THÁNH NHÂN KÝ SỰ II

PHẨM SAKIṂSAMMAJJAKA

421. Ký Sự về Trưởng Lão Sakiṃsammajjaka

  1. Đối với đức Thế Tôn Vipassī, cây Pāṭalī là (tên của) cội cây Bồ Đề tối thượng. Sau khi nhìn thấy cội cây cao cả ấy tôi đã khiến tâm được tịnh tín.
  2. Sau khi cầm lấy cái chổi, tôi đã quét cội Bồ Đề liền khi ấy. Sau khi quét cội Bồ Đề ấy, tôi đã đảnh lễ cây Pāṭalī.
  3. Tại nơi ấy, sau khi làm cho tâm được tịnh tín tôi đã chắp tay lên ở đầu, trong khi tôn kính cội Bồ Đề ấy tôi đã khom mình bước đi.
  4. Trong khi tưởng nhớ đến cội cây Bồ Đề tối thượng, tôi bước đi ở lối đi bộ. Có con trăn có hình dáng khủng khiếp, có sức mạnh lớn lao đã bức hiếp tôi.
  5. Hành động đã được tôi làm trong lúc gần đây đã khiến cho tôi được vui lòng với kết quả. Con trăn nuốt chửng lấy thân hình của tôi, và tôi sướng vui ở thế giới chư Thiên.[1]
  6. Tâm của tôi không bị chộn rộn, luôn luôn tinh khiết, trong trắng. Tôi không còn biết đến mũi tên sầu muộn (và) sự bực bội ở tâm của tôi.
  7. Bệnh cùi, bệnh mụt nhọt, bệnh chàm, bệnh động kinh, bệnh ghẻ, bệnh lở loét, và bệnh ngứa không có ở tôi; điều này là quả báu của việc quét.
  8. Sự sầu muộn và sự than vãn ở trong trái tim của tôi là không được biết đến, tâm không bị cong quẹo, được ngay thẳng; điều này là quả báu của việc quét.
  9. Tôi không vị vướng mắc ở các tầng định, tâm ý được tự tín. Tôi muốn bất cứ tầng định nào, chính tầng định ấy tự đạt đến cho tôi.
  10. Tôi không say đắm ở điều quyến rũ và các sự việc xấu xa, tôi không bị mê muội ở điều ngu xuẩn; điều này là quả báu của việc quét.
  11. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc quét.
  12. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  13. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  14. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Sakiṃsammajjaka[2] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Sakiṃsammajjaka là phần thứ nhất.

 

–ooOoo–

 

422. Ký Sự về Trưởng Lão Ekadussadāyaka

  1. Tôi đã là người gánh cỏ ở thành phố Haṃsavatī. Tôi sinh sống bằng việc gánh cỏ. Nhờ thế, tôi nuôi dưỡng các đứa trẻ.[3]
  2. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp, đấng Lãnh Đạo Thế Gian, sau khi xua đi điều tăm tối ấy đã hiện khởi.
  3. Sau khi ngồi xuống tại ngôi nhà của chính mình, tôi đã tức thời suy nghĩ như vầy: “Đức Phật đã hiện khởi ở thế gian mà vật xứng đáng để dâng cúng không được tìm thấy.
  4. Đây là tấm vải choàng duy nhất của ta. Ta không có gì để trở thành người thí chủ. Việc tiếp xúc với địa ngục là khổ sở. Ta sẽ ươm trồng vật cúng dường.”
  5. Sau khi suy nghĩ như thế, tôi đã làm cho tâm của mình được tịnh tín. Tôi đã cầm lấy tấm vải độc nhất và đã dâng cúng đến đức Phật tối thượng.
  6. Sau khi dâng cúng tấm vải độc nhất, tôi đã thốt lớn tiếng rằng: “Bạch đấng Anh Hùng, bậc Đại Hiền Trí, nếu Ngài là vị Phật xin Ngài hãy giúp con vượt qua.”
  7. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, trong khi tán dương vật dâng cúng của tôi, đã nói lời tùy hỷ đến tôi rằng:
  8. Do tấm vải độc nhất này và do các nguyện lực của tác ý, ngươi (sẽ) không đi đến đọa xứ trong một trăm ngàn kiếp.
  9. Ngươi sẽ là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc ba mươi sáu lần và sẽ là đấng Chuyển Luân Vương ba mươi ba lần.
  10. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm. Trong khi luân hồi ngươi sẽ hiện hữu ở thế giới chư Thiên hoặc ở loài người.
  11. Có sắc đẹp, hội đủ đức hạnh, có thân hình không bị kém sút, ngươi sẽ đạt được vải vóc không bị suy suyển, không thể ước lượng, theo như ước muốn.”
  12. Sau khi nói điều này, bậc Toàn Giác, đấng Lãnh Đạo Padumuttara, bậc trí tuệ đã bay lên không trung như là chim thiên nga chúa ở trên bầu trời.
  13. Nơi chốn nào tôi đi tái sanh dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, tôi không có sự thiếu hụt về của cải; điều này là quả báu của một tấm vải.
  14. Vải vóc hiện ra cho tôi theo mỗi lần giở lên của bước chân. Tôi đứng trên tấm vải ở bên dưới, có tấm che ở phía trên cho tôi.
  15. Và trong ngày hôm nay, nếu muốn tôi có thể che phủ bằng các loại vải vóc đối với bầu vũ trụ có cả rừng rậm cùng với núi non.
  16. Nhờ vào chỉ một tấm vải ấy, trong khi luân hồi ở cõi này cõi khác tôi có được màu da vàng chói, rồi tôi luân hồi ở cõi này cõi khác.
  17. Quả thành tựu của một tấm vải đã không đi đến sự hư hoại ở bất cứ nơi đâu. Đây là lần sanh sau cùng của tôi, (quả thành tựu ấy) được chín muồi cho tôi ở ngay cả nơi đây.
  18. Kể từ khi tôi đã dâng cúng tấm vải trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của một tấm vải.
  19. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  20. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  21. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ekadussadāyaka[4] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ekadussadāyaka là phần thứ nhì.

 

–ooOoo–

 

423. Ký Sự về Trưởng Lão Ekāsanadāyaka

  1. Ở không xa núi Hi-mã-lạp, có ngọn núi tên là Gosita, có khu ẩn cư của tôi đã khéo được xây dựng, có gian nhà rộng bằng lá đã khéo được tạo lập.
  2. Khi ấy, (tôi) có tên là Nārada. (Người ta) biết đến tôi với tên là Kassapa. Trong lúc tầm cầu đạo lộ thanh tịnh, tôi sống ở (núi) Gosita.
  3. Bậc Toàn Giác, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp, vị ưa thích sự độc cư, đã đi đến bằng đường không trung.
  4. Sau khi nhìn thấy hào quang của bậc Đại Ẩn Sĩ đang di chuyển ở trên chóp đỉnh của khu rừng, tôi đã xếp đặt chiếc giường gỗ và đã trải ra tấm da dê.
  5. Sau khi xếp đặt chỗ ngồi tôi đã chắp tay lên ở đầu. Sau khi bày tỏ sự vui mừng, tôi đã nói lời nói này:
  6. Bạch đấng Đại Hùng, Ngài là vị phẫu thuật, là người thầy thuốc của các bệnh nhân. Bạch đấng Lãnh Đạo, xin Ngài hãy ban cho con liều thuốc của người bị cơn bệnh hành hạ.
  7. Bạch đức Phật tối thượng, bạch đấng Hiền Trí, những người nào có mục đích về sức khỏe nhìn thấy Ngài đạt được sự thành tựu về mục đích trường cửu, sự tái sanh của những người này được lụi tàn.
  8. Con là người thọ dụng trái cây đã rụng xuống, con không có vật dâng cúng đến Ngài. Con có chỗ ngồi này, thỉnh Ngài ngồi xuống ở chiếc giường gỗ.”
  9. Đức Thế Tôn đã ngồi xuống ở tại nơi ấy tợ như con sư tử không bị hãi sợ. Sau khi chờ đợi trong chốc lát, Ngài đã nói lời nói này:
  10. Ngươi hãy tự tin, chớ lo sợ. Ngươi đã đạt được viên ngọc như ý. Điều gì đã được ngươi ước nguyện, tất cả sẽ được tròn đủ trong thời vị lai.
  11. Điều đã được làm ấy của ngươi ở Phước Điền vô thượng không là vô ích. Đối với người nào có tâm đã được củng cố, bản thân của (người ấy) có thể tiếp độ được.
  12. Do sự dâng cúng chỗ ngồi này và do các nguyện lực của tác ý, ngươi (sẽ) không đi đến đọa xứ trong một trăm ngàn kiếp.
  13. Ngươi sẽ là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc năm mươi lần và sẽ là đấng Chuyển Luân Vương tám mươi lần.
  14. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm. Ngươi sẽ được sung sướng ở khắp mọi nơi và sẽ luân chuyển ở vòng luân hồi.”
  15. Sau khi nói điều này, bậc Toàn Giác, đấng Lãnh Đạo Padumuttara, bậc trí tuệ đã bay lên không trung như là chim thiên nga chúa ở trên bầu trời.
  16. Về phương tiện di chuyển bằng voi, phương tiện di chuyển bằng ngựa, xe kéo, và cỗ xe, tôi đạt được tất cả mọi thứ này; điều này là quả báu của một chổ ngồi.
  17. Ngay cả khi đã đi vào rừng rậm, lúc nào tôi mong muốn về chỗ ngồi, chiếc ghế bành biết được ước muốn của tôi hiện diện ở bên cạnh.
  18. Trong khi đã đi vào trong nước, lúc nào tôi mong muốn về chỗ ngồi, chiếc ghế bành biết được ước muốn của tôi hiện diện ở bên cạnh.
  19. Nơi chốn nào tôi đi tái sanh dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, luôn luôn có một trăm ngàn chiếc ghế bành vây quanh tôi.
  20. Tôi (đã) luân hồi ở hai cảnh giới, trong bản thể Thiên nhân và loài người. Tôi (đã) được sanh ra ở hai gia tộc, Sát-đế-lỵ và Bà-la-môn.
  21. Sau khi dâng cúng một chỗ ngồi ở Phước Điền vô thượng, sau khi nắm lấy chiếc ghế bành Giáo Pháp, tôi sống không còn lậu hoặc.
  22. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.
  23. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  24. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  25. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ekāsanadāyaka[5] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ekāsanadāyaka là phần thứ ba.

 

–ooOoo–

 

424. Ký Sự về Trưởng Lão Sattakadambapupphiya

  1. Ở không xa núi Hi-mã-lạp, có ngọn núi tên là Kadamba. Ở sườn ngọn núi ấy, có bảy vị Phật ấy đã cư ngụ.
  2. Sau khi nhìn thấy cây kadamba đã được trổ hoa, tôi đã chắp tay lên. Tôi đã hái bảy bông hoa và đã tung lên với tâm (nghĩ) về phước báu.
  3. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
  4. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  5. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  6. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  7. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Sattakadambapupphiya[6] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Sattakadambapupphiya là phần thứ tư.

 

–ooOo–

 

425. Ký Sự về Trưởng Lão Koraṇḍapupphiya

  1. Trước đây, tôi đã là người thợ rừng có sự quan tâm (phụng dưỡng) đến cha và mẹ. Tôi sinh sống nhờ vào việc giết thú rừng, tôi không biết đến điều tốt lành.
  2. Do lòng thương tưởng, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Tissa, bậc Hữu Nhãn, đã lưu lại ba (dấu) bàn chân ở xung quanh chỗ cư ngụ của tôi.
  3. Và sau khi nhìn thấy ba (dấu) bàn chân đã đi qua của bậc Đạo Sư tên Tissa, tôi đã trở nên mừng rỡ. Với tâm mừng rỡ, tôi đã làm cho tâm được tịnh tín ở (dấu) bàn chân.
  4. Sau khi nhìn thấy cây koraṇḍa mọc ở trên đất đã được trổ hoa, tôi đã hái một số (bông hoa) và đã cúng dường ở (dấu) bàn chân tối thượng.
  5. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
  6. Nơi chốn nào tôi đi tái sanh là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, tôi là người có màu da của bông hoa koraṇḍa và có cả vẻ sáng ngời nữa.
  7. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường ở bàn chân.
  8. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  9. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  10. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Koraṇḍapupphiya[7] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Koraṇḍapupphiya là phần thứ năm.

 

–ooOoo–

 

426. Ký Sự về Trưởng Lão Ghatamaṇḍadāyaka

  1. Đã suy nghĩ tận tường, đức Thế Tôn, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu đã đi vào khu rừng lớn và đã bị hành hạ bởi bệnh gió. Sau khi nhìn thấy, tôi đã làm cho tâm được tịnh tín và đã đem lại bơ lỏng nguyên chất.
  2. Do bản thân đã được thực hành, do bản thân đã được tích lũy (thiện nghiệp), dòng sông Bhāgīrathī này và bốn đại dương tự cung cấp bơ lỏng cho tôi.
  3. Và trái đất kinh khủng, không thể đo lường, không thể ước lượng này, hiểu biết được ước muốn của tôi nó trở thành tinh thể mật ngọt (cho tôi).
  4. Từ bốn châu lục, các giống cây này là loài thảo mộc mọc ở trên đất, hiểu biết được ước muốn của tôi chúng trở thành những cây như ý (cho tôi).
  5. Tôi đã là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc năm mươi lần, và đã là đấng Chuyển Luân Vương năm mươi mốt lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
  6. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của phần bơ lỏng nguyên chất.
  7. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  8. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  9. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ghatamaṇḍadāyaka[8] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ghatamaṇḍadāyaka là phần thứ sáu.

 

–ooOo–

 

427. Ký Sự về Trưởng Lão Ekadhammasavaṇiya

  1. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp, trong khi công bố về bốn Sự Thật đã giúp cho nhiều người vượt qua.[9]
  2. Vào lúc bấy giờ, tôi là vị đạo sĩ tóc bện có sự khổ hạnh cao tột. Khi ấy, tôi di chuyển ở hư không, (vừa đi) vừa phất phơ các y phục bằng vỏ cây.
  3. Tôi không thể di chuyển ở phía trên của đức Phật tối thượng. Như là con chim bị va vào tảng đá, tôi không đạt được sự di chuyển.
  4. Tợ như người đã đi vào trong nước, tôi di chuyển ở hư không như vậy. Sự hư hoại về các oai nghi này chưa từng xảy ra cho tôi trước đây.
  5. (Nghĩ rằng): “Nào! Ta sẽ tìm hiểu việc này. Ít ra ta cũng có thể đạt được lý do.” Trong khi từ không trung đáp xuống, tôi đã nghe tiếng nói của bậc Đạo Sư.
  6. Khi ấy, Ngài đang thuyết giảng về tính chất vô thường với âm điệu khích lệ, cuốn hút, dễ nghe, tôi đã học tập chỉ có pháp ấy của Ngài.
  7. Sau khi đã học tập sự nhận biết về vô thường, tôi đã đi về khu ẩn cư của tôi. Sau khi sống đến hết tuổi thọ, tôi đã mệnh chung ở tại nơi ấy.
  8. Khi đang ở vào thời điểm cuối cùng, tôi đã nhớ lại sự lắng nghe về Chánh Pháp. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
  9. Tôi đã sướng vui ở thế giới chư Thiên ba mươi ngàn kiếp. Và tôi đã cai quản Thiên quốc năm mươi mốt lần.
  10. Và tôi đã là đấng Chuyển Luân Vương hai mươi mốt lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
  11. Tôi đã thọ hưởng phước báu của chính mình, tôi đã được sung sướng ở cõi này cõi khác. Trong khi luân hồi ở cõi này cõi khác, tôi đã nhớ lại sự suy tưởng (về vô thường) ấy. Tôi không thấu triệt điểm cốt yếu là Niết Bàn, vị thế Bất Tử.
  12. Sau khi ngồi xuống ở căn nhà của người cha, vị Sa-môn có giác quan đã được tu tập, trong khi giải thích về câu kệ ngôn, đã đề cập đến tính chất vô thường:
  13. Quả vậy, các pháp hữu vi là vô thường, có pháp sanh và diệt, sau khi sanh lên chúng hoại diệt, sự tịnh lặng của chúng là an lạc.”
  14. Sau khi lắng nghe câu kệ, tôi đã nhớ lại sự suy tưởng trước đây. Sau khi ngồi ở ngay chỗ ngồi ấy, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
  15. Vào lúc bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán. Đức Phật đã cho (tôi) tu lên bậc trên; điều này là quả báu của việc lắng nghe Giáo Pháp.
  16. Kể từ khi tôi đã lắng nghe Giáo Pháp trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc nghe Giáo Pháp.
  17. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  18. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  19. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 Đại đức trưởng lão Ekadhammasavaṇiya[10] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ekadhammasavaṇiya là phần thứ bảy.

 

–ooOoo–

 

428. Ký Sự về Trưởng Lão Sucintita

  1. Tôi đã là người nông dân ở thành phố Haṃsavatī. Tôi sinh sống bằng công việc trồng trọt. Nhờ thế, tôi nuôi dưỡng các đứa trẻ.
  2. Khi ấy, thửa ruộng đã được thành tựu tốt đẹp, lúa của tôi đã được kết hạt. Và khi thời điểm gặt hái đã đến, vào lúc ấy tôi đã suy nghĩ như vầy:
  3. Thật không đúng đắn, không tốt đẹp cho ta là người biết về lành dữ, sao ta có thể thọ dụng phẩm vật đầu mùa nếu khi ấy ta chưa dâng cúng đến Hội Chúng!
  4. Vị này là đức Phật có ba mươi hai hảo tướng, tương đương với bậc không thể sánh bằng. Nhờ Ngài, Hội Chúng là Phước Điền vô thượng đã được thành lập.
  5. Ta sẽ dâng cúng vật thí là lúa mới đến các ngài trước tiên hết.” Sau khi suy nghĩ như thế, tôi đã trở nên mừng rỡ, tâm tư được khoan khoái.
  6. Tôi đã mang theo lúa từ thửa ruộng và đã đi đến bậc Toàn Giác. Sau khi đi đến bậc Toàn Giác, đấng Nhân Ngưu, bậc Trưởng Thượng của thế gian, tôi đã đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư rồi đã nói lời nói này:
  7. Bạch đấng Hiền Trí, lúa mới đã được thành tựu và Ngài cũng là người thọ lãnh. Bạch bậc Hữu Nhãn, vì lòng thương tưởng xin Ngài chấp nhận.”
  8. Sau khi biết được ý định của tôi, bậc Hiểu Biết Thế Gian Tissa, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đã nói lên những lời kệ này:
  9. Có bốn hạng được thực hành (bốn Đạo) và có bốn Quả được tồn tại. Hội Chúng này có bản thể chính trực, được định tĩnh với tuệ và giới.
  10. Phước báu có mầm mống tái sanh (hữu lậu) của những người đang hiến cúng, của những chúng sanh có lòng mong mỏi phước báu đang thực hiện, đã được dâng cúng đến Hội Chúng là có quả báu lớn.
  11. Lúa mới nên được dâng cúng đến Hội Chúng ấy, vật khác cũng vậy. Sau khi xác định là Hội Chúng, ngươi hãy đưa các vị tỳ khưu đến tư gia, và hãy dâng cúng đến Hội Chúng tỳ khưu vật đã được chuẩn bị tại nhà.”
  12. Sau khi xác định là Hội Chúng, tôi đã đưa các vị tỳ khưu đến nhà, và đã dâng cúng đến Hội Chúng tỳ khưu vật đã được tôi chuẩn bị tại nhà.
  13. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
  14. Tại nơi ấy, cung điện bằng vàng vô cùng rực rỡ đã được kiến tạo khéo léo dành cho tôi có chiều cao là sáu mươi do-tuần, chiều rộng ba mươi do-tuần.

(Tụng phẩm thứ mười chín).

  1. Chỗ cư ngụ của tôi được phân bố chằng chịt, đông đảo các nhóm nữ nhân. Tại nơi ấy, tôi ăn, tôi uống, và tôi sống ở cõi Tam Thập.
  2. Và tôi đã cai quản Thiên quốc ba trăm lần và đã trở thành đấng Chuyển Luân Vương năm trăm lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
  3. Trong khi luân hồi ở cõi này cõi khác, tôi đạt được tài sản không ước lượng được, tôi không có sự thiếu hụt về của cải; điều này là quả báu của lúa mới.
  4. Về phương tiện di chuyển bằng voi, phương tiện di chuyển bằng ngựa, kiệu khiêng, và cỗ xe kéo, tôi đạt được tất cả mọi thứ này; điều này là quả báu của lúa mới.
  5. Về vải vóc mới, trái cây tươi, thức ăn mới lạ có phẩm vị cao sang, tôi đạt được tất cả mọi thứ này; điều này là quả báu của lúa mới.
  6. Về y phục làm bằng tơ lụa, bằng sợi len, bằng chỉ lanh, và bằng bông vải, tôi đạt được tất cả mọi thứ này; điều này là quả báu của lúa mới.
  7. Về đám tôi trai, bầy tớ gái, và các nữ nhân đã được trang điểm, tôi đạt được tất cả mọi thứ này; điều này là quả báu của lúa mới.
  8. Sự lạnh, sự nóng nực hoặc sự bực bội không được tôi biết đến. Sự khổ sở thuộc về tâm ở trái tim không được tôi biết đến.
  9. (Được bảo rằng): “Ngươi hãy nhai món này, hãy ăn món này, hãy nằm ở chiếc giường này,” tôi đạt được tất cả mọi thứ này; điều này là quả báu của lúa mới.
  10. Giờ đây, lần sau cùng này là sự hiện hữu cuối cùng trong sự luân chuyển. Quả báu của vật dâng cúng khiến tôi luôn luôn được hoan hỷ đến tận hôm nay
  11. Sau khi đã dâng cúng lúa mới đến Hội Chúng là tập thể cao quý tối thượng, tôi thọ hưởng tám điều lợi ích thích đáng với việc làm của tôi:
  12. Tôi có sắc đẹp, có danh vọng, có của cải to lớn, là người không bị tai họa, tôi luôn luôn có quyền lực lớn lao, luôn luôn có hội chúng không bị chia rẽ.
  13. Bất cứ những ai cư ngụ ở trên trái đất, tất cả đều tôn trọng tôi. Và bất cứ những gì là vật nên được dâng cúng tôi đều đạt được trước tiên hết.
  14. Ở giữa hội chúng tỳ khưu hoặc trước mặt đức Phật tối thượng, các thí chủ đã đi vượt qua tất cả các vị và dâng cúng đến chính tôi.
  15. Tôi thọ hưởng các điều lợi ích này bởi vì tôi đã dâng cúng lúa mới đến Hội Chúng là tập thể tối thượng trước tiên hết; điều này là quả báu của lúa mới.
  16. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của lúa mới.
  17. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  18. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  19. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Sucintita[11] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.  

Ký sự về trưởng lão Sucintita là phần thứ tám.

 

–ooOoo–

 

429. Ký Sự về Trưởng Lão Soṇṇakiṅkaṇiya

  1. Vì niềm tin, tôi đã ra đi và đã xuất gia vào đời sống không gia đình. Thiên về nghiệp khổ hạnh, tôi đã là vị mang y phục bằng vỏ cây.
  2. Hơn nữa đức Thế Tôn Atthadassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu vào lúc bấy giờ đã hiện khởi, đang giúp cho nhiều người vượt qua.
  3. 4603. Và sức lực của tôi quả nhiên đã bị cạn kiệt bởi cơn bệnh trầm trọng. Tôi đã tưởng nhớ đến đức Phật tối thượng và đã tạo nên ngôi bảo tháp tối thượng ở trên bãi cát. Với tâm mừng rỡ, với ý phấn chấn, tôi đã dùng tay rải rắc các bông hoa kiṅkaṇī bằng vàng.
  4. Với tâm tịnh tín ấy đối với vị Atthadassī như thế ấy, tôi đã đi vòng quanh ngôi bảo tháp như là có đức Phật hiện diện.
  5. Trong khi đi đến thế giới của chư Thiên, tôi đạt được sự an lạc bao la. Tại nơi ấy, tôi đã có màu da vàng chói; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  6. Tôi có tám trăm triệu người nữ đã được trang điểm thường xuyên phục vụ cho tôi; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  7. Có sáu mươi ngàn nhạc cụ gồm các trống lớn và các trống nhỏ, các tù và vỏ ốc và các trống con. Các chiếc trống đã vang lên một cách vui nhộn ở tại nơi ấy.
  8. Có tám mươi bốn ngàn con voi là những con voi mātaṅga (đến tuổi) bị tiết dục ở ba nơi được sáu mươi tuổi đã được trang điểm.
  9. Được che phủ với những tấm lưới vàng, các con voi thể hiện sự phục vụ đến tôi. Sự thiếu hụt của tôi về binh lực luôn cả về voi là không được biết đến.
  10. Tôi đã thọ hưởng quả thành tựu của những bông hoa kiṅkaṇī bằng vàng. Tôi đã cai quản Thiên quốc năm mươi tám lần.
  11. Và tôi đã là đấng Chuyển Luân Vương bảy mươi mốt lần. Tôi đã cai quản vương quốc ở mặt đất trên quả địa cầu một trăm lẻ một lần.
  12. Giờ đây, đã đạt đến Bất Tử là không còn tạo tác, khó nhìn thấy vô cùng, tôi đây đã được đoạn tận các sự trói buộc, giờ đây không còn tái sanh nữa.
  13. Kể từ khi tôi đã dâng lên bông hoa trước đây một ngàn tám trăm kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  14. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  15. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  16. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Sovaṇṇakiṅkaṇiya[12] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Sovaṇṇakiṅkaṇiya là phần thứ chín.

 

–ooOoo–

430. Ký Sự về Trưởng Lão Soṇṇakontarika

  1. Đức Phật là vị đã tu tập về tâm, đã chế ngự bản thân, được định tĩnh, đang cư xử theo đường lối Phạm hạnh, thích thú trong sự tịnh lặng của tâm.
  2. Tôi đã suy tưởng về bậc Toàn Giác đã vượt qua dòng nước lũ, về bậc Hiền Trí được thỏa thích về thiền, đã tiến vào sự thể nhập (định), có ánh sáng của cánh hoa súng.
  3. Sau khi lấy nước bằng cái bầu (đựng nước), tôi đã đi đến đức Phật tối thượng. Sau khi rửa các bàn chân của đức Phật, tôi đã dâng cúng cái bầu nước.
  4. Và bậc Toàn Giác, đấng Lãnh Đạo Padumuttara đã truyền lệnh rằng: “Bằng cái bầu này, ngươi hãy đem nước lại và hãy đặt ở cạnh bàn chân của Ta.”
  5. Tôi đã đáp lại rằng: “Lành thay!” Và với lòng tôn kính bậc Đạo Sư, tôi đã mang lại nước bằng cái bầu và đã đưa đến gần đức Phật tối thượng.
  6. Trong khi làm cho tâm của tôi được mát mẻ, đấng Đại Hùng đã nói lời tùy hỷ rằng: “Do sự dâng cúng cái bầu này, mong rằng ý định của người được thành tựu.”
  7. Tôi đã sướng vui ở thế giới chư Thiên trong mười lăm kiếp. Và tôi đã trở thành đấng Chuyển Luân Vương ba mươi lần.
  8. Vào ban ngày hoặc ban đêm nếu tôi đang đi kinh hành hoặc đang đứng, có người cầm cây gậy vàng đứng ở phía trước tôi.
  9. Sau khi dâng cúng cái bầu nước đến đức Phật, tôi đạt được cây gậy vàng. Hành động đã được thực hiện dầu là nhỏ nhoi trở thành to lớn như thế ấy.
  10. Kể từ khi tôi đã dâng cúng cái bầu nước trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của cái bầu nước.
  11. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  12. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  13. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Soṇṇakontarika[13] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Soṇṇakontarika là phần thứ mười.

–ooOo–

Phần Tóm Lược

Vị trưởng lão quét một lần, vị có tấm vải độc nhất, vị có một chỗ ngồi, vị dâng (bông hoa)kadamba, vị dâng (bông hoa) koraṇḍa, vị (dâng) bơ lỏng, vị lắng nghe (Giáo Pháp), vị đã khéo suy nghĩ, vị liên quan đến (bông hoa) kiṅkaṇī, và vị có cây gậy vàng. Có một trăm câu kệ và thêm vào bảy mươi mốt câu nữa.

Phẩm Sakiṃsammajjaka là phẩm thứ bốn mươi ba.

–ooOoo–

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Thánh Nhân Ký Sự Tập II“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Thánh Nhân Ký Sự Tập II” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *