ làm bằng châu báu và đã dâng lên bậc Hiền Trí Piyadassī (chiếc ghế) đã được hóa hiện ra bằng thần thông.
  16. Và khi Ngài đã ngồi xuống trên chiếc ghế đẩu bằng châu báu đã được hóa hiện ra bằng thần thông, tôi đã tức thời dâng đến Ngài trái mận đỏ có kích thước bằng bầu nước.
  17. Sau khi làm cho tôi sanh khởi niềm vui, bậc Đại Hiền Trí đã thọ dụng. Khi ấy, tôi đã làm cho tâm được tịnh tín và đã đảnh lễ bậc Đạo Sư.
  18. Rồi đức Thế Tôn Piyadassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, ngồi ở chỗ ngồi bằng châu báu đã nói lên các lời kệ này:
  19. Người nào đã dâng cúng Ta chiếc ghế đẩu làm bằng châu báu và trái cây bất tử, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.
  20. (Người này) sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong bảy mươi bảy kiếp, và sẽ là đấng Chuyển Luân Vương bảy mươi lăm lần.
  21. (Người này) sẽ là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc ba mươi hai lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
  22. (Người này) sẽ đạt được nhiều chiếc ghế bành khéo được tạo ra làm bằng vàng, làm bằng bạc, làm bằng hồng ngọc, và luôn cả làm bằng châu báu.
  23. Khi ấy, có vô số chiếc ghế bành sẽ quây quanh con người có được nghiệp phước thiện, ngay cả trong lúc (vị ấy) đang đi kinh hành.
  24. Các ngôi nhà mái nhọn, các tòa lâu đài, và chỗ nằm vô cùng giá trị, sau khi biết được tâm (ước muốn) của người này sẽ được hiện ra ngay khi ấy.
  25. Sáu mươi ngàn con voi loài long tượng được trang hoàng với tất cả các loại trang sức, có chuông vàng, có trang phục với yên cương bằng vàng.
  26. Được cỡi bởi các vị trưởng làng có các bàn tay cầm giáo và móc câu, chúng sẽ hộ tống người này; điều này là quả báu của chiếc ghế bằng châu báu.
  27. Sáu mươi ngàn con ngựa dòng Sindhu thuần chủng là phương tiện vận chuyển nhanh chóng, được trang hoàng với tất cả các loại trang sức.
  28. Được cỡi bởi các vị trưởng làng có mang cung với gươm, chúng cũng sẽ hộ tống người này; điều này là quả báu của chiếc ghế bằng châu báu.
  29. Sáu mươi ngàn cỗ xe được trang hoàng với tất cả các loại trang sức, có các mảnh da báo và cả da hổ được bày biện, có các ngọn cờ được giương cao.
  30. Được cỡi bởi các vị trưởng làng có các tay cầm cung mang áo giáp, chúng sẽ thường xuyên hộ tống người này; điều này là quả báu của chiếc ghế bằng châu báu.
  31. Sáu mươi ngàn con bò cái sữa sẽ sản xuất ra các con bò con và bò đực cao quý; điều này là quả báu của chiếc ghế bằng châu báu.
  32. Mười sáu ngàn phụ nữ được trang điểm với tất cả các loại trang sức, được trang hoàng bằng các loại vải vóc nhiều màu sắc, có các bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni.
  33. Có lông mi cong, có nụ cười, có điệu bộ duyên dáng, có eo thon, các nàng sẽ thường xuyên vây quanh người này; điều này là quả báu của chiếc ghế bằng châu báu.
  34. Vào một ngàn tám trăm kiếp, bậc Hữu Nhãn tên là Gotama sau khi hủy diệt điều tăm tối ấy và sẽ trở thành đức Phật ở thế gian.
  35. (Người này) sẽ đi đến chiêm ngưỡng vị (Phật) ấy, sẽ xuất gia, không còn sở hữu gì, sẽ làm hài lòng bậc Đạo Sư, và sẽ vô cùng thỏa thích trong Giáo Pháp.
  36. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, (người này) sẽ tiêu diệt các phiền não. Sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, (người này) sẽ Niết Bàn không còn lậu hoặc.”
  37. Tôi có sự tinh tấn, có khả năng thực hành các phận sự là điều kiện đưa đến sự an ổn khỏi các điều ràng buộc. Trong khi ước nguyện mục đích tối thượng, tôi sống ở trong Giáo Pháp.
  38. Đây là lần sau cùng của tôi, là kiếp sống cuối cùng trong sự luân chuyển. (Tôi) đã được đoạn tận tất cả các lậu hoặc, giờ đây không còn tái sanh nữa.
  39. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  40. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  41. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Hemaka đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Hemaka là phần thứ bảy.

(Tụng phẩm thứ mười bảy).

 

–ooOoo–

 

408. Ký Sự về Trưởng Lão Todeyya

  1. Lúc bấy giờ, ở kinh thành Ketumatī có đức vua tên Vijaya, là vị anh hùng, được hội đủ sức lực, đã cư ngụ ở tại thành phố.
  2. Khi vị vua ấy bị xao lãng, những kẻ lục lâm đã nổi dậy. Khi ấy, những điều tội lỗi và các sự phóng đãng nữa đã tàn phá hoại xứ sở.
  3. Vào lúc biên thùy bị rối loạn, vị thuần hóa kẻ thù (đức vua) đã lập tức cho tập trung các binh lính luôn cả các nhân viên quân đội, và khi ấy đã lên án kẻ thù.
  4. Lúc bấy giờ, các nài voi, các lính ngự lâm, các bậc anh hùng, đội quân áo giáp da, các cung thủ, và các thủ lãnh, tất cả đã tập trung lại.
  5. Lúc bấy giờ, các người đầu bếp, các thợ hớt tóc, các người hầu tắm, các người làm tràng hoa, các vị anh hùng thắng trận, tất cả đã tập trung lại.
  6. Lúc bấy giờ, các người tay có cầm dao, tay có cầm cung, có áo giáp, các võ sĩ thắng trận, tất cả đã tập trung lại.
  7. Lúc bấy giờ, các con voi mātaṅga (đến tuổi) bị tiết dục ở ba nơi được sáu mươi tuổi có sự trang sức với các chuông vàng, tất cả đã tập trung lại.
  8. Lúc bấy giờ, các dũng sĩ đã được huấn luyện, có sức chịu đựng sự lạnh, sự nóng, và sự mang vác các vật thối tha, tất cả đã tập trung lại.
  9. Lúc bấy giờ, có tiếng tù và vỏ ốc, tiếng trống lớn, và tiếng trống trầm. Trong lúc đang giải trí với những tiếng trống này, tất cả bọn họ đã tập trung lại.
  10. Lúc bấy giờ, trong khi đánh đập nhau, trong khi làm cho nhau té ngã bằng các chĩa ba các cây trượng và bùa chú, bằng các áo giáp và các mũi thương, tất cả đã tập trung lại.
  11. Lúc bấy giờ, là kẻ chiến thắng vị vua ấy đã không lắng nghe kẻ bại trận về bất cứ điều gì và đã làm sáu chục ngàn sanh mạng phải khiếp đảm ở nơi cọc nhọn.
  12. Những con người (ấy) đã thốt ra lời rằng: “Ôi, vị vua bất nhân! Đối với kẻ đang bị nung nấu ở địa ngục thì khi nào sẽ là sự kết thúc?
  13. Khi ấy, trong lúc trằn trọc ở trên giường, tôi (như là) nằm ở địa ngục, cả ngày lẫn đêm tôi không ngủ. Với cây cọc nhọn họ làm cho tôi hoảng sợ.
  14. (Tôi đã suy nghĩ rằng): “Được gì với sự chểnh mảng, với vương quốc, với xe cộ, và với binh lực? Chúng không phải là để bám víu, chúng luôn luôn làm tôi hãi sợ.
  15. Được gì cho tôi với các người con trai, với các người vợ, và với toàn bộ vương quốc? Hay là ta nên xuất gia, ta nên làm trong sạch đạo lộ tái sanh?
  16. 4129. Không mong mỏi việc lai vãng ở chiến trường, vào địa vị, tôi đã từ bỏ sáu mươi ngàn con voi loài long tượng được trang hoàng với tất cả các loại trang sức, có chuông vàng, có trang phục yên cương bằng vàng, được cỡi bởi các vị trưởng làng có các bàn tay cầm giáo và móc câu. Bị nóng nảy bởi hành động của chính mình, tôi đã ra đi vào đời sống không gia đình.
  17. 4131. (Tôi đã từ bỏ) sáu mươi ngàn con ngựa dòng Sindhu thuần chủng, là phương tiện vận chuyển nhanh chóng, được trang hoàng với tất cả các loại trang sức, được cỡi bởi các vị trưởng làng có các bàn tay cầm cung mang áo giáp. Sau khi buông bỏ tất cả các thứ ấy, tôi đã ra đi vào đời sống không gia đình.
  18. (Tôi đã từ bỏ) sáu mươi ngàn cỗ xe được trang hoàng với tất cả các loại trang sức, có các mảnh da báo và cả da hổ được bày biện, có các ngọn cờ được giương cao. Sau khi bảo đem đi tất cả các thứ ấy, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình.
  19. (Tôi đã từ bỏ) sáu mươi ngàn con bò cái, tất cả đều mang bầu sữa. Sau khi quăng bỏ luôn cả lũ bò cái, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình.
  20. (Tôi đã từ bỏ) sáu mươi ngàn phụ nữ được trang điểm với tất cả các loại trang sức, được trang hoàng bằng các loại vải vóc nhiều màu sắc, có các bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni.
  21. Các nàng có lông mi cong, có nụ cười, có điệu bộ duyên dáng, có eo thon. Tôi đã từ bỏ các nàng đang khóc lóc và đã xuất gia vào đời sống không gia đình.
  22. (Tôi đã từ bỏ) sáu mươi ngàn ngôi làng có đầy đủ tất cả. Sau khi quăng bỏ vương quốc ấy, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình.
  23. Sau khi rời khỏi thành phố, tôi đã đi đến núi Hy-mã-lạp. Tôi đã tạo lập khu ẩn cư ở bờ sông Bhāgīrathī.
  24. Sau khi xây dựng gian nhà rộng bằng lá, tôi đã xây dựng ngôi nhà thờ lửa. Có sự nỗ lực tinh tấn, có tính khẳng quyết, tôi sống ở khu ẩn cư của tôi.
  25. Và trong lúc tham thiền ở mái che, ở gốc cây, hoặc ở ngôi nhà trống vắng, tuy nhiên sự run sợ của tôi là không được biết đến, tôi không nhìn thấy sự kinh hoàng và hãi sợ.
  26. Đấng Toàn Giác tên Sumedha, bậc Cao Cả, đấng Bi Mẫn, bậc Hiền Trí, trong khi chói sáng với ánh sáng trí tuệ đã lập tức hiện khởi ở thế gian.
  27. Ở lân cận khu ẩn cư của tôi có con Dạ-xoa có đại thần lực, khi ấy đã thông báo cho tôi về đức Phật tối thượng đã hiện khởi:
  28. Đức Phật bậc Hữu Nhãn tên Sumedha đã hiện khởi ở thế gian. Ngài giúp cho tất cả loài người vượt qua. Ngài cũng sẽ giúp cho ngươi vượt qua.”
  29. Sau khi lắng nghe lời nói của con Dạ-xoa, ngay khi ấy sự chấn động đã xuất hiện (ở tôi). Trong lúc suy nghĩ “Đức Phật! Đức Phật!” tôi đã xếp đặt lại khu ẩn cư.
  30. Và sau khi quăng bỏ lửa củi, tôi đã tự sắp xếp thảm trải. Sau khi lễ bái khu ẩn cư, tôi đã rời khỏi khu rừng.
  31. Sau khi cầm lấy trầm hương từ khu rừng ấy, trong khi tìm kiếm vị Trời của chư Thiên từ làng này đến làng khác, từ thành phố này đến thành phố khác, tôi đã đi đến gần bậc Hướng Đạo.
  32. Vào thời điểm ấy, đức Thế Tôn, bậc Lãnh Đạo Thế Gian Sumedha, trong khi công bố về bốn Sự Thật (đã) giác ngộ nhiều người.
  33. Sau khi đã chắp tay lên và đặt trầm hương ở trên đầu, tôi đã đảnh lễ đấng Toàn Giác và đã nói lên những lời kệ này:
  34. Trong khi hoa nhài đang nở rộ, (hương thơm) tỏa ra vùng lân cận. Bạch đấng Anh Hùng, Ngài tỏa ra khắp mọi phương với hương thơm của đức hạnh.
  35. Trong khi các loài hoa campaka, hoa mù u, hoa atimuttaka, hoa dứa dại, hoa sālā đang nở rộ, (hương thơm) tỏa ra theo chiều gió.
  36. Bạch đấng Đại Hùng, bậc Trưởng Thượng của thế gian, vị có danh tiếng vĩ đại, sau khi nghe được danh thơm của Ngài, con từ núi Hi-mã-lạp đã đi đến nơi đây, con xin cúng dường Ngài.”
  37. Tôi đã thoa trầm hương cao quý lên đấng Lãnh Đạo Thế Gian Sumedha. Sau khi làm cho tâm của mình được tịnh tín, ngay khi ấy tôi đã đứng yên lặng.
  38. Đức Thế Tôn tên Sumedha, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu đã ngồi xuống ở hội chúng tỳ khưu và đã nói lên những lời kệ này:
  39. Người nào đã ca tụng về đức hạnh của Ta và đã cúng dường trầm hương, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.
  40. (Người này) sẽ là người cao quý, thẳng thắn, có sự huy hoàng, có ngôn từ được (người khác) thâu nhận, có hào quang trong hai mươi lăm kiếp.
  41. Người này sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong hai ngàn sáu trăm kiếp, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương một ngàn lần.
  42. (Người này) sẽ là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc ba mươi ba lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
  43. Mệnh chung từ nơi ấy, người này sẽ đi đến bản thể nhân loại, được gắn liền với nghiệp phước thiện, sẽ là thân quyến của Phạm Thiên.[6]
  44. (Sẽ có) người Bà-la-môn tên Bāvarī là vị giảng huấn, thông thạo về chú thuật, thông suốt ba tập Vệ-đà, hội đủ ba tướng mạo.
  45. Sau khi trở thành đệ tử của vị ấy, (người này) sẽ thông thạo về chú thuật và sẽ đi đến với đấng Toàn Giác Gotama, bậc cao quý dòng Sakya.
  46. Người này sẽ hỏi các câu hỏi khôn khéo, sẽ tu tập Đạo Lộ, sẽ biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, và sẽ Niết Bàn không còn lậu hoặc.”
  47. Ba loại lửa (tham sân si) của tôi đã được dập tắt, tất cả các hữu đã được xóa sạch, sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, tôi sống không còn lậu hoặc.
  48. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  49. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  50. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Todeyya đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Todeyya là phần thứ tám.

 

–ooOoo–

 

409. Ký Sự về Trưởng Lão Jatukaṇṇi

  1. Khi ấy, tôi đã là người con trai của nhà triệu phú ở thành phố Hamsavatī. Tôi được cung ứng và được vây quanh bởi các loại dục lạc.
  2. Khi ấy, những người ghi dấu các căn nhà đã dựng lên ba tòa nhà. Sau khi bước lên tòa nhà, tôi được vây quanh bởi các điệu vũ và lời ca ở tại nơi ấy.
  3. Các loại nhạc cụ kết hợp với (âm thanh của) chũm chọe được biểu diễn cho tôi. Tất cả những người phụ nữ đang nhảy múa hoàn toàn thu hút tâm ý của tôi.
  4. Những vũ công về các điệu vũ velāpika, lāmaṇika, kuñjavāsī,timajjhika, những người nhào lộn, và những diễn viên hài luôn luôn vây quanh tôi.
  5. Có nhiều nhạc công, những người đánh trống, các diễn viên uốn dẻo, các vũ công, các diễn viên, và ngay cả các kịch sĩ luôn luôn vây quanh tôi.
  6. Các người thợ hớt tóc, các người hầu tắm, các người đầu bếp, các người làm tràng hoa, các người giữ trẻ, các người nhào lộn, các võ sĩ đấu vật, tất cả bọn họ luôn luôn vây quanh tôi.
  7. Trong khi những người này đang đùa giỡn, luyện tập về kỹ xảo, tôi không biết đến ngày và đêm tợ như vị Chúa Trời Inda ở cõi trời Tam Thập.
  8. Những người lữ hành, những người đi đường, tất cả các hành khất, nhiều người bộ hành, trong lúc xin ăn bọn họ thường xuyên đi đến nhà của tôi.
  9. Các Sa-môn và luôn cả các Bà-la-môn là những Phước Điền vô thượng, trong lúc làm tăng trưởng phước báu của tôi, các vị đi đến nhà của tôi.
  10. Các hạng đạo sĩ che một mảnh vải, đạo sĩ che bằng dây leo, các du sĩ ngoại đạo, đạo sĩ có tấm choàng bằng bông hoa, đạo sĩ chống ba cây gậy, đạo sĩ có một chòm tóc, tất cả đều đi đến nhà của tôi.
  11. Các vị đạo lõa thể, các kẻ cướp giật, các người hành pháp trâu bò, các người hành pháp chư Thiên, các người tu hạnh bôi trét bụi và bùn đất (ở cơ thể), những người này đi đến nhà của tôi.
  12. Nhiều vị đạo sĩ nhóm parivattaka, nhóm siddhipatta, nhóm koṇḍapuggaṇika, các đạo sĩ khổ hạnh, và các người tu ở rừng đi đến nhà của tôi.
  13. Những người Oḍḍaka, luôn cả các người Ta-min, các người Sākula, các người Malayālaka, các người Sabara, và cả các người Yonaka nữa đi đến nhà của tôi.
  14. Tất cả những người xứ sở Andhaka, xứ sở Muṇḍaka, xứ sở Kolaka, xứ sở Sānuvindaka, và xứ sở Trung Hoa xa xôi đi đến nhà của tôi.
  15. Các người xứ sở Alasandaka, xứ sở Pallavaka, xứ sở Babbara, xứ sở Bhagga, xứ sở Kārusa, xứ sở Rohita, và xứ sở Cetaputta đi đến nhà của tôi.
  16. Các người xứ sở Mādhuraka, xứ sở Kosalaka, xứ sở Kāsika, xứ sở Hatthiporika, xứ sở Isiṇḍa, luôn cả các người xứ sở Makkala đi đến nhà của tôi.
  17. Các người xứ sở Celāvaka, xứ sở Aramma, xứ sở Okkala, xứ sở Meghala, xứ sở Khuddaka, luôn cả xứ sở Suddaka đi đến nhà của tôi.
  18. Các người xứ sở Rohaṇa, xứ sở Sindhava, xứ sở Citaka, xứ sở Ekakaṇṇika, xứ sở Suraṭṭha, và xứ sở Aparanta đi đến nhà của tôi.
  19. Các người xứ sở Suppāraka, xứ sở Kikumāra, xứ sở Malaya, xứ sở Soṇṇabhūmika, xứ sở Vajjī, và xứ sở Tāra, tất cả bọn họ đi đến nhà của tôi.
  20. Những người làm ống thổi, những người thợ dệt, những người thợ thuộc da, những người thợ mộc, những người thợ rèn, và những người thợ làm đồ gốm đi đến nhà của tôi.
  21. Những người thợ làm ngọc, thợ làm kim khí, thợ kim hoàn, người buôn vải, và thợ làm chì, tất cả đi đến nhà của tôi.
  22. Những người thợ làm tên, thợ tiện gỗ, thợ dệt, và những người làm hương liệu, những người thợ nhuộm, và những người thợ may đi đến nhà của tôi.
  23. Những người buôn dầu, những người vận chuyển gỗ, những người vận chuyển nước, những người đưa tin, những người đầu bếp, và những người bảo quản vật thực đi đến nhà của tôi.
  24. Những người gác cổng, những người hộ vệ, những người canh ngục, những người đổ bỏ rác bông hoa, các nài voi, các quản tượng đi đến nhà của tôi.
  25. Tôi đã dâng đến vị Đại Vương Ānanda là người bị xao lãng. Tôi làm đầy đủ sự thiếu hụt (của đức vua) bằng châu báu có bảy màu sắc.
  26. Những người đã được tôi đề cập đến là những nhóm người có màu da khác nhau. Sau khi biết được tâm của họ, tôi đã làm thỏa mãn họ bằng châu báu.
  27. Trong khi họ đang nói những lời vui vẻ, trong khi những cái trống lớn được vỗ vang lên, trong khi họ đang thổi những chiếc tù và vỏ ốc, tôi sướng vui ở tại ngôi nhà của chính mình.
  28. 4193. Vào thời điểm ấy, đức Thế Tôn, đấng Lãnh Đạo Padumuttara, bậc Hữu Nhãn ấy, được tháp tùng bởi một trăm ngàn vị tỳ khưu là các bậc Lậu Tận có năng lực, đã ngự đến ở trên đường, trong lúc đang tỏa sáng tất cả các phương tợ như cây đèn chiếu sáng.
  29. Tất cả các chiếc trống lớn được vỗ lên trong khi bậc Lãnh Đạo Thế Gian đang đi. Hào quang của Ngài tỏa ra tợ như ánh mặt trời đã mọc lên cao.
  30. Do ánh hào quang đã đi vào dầu chỉ bằng cánh cửa sổ, ở trong gian nhà ngay lập tức đã có ánh sáng vô cùng bao la.
  31. Sau khi nhìn thấy ánh hào quang của đức Phật, tôi đã nói với đám đông rằng: “Chắc chắn rằng đức Phật tối thượng đã đi đến con đường này.”
  32. Tôi đã cấp tốc bước xuống khỏi tòa nhà và đã đi đến khu phố chợ. Tôi đã đảnh lễ bậc Toàn Giác và đã nói lời nói này:
  33. Xin đức Phật đấng Lãnh Đạo Padumuttara hãy thương tưởng đến con.” Bậc Hiền Trí ấy đã nhận lời cùng với một trăm ngàn vị có năng lực.
  34. Sau khi thỉnh mời, tôi đã hướng dẫn bậc Toàn Giác đi đến ngôi nhà của mình. Tại nơi ấy, tôi đã làm toại ý bậc Đại Hiền Trí với cơm ăn và nước uống.
  35. Biết được thời điểm đã thọ thực xong của đức Phật tối thượng như thế ấy, tôi đã phục vụ đức Phật tối thượng bằng một trăm khúc tấu nhạc.
  36. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đã ngồi xuống ở trong nhà và đã nói lên những lời kệ này:
  37. Người nào đã phục vụ Ta bằng các khúc tấu nhạc và đã dâng cúng ta cơm ăn nước uống, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.
  38. Sau khi đã có dồi dào về lương thực, với vàng, với thức ăn, người nam này sẽ cho thực hiện bốn châu lục thành một vương quốc.
  39. (Người này) sẽ thọ trì năm giới cấm và sau đó là mười đường lối về (thiện) nghiệp. Sau khi thọ trì và trong lúc hành theo, người này sẽ chỉ dạy hội chúng.
  40. Một trăm ngàn nữ nhân được trang điểm sẽ thường xuyên trình tấu nhạc cụ cho người này; điều này là quả báu của việc phục vụ.
  41. (Người này) sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong ba mươi ngàn kiếp, và sẽ là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc sáu mươi bốn lần.
  42. Và (người này) sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương sáu mươi bốn lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
  43. Vào một trăm ngàn kiếp (về sau này), bậc Đạo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
  44. (Người này) sẽ sanh vào bản thể Thiên nhân hay loài người. Người này sẽ có của cải không bị thiếu hụt và sẽ đi đến bản thể loài người.
  45. Sau khi trở thành vị giảng huấn, thông suốt ba tập Vệ-đà, trong lúc tầm cầu mục đích tối thượng, (người này) sẽ đi đó đây ở trái đất này.
  46. Về sau, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, người này sẽ xuất gia và sẽ thỏa thích trong Giáo Pháp của đức Thế Tôn Gotama.
  47. Người này sẽ làm hài lòng đấng Toàn Giác Gotama bậc cao quý dòng Sakya, sẽ thiêu đốt các phiền não, và sẽ trở thành vị A-la-hán.”
  48. Giờ đây, tôi sống trong Giáo Pháp của người con trai dòng Sakya không bị hãi sợ, tợ như con cọp chúa ở trong rừng, như là con sư tử vua của loài thú.
  49. Tôi không nhìn thấy sự tái sanh của tôi ở thế giới chư Thiên hoặc ở loài người, ở nơi nghèo khó hoặc ở vào khổ cảnh; điều này là quả báu của việc phục vụ.
  50. Tôi đã được gắn liền với sự độc cư, được an tịnh, không còn mầm mống tái sanh. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  51. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  52. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  53. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Jatukaṇṇi đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Jatukaṇṇi là phần thứ chín.

 

–ooOo–

 

410. Ký Sự về Trưởng Lão Udena

  1. Ở không xa núi Hi-mã-lạp, có ngọn núi tên là Paduma, có khu ẩn cư của tôi đã khéo được xây dựng, có gian nhà rộng bằng lá đã khéo được tạo lập.
  2. Các con sông chảy qua nơi ấy có những bến nước cạn xinh xắn làm thích ý. Các con sông luôn luôn có nước trong, có nước mát, xinh đẹp.
  3. Có các loài cá như là cá pāṭhīna, cá pāvusa, cá valaja, cá muñja, và cá rohita. Những loài cá này thường xuyên sống ở dòng sông, đồng thời làm cho các con sông trở nên rực rỡ.
  4. (Các con sông) được che phủ bởi các cây xoài và cây mận. Tương tợ như thế, có các cây bông hường, cây tilaka, cây bả đậu, cây hoa kèn làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  5. Các cây aṅkolaka, cây bimbijāla, và cây māyākārī được trổ hoa, trong khi tỏa ra hương thơm chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  6. Các cây atimutta, cây sattalika, cây nāga, và cây sālā được trổ hoa, trong khi tỏa ra hương thơm của cõi trời chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  7. Các cây kosamba, cây salala, cây nīpa, và cây aṭṭhaṅga khéo được trổ hoa, trong khi tỏa ra hương thơm của cõi trời chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  8. Ở khu ẩn cư có nhiều loại trái cây như trái harītaka, trái āmalaka, trái xoài, trái mận đỏ, trái vibhīṭaka, trái táo, trái bhallātaka, và trái billa.
  9. Tại nơi ấy, ở khu ẩn cư của tôi các cây kalamba, cây kandalī trổ hoa, trong khi tỏa ra hương thơm của cõi trời chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  10. Các cây asokapiṇḍī, cây varī, và cây nimba được trổ hoa, trong khi tỏa ra hương thơm của cõi trời chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  11. Các cây punnāga, cây giripunnāga, cây timira ở tại nơi ấy được trổ hoa, trong khi tỏa ra hương thơm của cõi trời chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  12. Các cây nigguṇḍī, cây sirinigguṇḍī, cây campa ở tại nơi này được trổ hoa, trong khi tỏa ra hương thơm của cõi trời chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  13. Không xa có cái hồ nước được líu lo bởi loài ngỗng đỏ, được che phủ bởi các cây mạn-đà-la, bởi các bông sen xanh và các bông sen đỏ.
  14. Có bến nước cạn xinh xắn làm thích ý, có nước trong, có nước mát, trong vắt tương tợ ngọc pha-lê, (cái hồ nước) làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  15. Ở tại nơi ấy, có các bông sen xanh, các bông sen trắng, và các bông sen đỏ nở rộ. Được che phủ bởi các cây mạn-đà-la, (cái hồ nước) làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  16. Có các loại cá như là cá pāṭhīna, cá pāvusa, cá valaja, cá muñja, cá rohita. Và trong khi thơ thẩn ở tại nơi ấy, chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  17. Có các con cá sấu kumbhīla, cá sấu suṃsumāra, các con rùa, các con gaha, các con rắn, và các con mãng xà làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  18. Và ở tại nơi ấy có các loài sống ở sông như chim bồ câu, ngỗng trời, ngỗng đỏ, chim le le, chim sáo, chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  19. Các cây nayita, cây ambagandhī, và cây dừa dại ở tại nơi ấy được trổ hoa, trong khi tỏa ra hương thơm của cõi trời chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  20. Có các con sư tử, cọp, báo, gấu, chó sói, và linh cẩu, trong khi đi lang thang ở khu rừng bao la chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  21. Có các vị (đạo sĩ) mang các búi tóc, có y choàng là tấm da dê, trong khi đi lang thang ở khu rừng bao la các vị làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  22. Các vị này mặc các tấm da dê, cẩn trọng, có hành vi thanh tịnh, có hành trang ít ỏi, tất cả các vị ấy làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  23. Lúc bấy giờ, các vị đã cầm lấy túi vật dụng rồi đi sâu vào rừng. Trong khi thọ thực các rễ và trái cây, các vị thường xuyên sống ở khu ẩn cư.
  24. Các vị ấy không đem lại củi (và) nước rửa chân. Do năng lực của tất cả các vị (các vật dụng) được tự chúng mang lại.
  25. Có tám mươi bốn ngàn vị ẩn sĩ đã tụ hội ở tại nơi này. Tất cả các vị này là các vị tầm cầu mục đích tối thượng, có thiền chứng.
  26. Là các đạo sĩ khổ hạnh, có sự hành trì Phạm hạnh, đang năng nổ trong việc duy trì sự nhập định, có sự di chuyển ở không trung, tất cả các vị thường xuyên sống ở khu ẩn cư.
  27. Mỗi năm ngày, các vị tụ hội lại, có sự chăm chú, có hành vi thanh tịnh. Sau khi đảnh lễ lẫn nhau, các vị ra đi bằng hướng đối nghịch.
  28. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara là bậc thông suốt về tất cả các pháp. Trong khi hủy diệt điều tăm tối ấy, đấng Chiến Thắng đã tức thời hiện khởi.
  29. Ở lân cận khu ẩn cư của tôi có con Dạ-xoa có đại thần lực. Khi ấy, nó đã thông báo cho tôi về đấng Toàn Giác bậc Lãnh Đạo Padumuttara rằng:
  30. Thưa ngài, đức Phật bậc Đại Hiền Trí Padumuttara này đã xuất hiện. Ngài hãy mau đi đến và phục vụ bậc Toàn Giác.”
  31. Sau khi lắng nghe lời nói của con Dạ-xoa, khi ấy với tâm ý trong sạch, tôi đã xếp đặt lại khu ẩn cư và đã lìa khỏi khu rừng.
  32. Như là mảnh vải đang bốc cháy, sau khi lìa khỏi khu ẩn cư tôi đã trú ngụ (chỉ) một đêm và đã đi đến gặp đấng Hướng Đạo.
  33. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, trong khi công bố về bốn Sự Thật đã thuyết giảng về vị thế Bất Tử.
  34. Sau khi cầm lấy đóa sen khéo được nở rộ, tôi đã đi đến gần bậc Đại Ẩn Sĩ. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng lên đức Phật.
  35. Sau khi cúng dường bậc Toàn Giác, đấng Lãnh Đạo Padumuttara, tôi đã khoác tấm da dê một bên vai rồi đã ngợi ca đấng Lãnh Đạo Thế Gian rằng:
  36. Đấng Toàn Giác bậc không còn lậu hoặc sống ở thế gian này với trí tuệ nào, tôi sẽ tán dương trí tuệ ấy. Xin các người hãy lắng nghe tôi nói.
  37. Sau khi cắt đứt dòng chảy luân hồi, Ngài đã giúp cho tất cả chúng sanh vượt qua. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của Ngài, họ vượt qua dòng chảy ái dục.
  38. Bạch đấng Tối Thượng của loài người, Ngài là bậc thầy, là biểu hiệu, là ngọn cờ, là mục đích tối cao, là nơi nương tựa, là sự nâng đỡ, là ngọn đèn của chúng sanh.
  39. Bạch đấng Toàn Tri, cho đến những người được gọi là các bậc Xa Phu có đồ chúng ở trên thế gian, Ngài là đấng Cao Cả, tất cả những người ấy đều được gộp chung lại ở Ngài.
  40. Bạch đấng Toàn Tri, bằng trí tuệ của Ngài, Ngài đã giúp cho nhiều người vượt qua. Sau khi đi đến diện kiến Ngài, họ sẽ được chấm dứt khổ đau.
  41. Bạch đấng Hữu Nhãn, bạch đấng Đại Hiền Trí, những hương thơm nào đã được sanh lên và tỏa ra ở thế gian, không có gì sánh bằng hương thơm ở Phước Điền của Ngài.
  42. Bạch đấng Hữu Nhãn, Ngài giúp cho thoát khỏi sự sanh vào loài thú, địa ngục. Bạch đấng Đại Hiền Trí, Ngài giảng giải về Đạo Lộ an tịnh, không còn tạo tác.”
  43. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đã ngồi xuống ở hội chúng tỳ khưu và đã nói lên những lời kệ này:
  44. Người nào được tịnh tín đã tự tay mình cúng dường trí tuệ của Ta, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.
  45. Người này sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong ba mươi ngàn kiếp, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương một ngàn lần.”
  46. Tôi đã nhận lãnh điều lợi ích đã được đạt thành một cách tốt đẹp. Sau khi làm hài lòng bậc có sự hành trì tốt đẹp, sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, tôi sống không còn lậu hoặc.
  47. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  48. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  49. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Udena đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Udena là phần thứ mười.

–ooOoo–

Phần Tóm Lược

Vị trưởng lão Metteyya, vị Puṇṇaka, vị Mettagū, luôn cả vị Dhotaka, vị Upasīva, vị Nanda, và vị Hemaka là vị thứ bảy ở nơi ấy, vị Todeyya, vị Jatukaṇṇī, và vị Udeno có danh vọng lớn lao. Ở đây là ba trăm câu kệ và thêm vào tám mươi ba câu.

Phẩm Metteyya là phẩm thứ bốn mươi mốt.

–ooOoo–

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Thánh Nhân Ký Sự Tập II“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Thánh Nhân Ký Sự Tập II” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *