Phân Tích Giới Tỳ Khưu II
Chương Sekhiyā: Phẩm Giày Dép
Điều học thứ nhất
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người có mang giày. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh có mang giày’ là việc học tập nên được thực hành.”
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh có mang giày. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh hoặc đứng ở trên giày, hoặc (mang giày) đã được buộc lại, hoặc đã được cởi ra (ở gót chân), do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ nhì
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người có mang dép. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh có mang dép’ là việc học tập nên được thực hành.”
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh có mang dép. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh hoặc đứng ở trên dép, hoặc (mang dép) đã được buộc lại, hoặc đã được cởi ra (ở gót chân), do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ ba
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người ở trên xe. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh ở trên xe’ là việc học tập nên được thực hành.”
Xe nghĩa là xe bò, xe kéo, xe hàng, xe ngựa, kiệu khiêng, ghế khiêng.
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh ở trên xe. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh ở trên xe do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ tư
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người đang nằm. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang nằm’ là việc học tập nên được thực hành.”
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang nằm. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang nằm cho dù ở trên nền đất do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ năm
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người ngồi ôm đầu gối. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi ôm đầu gối’ là việc học tập nên được thực hành.”
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi ôm đầu gối. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi ôm đầu gối bằng tay hoặc ôm đầu gối bằng miếng vải do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ sáu
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người đội khăn ở đầu. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh đội khăn ở đầu’ là việc học tập nên được thực hành.”
Đội khăn ở đầu nghĩa là sau khi không để lộ ra tóc ở bên trong rồi đội khăn lên.
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh đội khăn ở đầu. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh đội khăn ở đầu do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, sau khi bảo mở tóc ở bên trong ra rồi thuyết giảng, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ bảy
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người có đầu được trùm lại. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh có đầu được trùm lại’ là việc học tập nên được thực hành.”
Có đầu được trùm lại nghĩa là đề cập đến đầu đã được (y) trùm lên.
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh có đầu được trùm lại. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh có đầu được trùm lại do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, sau khi bảo tháo vật trùm đầu ra rồi thuyết giảng, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ tám
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi ở nền đất rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không ngồi ở nền đất rồi thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi trên chỗ ngồi’ là việc học tập nên được thực hành.”
Không nên ngồi ở nền đất rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi. Vị nào ngồi ở nền đất rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi do không có sự tôn trọng thì phạm tộidukkaṭa.
Không cố ý, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ chín
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi cao. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi cao?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi cao, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi cao vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– “Này các tỳ khưu, vào thời trước đây ở thành Bārāṇasī cô vợ của người hạng cùng đinh nọ đã mang thai. Này các tỳ khưu, khi ấy người vợ hạng cùng đinh ấy đã nói với người chồng hạng cùng đinh ấy điều này: – ‘Này tướng công, thiếp muốn ăn xoài.’ – ‘Không có xoài, không phải mùa xoài.’ – ‘Nếu thiếp không có, thiếp sẽ chết.’ Vào lúc bấy giờ, đức vua có cây xoài ra trái liên tục. Này các tỳ khưu, sau đó người hạng cùng đinh ấy đã đi đến nơi cây xoài ấy, sau khi đến đã leo lên cây xoài ấy rồi ngồi yên ẩn nấp.
Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua đã đi đến cây xoài ấy cùng với viên quan tế tự Bà-la-môn, sau khi đến đã ngồi trên chỗ ngồi cao học thuộc lòng bài chú thuật. Này các tỳ khưu, khi ấy người hạng cùng đinh đã khởi ý điều này: ‘Cho đến cả đức vua này mà còn sai trái bởi vì đã ngồi trên chỗ ngồi cao mà học thuộc lòng bài chú thuật. Và người Bà-la-môn này là sai trái bởi vì đã ngồi ở chỗ ngồi thấp mà dạy bài chú thuật đến người ngồi trên chỗ ngồi cao. Và ta là sai trái khi ta vì nguyên nhân đàn bà mà lấy trộm xoài của đức vua. Toàn bộ việc này là luẩn quẩn!’ rồi đã rơi xuống ngay tại chỗ ấy (nói rằng):
– ‘Cả hai không biết mục đích, cá hai không nhìn thấy Pháp. Vị dạy bài chú thuật, và vị học đều sai trái.’
(Vị Bà-la-môn đáp): – ‘Ta ăn cơm gạo sālī có trộn lẫn thịt tinh khiết, do đó ta không thực hành các Pháp. Pháp đã được các bậc Thánh nhân ca ngợi.’
(Người hạng cùng đinh): – ‘Này Bà-la-môn, xấu hổ thay sự đạt được tài sản và sự đạt được danh vọng ấy, đó là hành vi với sự bị rơivào đọa xứ hay là có sở hành xử sai trái.
Này vị Bà-la-môn vĩ đại, hãy thoát ra, dầu cho các chúng sanh khác bị đọa đày. Ngài chớ thực hành việc phi pháp, vì điều ấy ví như đá làm vỡ chum.’
Này các tỳ khưu, ngay từ thời ấy (người) ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi dạy bài chú thuật đến người ngồi trên chỗ ngồi cao đã không làm ta hài lòng, thì hiện nay điều gì khiến cho việc (người) ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi cao sẽ làm ta hài lòng? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“‘Ta sẽ không ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi trên chỗ ngồi cao’ là việc học tập nên được thực hành.”
Không nên ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi trên chỗ ngồi cao. Vị nào ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi trên chỗ ngồi cao do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ mười
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đứng thuyết Pháp đến người ngồi. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không đứng thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi’ là việc học tập nên được thực hành.”
Không nên đứng thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi. Vị nào đứng thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ mười một
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi đang đi phía sau thuyết Pháp đến người đang đi phía trước. ―(như trên)―
“‘Khi đang đi phía sau, ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang đi phía trước’ là việc học tập nên được thực hành.”
Trong khi đang đi phía sau không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang đi phía trước. Vị nào trong khi đang đi phía sau thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang đi phía trước do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ mười hai
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi đang đi bên đường thuyết Pháp đến người đang đi giữa đường. ―(như trên)―
“‘Khi đang đi bên đường, ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang đi giữa đường’ là việc học tập nên được thực hành.”
Trong khi đang đi bên đường không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang đi giữa đường. Vị nào trong khi đang đi bên đường thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang đi giữa đường do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ mười ba
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đứng đại tiện và tiểu tiện. ―(như trên)―
“‘Khi không bị bệnh, ta sẽ không đứng đại tiện hoặc tiểu tiện’ là việc học tập nên được thực hành.”
Khi không bị bệnh, không nên đứng đại tiện hoặc tiểu tiện. Vị nào không bị bệnh đứng đại tiện hoặc tiểu tiện do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ mười bốn
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ trên cỏ cây xanh. ―(như trên)―
“‘Khi không bị bệnh, ta sẽ không đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ trên cỏ cây xanh’ là việc học tập nên được thực hành.”
Không bị bệnh, không nên đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ trên cỏ cây xanh. Vị nào không bị bệnh đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ trên cỏ cây xanh do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị đã thực hiện ở chỗ không có cỏ cây xanh rồi khỏa cỏ cây xanh ra che lại, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ mười lăm
Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước giống như những kẻ tại gia hưởng dục vậy?”
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“‘Ta sẽ không đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ vào trong nước’ là việc học tập nên được thực hành.”
Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu bị bệnh ngần ngại đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh được đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Khi không bị bệnh, ta sẽ không đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ vào trong nước’ là việc học tập nên được thực hành.”
Khi không bị bệnh, không nên đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ vào trong nước. Vị nào không bị bệnh đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ vào trong nước do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, sau khi thực hiện trên đất rồi xối nước, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Phẩm Giày Dép là thứ bảy.
–ooOoo–
Phần Tóm Lược
(Mặc y ) tròn đều, được che kín, khéo thu thúc, với mắt nhìn xuống, được vén lên, tiếng cười vang, với giọng nói nhỏ nhẹ, và luôn cả ba điều về sự đung đưa.
Sự chống nạnh, trùm đầu, luôn cả sự nhón gót, và ôm đầu gối, (thọ lãnh) một cách nghiêm trang, có sự chú tâm ở bình bát, lượng xúp tương xứng, và vừa ngang miệng (bình bát).
(Thọ dụng) một cách nghiêm trang, và có sự chú tâm ở bình bát, theo tuần tự, với lượng xúp tương xứng, vun lên thành đống, và che lấp, việc yêu cầu, với ý định tìm lỗi.
Không quá lớn, tròn đều, cửa miệng, trọn bàn tay, không nói, việc đưa lên (liên tục), việc cắn (từng chút), việc phồng má, việc vung rảy, việc làm rơi đổ cơm.
Và luôn cả sự le lưỡi, tiếng chép chép, với tiếng sột sột, (liếm) bàn tay, (nạo vét) bình bát, và (liếm) môi, (bàn tay) có dính thức ăn, và (nước rửa bình bát) có lẫn cơm.
Các đức Như Lai không thuyết giảng Chánh Pháp đến người có dù ở bàn tay, y như thế đến người có gậy ở bàn tay, và những người có dao và vũ khí ở bàn tay.
Và luôn cả người mang giày, dép, ở trên xe, và đang nằm, đến người ngồi ôm đầu gối, đầu đội khăn, và được trùm lại.
Nền đất, ở chỗ ngồi thấp, đứng, (đi) phía sau, và (đi) bên đường, vị đứng không nên làm, ở cỏ cây xanh, và vào trong nước.
–ooOoo–
Tóm lược các chương ấy
(Mặc y ) tròn đều, cười vang, chống nạnh, và nghiêm trang nữa, vắt cơm, luôn cả tiếng sột sột, với giày dép là thứ bảy.
Bảy mươi lăm điều sekhiya đã được quy định bởi đức Gotama, vị Trời tối cao, bậc có danh vọng, nhằm mục đích học tập cho các đệ tử.
–ooOoo–
Bạch chư đại đức, các pháp sekhiyā đã được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Các đại đức được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Các điều Sekhiya.
–ooOoo–
[1] Sách The Buddhist Monastic Code cho biết khoảng cách của 500 cây cung độ chừng 1 km.
[2] Năm hạng người đồng đạo là tỳ khưu, tỳ khưu ni, cô ni tu tập sự, sa di, và sa di ni.
[3] Sekhiya: (vị lai phân từ thụ động, ngữ căn √sikkh): cần được học tập, nên được rèn luyện.
[4] Động từ nivāseti áp dụng cho antaravāsaka (y nội) nên được dịch là “quấn y (nội).”
[5] Động từ pārupati áp dụng cho uttarāsaṅga (thượng y, y vai trái) nên được dịch là “trùm y (vai trái).”
[6] Nghĩa là nhìn phía trước ở mặt đất khoảng cách 4 hattha, khoảng 2 mét (VinA. iv, 891).
[7] Appasaddo: dịch sát nghĩa là “ít tiếng động, tiếng động nhỏ.” Chú Giải cho ví dụ về tiếng động nhỏ như sau: “Trong căn nhà dài 6 mét có ba vị trưởng lão ngồi, một vị ngồi đầu này, một vị ngồi giữa, một vị ngồi đàng cuối (như vậy vị ngồi giữa cách đều hai vị kia một khoảng cách là 3 mét). Khi vị thứ nhất nói nhỏ nhẹ thì vị ngồi ở giữa nghe và xác định được nội dung, còn vị kia ngồi cách 6 mét nghe tiếng nói nhưng không xác định được nội dung. Cho đến như vậy là tiếng động nhỏ. Trái lại, nếu vị trưởng lão thứ ba xác định được nội dung thì gọi là tiếng động lớn” (VinA. iv, 891).
[8] sakkaccan ti satiṃ upaṭṭhapetvā: nghiêm trang là sau khi thiết lập niệm (VinA. iv, 891).
[9] Hợp từ piṇḍukkhepakaṃ được dịch sát nghĩa là “sự thảy lên cục (cơm).” Như vậy theo sự xác định ở phần không phạm tội thì vật thực cứng và các thứ trái cây được phép thảy vào miệng! Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “piṇḍukkhepakan ti piṇḍaṃ ukkhipitvā ukkhipitvā” (VinA. iv, 893), chúng tôi hiểu sự lập lại của bất biến động từ ukkhipitvā là “đưa lên rồi đưa lên” nên đã ghi lại lời dịch Việt là: “thọ thực theo lối đưa thức ăn (vào miệng) một cách liên tục.”
[10] Hợp từ kabaḷāvacchedaka được dịch sát nghĩa là “sự cắn vắt cơm làm hai.” Cũng như điều trên, khi xem đến phần không phạm tội với các vật thực cứng, các thứ trái cây, các món ăn đặc biệt, chúng tôi hiểu lời giải thích “kabaḷāvacchedakan ti kabaḷaṃ avacchinditvā avacchindivā” của ngài Buddhaghosa là “cắn đi cắn lại vắt cơm,” “cắn vắt cơm từng chút một,” nói theo cách nôm na là “ăn theo lối nhâm nhi.”
[11] Từ nillehakaṃ nghĩa là sự liếm, vét trong ba cụm từ “hattha-nillehakaṃ, patta-nillehakaṃ, oṭṭha-nillehakaṃ” liên quan đến tay, bình bát, và môi. Sở dĩ chúng tôi không dịch là “liếm bình bát” vì điều ấy không thể thực hiện được nên ghi là “nạo vét.” Nếu vị tỳ khưu thọ thực trong đĩa thì từ “liếm” có thể áp dụng (ND).
[12] Xem phần giảng giải chi tiết ở Cullavagga – Tiểu Phẩm, TTPV tập 06, chương IV.
TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)