THÁNH NHÂN KÝ SỰ II

PHẨM BHADDĀLI

411. Ký Sự về Trưởng Lão Bhaddāli

  1. Bậc Toàn Giác tên Sumedha, đấng Bi Mẫn cao cả, vị Hiền Trí, bậc Cao Cả của thế gian có ước muốn độc cư nên đã đi đến núi Hi-mã-lạp.
  2. Sau khi đi sâu vào núi Hi-mã-lạp, đấng Lãnh Đạo Thế Gian, bậc Tối Thượng Nhân Sumedha đã xếp chân kiết già rồi ngồi xuống.
  3. Đấng Lãnh Đạo Thế Gian Sumedha ấy đã thể nhập vào định. Đức Phật bậc Tối Thượng Nhân đã ngồi bảy ngày đêm.
  4. Tôi đã cầm lấy túi vật dụng rồi đã đi sâu vào khu rừng. Tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy đấng Toàn Giác, bậc đã vượt qua dòng nước lũ, không còn lậu hoặc.
  5. Khi ấy, tôi đã cầm lấy cây chổi và đã quét khu ẩn cư. Sau khi dựng lên bốn cây cọc, tôi đã tạo nên cái mái che.
  6. Sau khi mang lại bông hoa sālā, tôi đã che phủ mái che. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã đảnh lễ đức Như Lai.
  7. Người ta nói về bậc thông thái có trí tuệ bao la là “Sumedha.” Ngài đã ngồi xuống ở hội chúng tỳ khưu và đã nói lên những lời kệ này.
  8. Nhận biết lời nói của đức Phật, tất cả chư Thiên đã tụ hội lại. Quả nhiên, đức Phật tối thượng bậc Hữu Nhãn (đã) thuyết giảng Giáo Pháp.
  9. Đấng Toàn Giác tên Sumedha, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đã ngồi xuống ở hội chúng chư Thiên và đã nói lên những lời kệ này:
  10. Người nào đã duy trì mái che được che phủ bằng bông hoa sālā cho Ta suốt bảy ngày, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.
  11. Dầu trở thành vị Thiên nhân hay nhân loại, (người này) sẽ có làn da màu vàng chói, sẽ có của cải dồi dào, sẽ có sự thọ hưởng các dục lạc.
  12. Sáu mươi ngàn con voi loài long tượng được trang hoàng với tất cả các loại trang sức, có chuông vàng, có trang phục yên cương bằng vàng.
  13. Được cỡi bởi các vị trưởng làng có các bàn tay cầm giáo và móc câu, chúng sẽ đi đến phục vụ người nam này sáng chiều. Được hộ tống bởi những con long tượng ấy, người nam này sẽ vui sướng.
  14. Sáu mươi ngàn con ngựa dòng Sindhu với sự sanh ra được thuần chủng, là phương tiện vận chuyển nhanh chóng, được trang hoàng với tất cả các loại trang sức.
  15. Được cỡi bởi các vị trưởng làng có mang cung với gươm, chúng sẽ thường xuyên hộ tống tôi; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  16. Sáu mươi ngàn cỗ xe được trang hoàng với tất cả các loại trang sức, có các mảnh da báo và cả da hổ được bày biện, có các ngọn cờ được giương cao.
  17. Được cỡi bởi các vị trưởng làng có các tay cầm cung mang áo giáp, chúng sẽ thường xuyên hộ tống tôi; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  18. Sẽ luôn luôn hiện hữu sáu mươi ngàn ngôi làng có đầy đủ tất cả, có tài sản và lúa gạo dồi dào, được thành công tốt đẹp về mọi mặt; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  19. Các con voi, các con ngựa, các cỗ xe, các binh lính và quân đội gồm bốn binh chủng sẽ thường xuyên hộ tống người này; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  20. (Người này) sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong một ngàn tám trăm kiếp, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương một ngàn lần.
  21. Và (người này) sẽ cai quản Thiên quốc ba trăm lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
  22. Vào ba mươi ngàn kiếp (về sau này), bậc Đạo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
  23. Là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, (người này) sẽ biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc và sẽ sống không còn lậu hoặc.
  24. Tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian cách đây ba mươi ngàn kiếp, trong khoảng thời gian này tôi đã tầm cầu vị thế Bất Tử.
  25. Điều lợi ích cho tôi đã được tôi đạt thành một cách tốt đẹp là tôi đã hiểu được Giáo Pháp, tam minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.
  26. Bạch đấng Siêu Nhân, con kính lễ Ngài! Bạch đấng Tối Thượng Nhân, con kính lễ Ngài! Sau khi tán dương trí tuệ của Ngài, con đã đạt được vị thế Bất Động.
  27. Nơi chốn nào tôi đi tái sanh dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, tôi đều được sung sướng ở tất cả các nơi, là quả báu của tôi về việc tán dương trí tuệ.
  28. Lần sau cùng này của tôi là sự hiện hữu cuối cùng trong sự luân chuyển. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  29. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  30. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  31. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Bhaddāli đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Bhaddāli là phần thứ nhất.

 

–ooOoo–

 

412. Ký Sự về Trưởng Lão Ekachattiya

  1. Ở bờ sông Candabhāgā có khu ẩn cư của tôi đã khéo được xây dựng, có gian nhà rộng bằng lá được rải cát vô cùng tinh khiết đã khéo được tạo lập.
  2. Con sông nhỏ có bờ nước lúp xúp, có bãi nước cạn xinh xắn làm thích ý, có đủ các loài cá và rùa, được loài cá sấu lai vãng.
  3. Có các con gấu, công, báo, chim cu rừng, và chim sáo. Chúng hót líu lo vào mọi lúc, làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  4. Có các chim cu cu có âm giọng lôi cuốn và các con thiên nga có âm điệu ngọt ngào. Chúng hót líu lo tại nơi ấy, làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  5. Có các con sư tử, cọp, heo rừng, chó sói, chó rừng, và linh cẩu. Chúng gầm rú ở nơi hiểm trở của ngọn núi, làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  6. Có các con linh dương, nai, chó rừng, lợn rừng. Nhiều con gầm rú ở nơi hiểm trở của ngọn núi, làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  7. Có các loại cây uddālaka, cây campaka, cây pāṭalī, cây sindu-vāraka, cây atimutta, và cây asoka nở rộ hoa ở khu ẩn cư của tôi.
  8. Có các loại cây aṅkola, cây yūthika, luôn cả cây sattalī, cây bimbijālika, cây kaṇṇika, và cây kaṇikāra nở rộ hoa ở khu ẩn cư của tôi.
  9. Có các loại cây nāga, cây sālā, cây saḷala, cây sen trắng được trổ hoa ở nơi đây. Trong khi tỏa ra hương thơm của cõi trời, chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  10. Có các loại cây ajjuna, cây asana, và cây mahānāma được trổ hoa ở nơi đây, có các cây sālā và các bông hoa của cây kê làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  11. Có các cây xoài, cây mận đỏ, cây tilaka, cây nimba, và cây sālakalyāṇī, trong khi tỏa ra hương thơm của cõi trời chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  12. Có các loại cây asoka, cây kapittha, và cây bhaginimāla được trổ hoa ở nơi đây, trong khi tỏa ra hương thơm của cõi trời chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  13. Các loại cây kadamba, luôn cả các cây chuối, và cây isimugga đã được gieo trồng, chúng thường xuyên trĩu nặng những trái làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  14. Có những loại cây có trái như cây harītaka, cây āmalaka, cây xoài, cây mận đỏ, câyvibhītaka, cây táo, cây bhallātaka, và cây billa ở khu ẩn cư của tôi.
  15. Không xa có cái hồ nước khéo được thiết lập làm thích ý, được che phủ bởi các cây mạn-đà-la, bởi các bông sen đỏ và các bông sen xanh.
  16. Có những đóa sen đỏ đang tượng hình, các đóa hoa khác nở hoa có tua nhụy, luôn cả các đóa có các cánh hoa rủ xuống, chúng nở hoa ở khu ẩn cư của tôi.
  17. Có các loại cá như là cá pāṭhīna, cá pāvusa, cá valaja, cá muñja, cá rohita. Trong khi thơ thẩn ở làn nước trong, chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  18. Có mùi thơm của xoài được thoảng qua và có các cây dứa dại ở dọc bờ sông. Trong khi tỏa ra hương thơm của cõi trời, chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  19. Có mật tiết ra từ củ sen, có sữa và bơ lỏng từ các rễ và ngó sen. Trong khi tỏa ra hương thơm của cõi trời, chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  20. Ở nơi ấy có cát sáng chói được trải ra và được ve vãn bởi làn nước với các bông hoa tàn đã được nở rộ giờ yên nghỉ, chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  21. Các vị (đạo sĩ) mang búi tóc rối, có y choàng là tấm da dê, tất cả đều mặc y phục bằng vỏ cây, họ làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  22. Và (các vị ấy) nhìn với khoảng cách của cán cày, cẩn trọng, có hành vi thanh tịnh, không mong mỏi về sự thọ hưởng các dục lạc, sống ở khu ẩn cư của tôi.
  23. Tất cả các vị có (lông) nách, móng tay chân, và các lông được mọc dài, có răng bẩn, có đầu lấm bụi, mang bụi dơ (ở thân), sống ở khu ẩn cư của tôi.
  24. Và các vị ấy đã đạt đến sự toàn hảo về các thắng trí, có sự di chuyển ở không trung. Trong khi bay lên bầu trời, các vị này làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.
  25. Khi ấy, được tùy tùng bởi những người học trò ấy, tôi sống ở khu rừng. Luôn luôn thể nhập vào thiền, tôi không biết đến ngày và đêm.
  26. Vào thời điểm ấy, đức Thế Tôn, bậc Đại Hiền Trí, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Atthadassī, trong khi xua đi điều tăm tối ấy đã hiện khởi.
  27. Rối có người học trò nọ đã đi đến gặp tôi. Người ấy có ý định học về các chú thuật và sáu phần về danh hiệu và tướng số (và đã nói rằng):
  28. Đức Phật, bậc Đại Hiền Trí Atthadassī đã xuất hiện ở thế gian. Trong khi công bố về bốn Sự Thật, Ngài thuyết giảng về vị thế Bất Tử.”
  29. Được hớn hở vui mừng hoan hỷ, có khuynh hướng đi đến với Giáo Pháp, tôi đã rời khỏi khu ẩn cư và đã nói lời nói này:
  30. Đức Phật có ba mươi hai hảo tướng đã xuất hiện ở thế gian. Các người hãy đi đến, tất cả chúng ta sẽ đi gặp đấng Chánh Đẳng Giác.
  31. Là những người tầm cầu mục đích tối thượng, có sự đáp ứng theo lời giáo huấn, đã hướng đến sự toàn hảo trong Chánh Pháp, các vị ấy đã đồng ý rằng: “Lành thay!
  32. Khi ấy, trong lúc tầm cầu mục đích tối thượng, các vị (đạo sĩ) mang các búi tóc ấy, có y choàng là tấm da dê, đã rời khỏi khu rừng.
  33. Vào thời điểm ấy, đức Thế Tôn Atthadassī vị có danh tiếng lớn lao trong khi công bố về bốn Sự Thật, Ngài thuyết giảng về vị thế Bất Tử.
  34. Tôi đã cầm lấy chiếc lọng màu trắng và đã che cho đức Phật tối thượng. Sau khi nắm giữ (chiếc lọng) trong một ngày, tôi đã đảnh lễ đức Phật tối thượng.
  35. Kế đó, đức Thế Tôn, đấng Trưởng Thượng của thế gian, bậc Nhân Ngưu Atthadassī đã ngồi xuống ở hội chúng tỳ khưu và đã nói lên những lời kệ này:
  36. Người nào được tịnh tín nắm giữ chiếc lọng (che) cho Ta bằng các bàn tay của mình, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.
  37. Khi người này được sanh lên, ở bản thể Thiên nhân hay nhân loại, sẽ có chiếc lọng luôn luôn che cho người này; điều này là quả báu của việc dâng cúng chiếc lọng.
  38. Người này sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong bảy mươi bảy kiếp, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương một ngàn lần.
  39. Và sẽ trở thành vị Thiên Vương bảy mươi bảy lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
  40. Vào một ngàn tám trăm kiếp, bậc Hữu Nhãn Gotama, đấng cao quý dòng Sakya, trong khi xua đi điều tăm tối ấy, sẽ hiện khởi.
  41. Là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, (người này) sẽ biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc và sẽ sống không còn lậu hoặc.”
  42. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm là đã nắm giữ chiếc lọng (che) cho đức Phật, trong khoảng thời gian này, tôi không biết đến việc không được che bởi chiếc lọng trắng
  43. Lần sau cùng này của tôi là sự hiện hữu cuối cùng trong sự luân chuyển. Việc nắm giữ chiếc lọng được vận hành liên tục đến tận ngày hôm nay.
  44. Ôi, việc làm đã được tôi khéo thực hiện đến (đức Phật) Atthadassī như thế ấy. Tôi đã được đoạn tận tất cả các lậu hoặc, giờ đây không còn tái sanh nữa.
  45. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  46. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  47. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ekachattiya[7] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ekachattiya là phần thứ nhì.

 

–ooOoo–

 

413. Ký Sự về Trưởng Lão Tiṇasūlakachadaniya

  1. Lúc bấy giờ, tôi đã suy xét về sự sanh, sự già, và sự chết. Sau khi lìa khỏi sự sống chung, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình.
  2. Trong khi tuần tự du hành, tôi đã đi đến bờ sông Gaṅgā. Ở tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy khoảnh đất nổi cao lên ở bờ sông Gaṅgā.
  3. Sau khi tạo lập khu ẩn cư ở tại nơi ấy, tôi sống ở khu ẩn cư. Đường kinh hành của tôi đã khéo được thực hiện, được lai vãng bởi các bầy chim khác loại.
  4. Chúng đến gần tôi, và trở nên quen thuộc. Và chúng hót líu lo một cách quyến rũ. Trong khi đùa vui với chúng, tôi sống ở khu ẩn cư.
  5. Ở lân cận khu ẩn cư của tôi, có con sư tử (vua của loài thú) đi khắp bốn phương. Sau khi rời khỏi chỗ trú ẩn, nó đã gầm lên như là tiếng sấm.
  6. Và khi con nai chúa gào thét, nụ cười đã xuất hiện ở tôi. Trong lúc tìm kiếm con nai chúa, tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
  7. Sau khi nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian Tissa, vị Trời của chư Thiên, tôi đã trở nên mừng rỡ. Với tâm mừng rỡ tôi đã cúng dường nhụy bông hoa nāga.
  8. Tôi đã ca tụng đấng Lãnh Đạo Thế Gian như là mặt trời đang mọc lên, như là cây sālāchúa đã được trổ hoa, như là vì sao osadhī đang chiếu sáng.
  9. Bạch đấng Toàn Tri, Ngài đã giải thoát thế gian này luôn cả chư Thiên bằng trí tuệ của Ngài. Sau khi làm cho Ngài hài lòng, (chúng sanh) được hoàn toàn giải thoát khỏi sự sanh.
  10. Bạch đấng Toàn Tri, do sự không nhìn thấy chư Phật là các vị có sự nhìn thấy tất cả, (chúng sanh) bị xâm chiếm bởi ái dục sân hận (rồi) rơi vào địa ngục Vô Gián.
  11. Bạch đấng Toàn Tri, bạch đấng Lãnh Đạo Thế Gian, sau khi đi đến diện kiến Ngài, tất cả được giải thoát khỏi hữu (và) chạm đến Đạo Lộ Bất Tử.
  12. Khi chư Phật, các bậc Hữu Nhãn, các đấng Phát Quang xuất hiện, sau khi thiêu đốt các phiền não các Ngài thị hiện ánh sáng.”
  13. Sau khi tán dương đấng Toàn Giác Tissa, bậc Lãnh Đạo cao cả của thế gian, tôi đã trở nên mừng rỡ. Với tâm mừng rỡ tôi đã cúng dường hoa tiṇasūla.
  14. Sau khi biết được ý định của tôi, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Tissa đã ngồi xuống chỗ ngồi của mình rồi đã nói lên những lời kệ này:
  15. Người nào được tịnh tín tự tay mình che phủ Ta bằng các bông hoa, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.
  16. Người ấy sẽ cai quản Thiên quốc hai mươi lăm lần, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương bảy mươi lăm lần.
  17. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm. Và (đó là) kết quả về hành động của người ấy do sự cúng dường các bông hoa.
  18. Và người nam này, được gắn liền với nghiệp phước thiện, khi đã gội đầu xong nếu ao ước về bông hoa, (bông hoa) sẽ hiện ra ở phía trước.
  19. (Nếu người này) ước muốn bất cứ điều gì với các dục, chính điều ấy sẽ hiện ra. Sau khi làm tròn đủ ý định, (người này) sẽ Niết Bàn không còn lậu hoặc.”

( Tụng phẩm thứ mười tám).

  1. Có sự nhận biết mình, có niệm (đầy đủ), tôi đã thiêu đốt các phiền não. Tôi đã ngồi ở ngay chỗ ngồi ấy và đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
  2. Trong khi đi kinh hành, trong khi nằm, trong khi ngồi, hay trong khi đứng, tôi sống thường xuyên tưởng nhớ đến đức Phật tối thượng.
  3. Ở tại nơi ấy, tôi không có sự thiếu hụt về y phục, vật thực, thuốc men, và chỗ nằm ngồi; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  4. Bây giờ, tôi đây đã đạt đến vị thế Bất Tử, thanh tịnh, vô thượng. Sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, tôi sống không còn lậu hoặc.
  5. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  6. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  7. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  8. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Tiṇasūlakachadaniya[8] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Tiṇasulakachadaniya là phần thứ ba.

 

–ooOoo–

 

414. Ký Sự về Trưởng Lão Madhumaṃsadāyaka

  1. Tôi đã là người bán thịt heo ở thành phố Bandhumatī. Sau khi nấu chín phổi và lòng, tôi trộn chung vào món thịt ngọt.
  2. Tôi đã đi đến nơi tụ hội (của các vị tỳ khưu) và đã nhận lấy một bình bát. Sau khi chứa đầy bình bát ấy, tôi đã dâng lên hội chúng tỳ khưu.
  3. Khi ấy, vị tỳ khưu trưởng lão lớn nhất tại nơi ấy đã chúc phúc cho tôi rằng: “Với sự đầy đặn của bình bát này, mong rằng con sẽ đạt được sự an lạc sung mãn.
  4. Được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, con sẽ thọ hưởng hai sự thành tựu (trời người), trong khi kiếp cuối cùng đang hiện hữu con sẽ thiêu đốt các phiền não.
  5. Tại đó, sau khi làm cho tâm được tịnh tín, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi. Tại nơi ấy, tôi có thức ăn, tôi có nước uống, và tôi đạt được sự an lạc sung mãn.
  6. Khi ở mái che hoặc ở gốc cây, tôi đã nhớ lại việc làm trước đây. Ngay lập tức có trận mưa về cơm ăn và nước uống đổ mưa xuống cho tôi.
  7. Lần sau cùng này của tôi là sự hiện hữu cuối cùng trong sự luân chuyển. Ngay cả ở đây, cơm ăn và nước uống đổ mưa xuống cho tôi trong mọi thời điểm.
  8. Do chính sự dâng cúng thịt ấy, sau khi trải qua các kiếp sống, sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, tôi sống không còn lậu hoặc.
  9. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng thịt ngọt.
  10. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  11. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  12. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 Đại đức trưởng lão Madhumaṃsadāyaka[9] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Madhumaṃsadāyaka là phần thứ tư.

 

–ooOoo–

 

415. Ký Sự về Trưởng Lão Nāgapallavaka

  1. Tôi (đã) sống ở vườn thượng uyển của thành phố Bandhumatī. Đấng Lãnh Đạo Thế Gian đã ngồi xuống ở gần nơi khu ẩn cư của tôi.
  2. Tôi đã cầm lấy chồi non của cây nāga và đã dâng lên đức Phật. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã đảnh lễ đấng Thiện Thệ.
  3. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường chồi non trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  4. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  5. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  6. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Nāgapallavaka[10] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Nāgapallavaka là phần thứ năm.

 

–ooOoo–

 

416. Ký Sự về Trưởng Lão Ekadīpiya

  1. Khi bậc Thiện Thệ, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Siddhattha viên tịch Niết Bàn, tất cả chư Thiên cùng nhân loại đã cúng dường đến bậc Tối Thượng Nhân.
  2. Và khi đấng Lãnh Đạo Thế Gian Siddhattha được đưa lên giàn hỏa thiêu, mọi người cúng dường lễ hỏa táng của bậc Đạo Sư tùy theo năng lực của mình.
  3. Tôi đã thắp lên ngọn đèn ở không xa giàn hỏa thiêu cho đến khi mặt trời mọc lên. Ngọn đèn đã chiếu sáng đến tôi.
  4. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
  5. Tại nơi ấy, có cung điện đã khéo được kiến tạo dành cho tôi được biết tên là “Ekadīpi.” Có một trăm ngàn ngọn đèn đã cháy sáng ở cung điện của tôi.
  6. Thân hình của tôi luôn luôn chiếu sáng tợ như mặt trời đang mọc lên. Với tất cả các hào quang của cơ thể, tôi luôn luôn có được ánh sáng.
  7. Bằng mắt, sau khi đã vượt lên ngọn núi, xuyên qua bức tường, xuyên qua tảng đá, tôi (có thể) nhìn thấy xung quanh một trăm do-tuần.
  8. Tôi đã sướng vui ở thế giới chư Thiên bảy mươi bảy lần. Và tôi đã cai quản Thiên quốc ba mươi mốt lần.
  9. Và tôi đã trở thành đấng Chuyển Luân Vương hai mươi tám lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
  10. Sau khi mệnh chung từ thế giới chư Thiên, tôi đã tái sanh vào bụng mẹ. Ngay cả khi đi vào bụng mẹ, mắt của tôi không nhắm lại.
  11. Bốn tuổi tính từ khi sanh, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình. Chưa đầy nửa tháng, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
  12. Tôi đã làm cho Thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các hữu đã được xóa sạch, tất cả phiền não đã được cắt lìa; điều này là quả báu của một ngọn đèn.
  13. Tôi (có thể) nhìn thấy sau khi đã vượt lên thậm chí toàn bộ ngọn núi, xuyên qua bức tường, xuyên qua tảng đá; điều này là quả báu của một ngọn đèn.
  14. Đối với tôi các sự gập ghềnh trở thành bằng phẳng, bóng đen không được biết đến, tôi không nhìn thấy sự tăm tối; điều này là quả báu của một ngọn đèn.
  15. Kể từ khi tôi đã dâng cúng cây đèn trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của một ngọn đèn.
  16. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  17. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  18. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ekadīpiya[11] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ekadīpiya là phần thứ sáu.

 

–ooOoo–

 

417. Ký Sự về Trưởng Lão Ucchaṅgapupphiya

  1. Tôi đã là người làm tràng hoa ở thành phố Bandhumatī. Sau khi chất đầy ở bên hông, tôi đã đi đến khu phố chợ.
  2. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đấng Lãnh Đạo Thế Gian, với năng lực lớn lao, dẫn đầu hội chúng tỳ khưu đi ra.
  3. Sau khi nhìn thấy đấng Quang Đăng của thế gian Vipassī, vị giúp cho thế gian vượt qua, tôi đã lấy ra bông hoa từ bên hông và đã cúng dường đến đức Phật tối thượng.
  4. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  5. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  6. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  7. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ucchaṅgapupphiya[12] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ucchaṅgapupphiya là phần thứ bảy.

 

–ooOo–

 

418. Ký Sự về Trưởng Lão Yāgudāyaka

 

  1. Lúc bấy giờ, sau khi tiếp đãi người khách của tôi, tôi đã đi đến ngôi làng nhỏ. Sau khi nhìn thấy con sông bị tràn ngập, tôi đã đi đến tu viện của hội chúng.
  2. Là những vị chuyên sống ở rừng, thông thạo pháp giũ bỏ (đầu đà), chứng thiền, mặc y thô, thỏa thích sự độc cư, các vị trí tuệ ấy sống ở tu viện của hội chúng.
  3. Sự đi lại của các vị đã được giải thoát tốt đẹp như thế ấy là bị gián đoạn. Các vị ấy không đi để khất thực chính vì dòng sông ngăn trở.
  4. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tràn đầy niềm phấn khởi, tôi đã chắp tay lên. Tôi đã lấy gạo của tôi rồi đã dâng cúng vật thí là cháo.
  5. Được tịnh tín, tôi đã tự tay mình dâng cúng cháo đến năm vị. Được hài lòng với việc làm của chính mình, tôi đã đi đến cõi Đạo Lợi.
  6. Và có cung điện làm bằng ngọc ma-ni dành cho tôi được tạo ra ở hội chúng Tam Thập. Được gần gũi với đám nữ nhân, tôi vui thích ở cung điện tuyệt vời.
  7. Tôi đã là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc ba mươi ba lần. Tôi đã là đấng Chuyển Luân Vương cai quản lãnh thổ rộng lớn ba mươi lần.
  8. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm. Ở thế giới chư Thiên hoặc ở loài người, tôi đều thọ hưởng danh vọng.
  9. Khi đạt đến cuộc sống cuối cùng, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình. Khi tóc được cạo bỏ, tôi đã thấu triệt tất cả.
  10. Trong khi biết chắc rằng thân thể là sự suy tàn hoặc là sự hoại diệt cũng thế, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán trước việc thọ trì điều học.
  11. Sự bố thí cao quý của tôi đã được bố thí tốt đẹp, việc đổi trao đã được gắn liền tốt đẹp. Do chính việc dâng cúng cháo ấy, tôi đã đạt đến vị thế Bất Động.
  12. Tôi không biết đến sự sầu muộn, sự than vãn, sự bệnh tật, sự lo lắng, sự bực bội của tâm đã được sanh khởi; điều này là quả báu của việc dâng cúng cháo.
  13. Sau khi dâng cúng cháo ở Phước Điền vô thượng của hội chúng, tôi thọ hưởng năm điều lợi ích. Ôi tính chất đã được hiến dâng tốt đẹp của món cháo!
  14. Sự không bị bệnh, có sắc đẹp, chuyên chú vào Giáo Pháp, đạt được cơm nước, tuổi thọ là điều (lợi ích) thứ năm đối với tôi.
  15. Bất cứ người nào trong khi sanh khởi niềm phấn khởi, người ấy nên dâng cúng cháo đến hội chúng. Là bậc trí tuệ, (người ấy) có thể nhận lãnh năm điều này.[13]
  16. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây ba mươi ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng cháo.
  17. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  18. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  19. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Yāgudāyaka[14] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Yāgudāyaka là phần thứ tám.

 

–ooOo–

 

419. Ký Sự về Trưởng Lão Patthodanadāyaka

  1. Trước đây, tôi đã là người đi rừng, thường xuyên làm việc ở trong rừng. Sau khi cầm lấy gói cơm, tôi đã đi làm công việc.
  2. Ở nơi ấy, tôi đã nhìn thấy bậc Toàn Giác, đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại. Sau khi nhìn thấy Ngài đang từ rừng đi ra để khất thực, tôi đã làm cho tâm được tịnh tín.
  3. Bị vướng bận trong sự quán xuyến công việc của người khác, và phước báu của tôi là không được biết đến. Có gói cơm này, tôi sẽ chăm lo bữa ăn cho bậc Hiền Trí.
  4. Khi ấy, tôi đã cầm lấy gói cơm và đã dâng cúng đến đấng Tự Chủ. Trong khi tôi đang suy tư, bậc Hiền Trí đã thọ dụng (gói cơm).
  5. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
  6. Tôi đã là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc ba mươi sáu lần. Tôi đã là đấng Chuyển Luân Vương ba mươi ba lần.
  7. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm. Tôi được sung sướng có danh vọng; điều này là quả báu của gói cơm.
  8. Trong khi luân hồi ở cõi này cõi khác, tôi đạt được tài sản không ước lượng được, tôi không có sự thiếu hụt về của cải; điều này là quả báu của gói cơm.
  9. Các của cải được sanh lên cho tôi tương đương với dòng nước của con sông, tôi không thể nào đo lường; điều này là quả báu của gói cơm.
  10. Ngươi hãy nhai món này, hãy ăn món này, hãy nằm ở chiếc giường này,” vì thế tôi được sung sướng; điều này là quả báu của gói cơm.
  11. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của gói cơm.
  12. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  13. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  14. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Patthodanadāyaka[15] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Patthodanadāyaka là phần thứ chín.

 

–ooOoo–

 

420. Ký Sự về Trưởng Lão Mañcadāyaka

  1. Khi đấng Bi Mẫn, bậc Lãnh Đạo Thế Gian Siddhattha đã viên tịch Niết Bàn, khi Phật Ngôn đã được phổ biến, được tôn kính bởi chư Thiên cùng nhân loại.
  2. Tại nơi ấy, tôi đã là người giai cấp hạ tiện, là người làm ghế dài và ghế đẩu. Tôi sinh sống bằng công việc ấy. Nhờ thế, tôi nuôi dưỡng các đứa trẻ.
  3. Được tịnh tín, tôi đã tự tay mình làm xong chiếc ghế dài khéo được hoàn tất. Rồi tôi đã đích thân đi đến và đã dâng cúng đến hội chúng tỳ khưu
  4. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
  5. Được đi đến thế giới của chư Thiên, tôi vui thích ở cõi trời Tam Thập. Các giường nằm có giá trị lớn lao được sanh lên theo như ước muốn.
  6. Tôi đã là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc năm mươi lần. Tôi đã là đấng Chuyển Luân Vương tám mươi lần.
  7. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm. Tôi được sung sướng có danh vọng; điều này là quả báu của việc dâng cúng chiếc giường.
  8. Sau khi mệnh chung từ thế giới chư Thiên, nếu tôi đi đến cõi nhân loại, các chiếc giường xinh đẹp vô cùng giá trị tự chính chúng hiện ra cho tôi.
  9. Lần sau cùng này của tôi là sự hiện hữu cuối cùng trong sự luân chuyển. Thậm chí hôm nay cũng là thời điểm của chiếc giường, có chiếc giường hiện diện.
  10. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng chiếc giường.
  11. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  12. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  13. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Mañcadāyaka[16] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Mañcadāyaka là phần thứ mười.

–ooOo–

Phần Tóm Lược

Vị Bhaddāli, vị (dâng) một chiếc lọng, vị Tiṇasūla, vị dâng cúng thịt, vị (dâng) chồi non câynāga, vị có ngọn đèn, vị có (bông hoa) ở bên hông, vị dâng cúng cháo, vị có gói cơm, vị dâng cúng chiếc giường. Và các câu kệ được tính đếm ở đây là hai trăm câu kệ và một câu kệ được thêm vào đó.

Phẩm Bhaddāli là phẩm thứ bốn mươi hai.

–ooOoo–

[1] Puṇṇaka nghĩa là “người đã làm đầy đủ.”

[2] Tên của một vị đạo sư Bà-la-môn (ND).

[3] Lúc này là lời đối thoại với đức Phật Gotama (ND).

[4] Mettagū nghĩa là “người đã đạt đến () tâm từ ái (mettā).”

[5] Dhotaka nghĩa là “người đã được gội rửa (dhota).”

[6] Người Bà-la-môn (brāhmaṇa) tự hào là thân quyến của Phạm Thiên (brahmā).

[7] Ekachattiya nghĩa là “vị liên quan đến một (eka) chiếc lọng (chatta).”

[8] Tiṇasūlakachadaniya nghĩa là “vị liên quan đến việc che phủ (chadanaṃ) bằng các bông hoa tiṇasūla.”

[9] Madhumaṃsadāyaka nghĩa là ‘vị dâng cúng (dāyaka) thịt (maṃsa) ngọt (madhu).’

[10] Nāgapallavaka nghĩa là “vị liên quan đến chồi non (pallava) của cây nāga.”

[11] Ekadīpiya nghĩa là “vị liên quan đến một (eka) cây đèn (dīpa).”

[12] Ucchaṅgapupphiya nghĩa là “vị mang bông hoa (puppha) ở hông (ucchaṅga).”

[13] Ở các Tạng Miến, Thái, Anh có thêm 2 câu kệ (4 dòng). Không thêm vào vì ý nghĩa không có gì đặc biệt.

[14] Yāgudāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) cháo (yāgu).”

[15] Patthodanadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) gói (pattha) cơm (odana).”

[16] Mañcadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) chiếc giường (mañca).”

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Thánh Nhân Ký Sự Tập II“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Thánh Nhân Ký Sự Tập II” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *