Phân Tích Giới Tỳ Khưu II
Chương Sekhiyā: Phẩm Vắt Cơm
Điều học thứ nhất
Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư há miệng ra khi vắt cơm chưa được đưa đến. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không há miệng ra khi vắt cơm chưa được đưa đến’ là việc học tập nên được thực hành.”
Không nên há miệng ra khi vắt cơm chưa được đưa đến. Vị nào há miệng ra khi vắt cơm chưa được đưa đến do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ nhì
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đưa trọn bàn tay vào miệng trong lúc thọ thực. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không đưa trọn bàn tay vào miệng trong lúc thọ thực’ là việc học tập nên được thực hành.”
Trong lúc thọ thực, không nên đưa trọn bàn tay vào miệng. Vị nào đưa trọn bàn tay vào miệng trong lúc thọ thực do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ ba
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nói khi miệng có vắt cơm. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không nói khi miệng có vắt cơm’ là việc học tập nên được thực hành.”
Không nên nói khi miệng có vắt cơm. Vị nào nói khi miệng có vắt cơm do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ tư
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực theo lối đưa thức ăn (vào miệng) một cách liên tục.[9] ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thọ thực theo lối đưa thức ăn (vào miệng) một cách liên tục’ là việc học tập nên được thực hành.”
Không nên thọ thực theo lối đưa thức ăn (vào miệng) một cách liên tục. Vị nào thọ thực theo lối đưa thức ăn (vào miệng) một cách liên tục do không có sự tôn trọng thì phạm tộidukkaṭa.
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, các vật thực cứng, các thứ trái cây, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ năm
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực theo lối cắn vắt cơm từng chút một.[10] ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thọ thực theo lối cắn vắt cơm từng chút một’ là việc học tập nên được thực hành.”
Không nên thọ thực theo lối cắn vắt cơm từng chút một. Vị nào thọ thực theo lối cắn vắt cơm từng chút một do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, các vật thực cứng, các thứ trái cây, các món ăn đặc biệt, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ sáu
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực theo lối làm phồng má (do cơm bị độn vào). ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thọ thực theo lối làm phồng má’ là việc học tập nên được thực hành.”
Không nên thọ thực theo lối làm phồng má. Vị nào làm phồng má một bên hoặc hai bên rồi thọ thực thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, các vật thực cứng, các thứ trái cây, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ bảy
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực có sự vung rảy bàn tay. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thọ thực có sự vung rảy bàn tay’ là việc học tập nên được thực hành.”
Không nên thọ thực có sự vung rảy bàn tay. Vị nào thọ thực có sự vung rảy bàn tay do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị vung rảy bàn tay khi rũ bỏ vật dơ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ tám
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực có sự làm rơi đổ cơm. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thọ thực có sự làm rơi đổ cơm’ là việc học tập nên được thực hành.”
Không nên thọ thực có sự làm rơi đổ cơm. Vị nào thọ thực có sự làm rơi đổ cơm do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị làm cơm bị rơi rớt trong lúc rũ bỏ vật dơ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ chín
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực có sự le lưỡi. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thọ thực có sự le lưỡi’ là việc học tập nên được thực hành.”
Không nên thọ thực có sự le lưỡi. Vị nào thọ thực có sự le lưỡi do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
Điều học thứ mười
Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực có làm tiếng chép chép. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thọ thực có làm tiếng chép chép’ là việc học tập nên được thực hành.”
Không nên thọ thực có làm tiếng chép chép. Vị nào thọ thực có làm tiếng chép chép do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Phẩm Vắt Cơm là thứ năm.
–ooOoo–
[1] Sách The Buddhist Monastic Code cho biết khoảng cách của 500 cây cung độ chừng 1 km.
[2] Năm hạng người đồng đạo là tỳ khưu, tỳ khưu ni, cô ni tu tập sự, sa di, và sa di ni.
[3] Sekhiya: (vị lai phân từ thụ động, ngữ căn √sikkh): cần được học tập, nên được rèn luyện.
[4] Động từ nivāseti áp dụng cho antaravāsaka (y nội) nên được dịch là “quấn y (nội).”
[5] Động từ pārupati áp dụng cho uttarāsaṅga (thượng y, y vai trái) nên được dịch là “trùm y (vai trái).”
[6] Nghĩa là nhìn phía trước ở mặt đất khoảng cách 4 hattha, khoảng 2 mét (VinA. iv, 891).
[7] Appasaddo: dịch sát nghĩa là “ít tiếng động, tiếng động nhỏ.” Chú Giải cho ví dụ về tiếng động nhỏ như sau: “Trong căn nhà dài 6 mét có ba vị trưởng lão ngồi, một vị ngồi đầu này, một vị ngồi giữa, một vị ngồi đàng cuối (như vậy vị ngồi giữa cách đều hai vị kia một khoảng cách là 3 mét). Khi vị thứ nhất nói nhỏ nhẹ thì vị ngồi ở giữa nghe và xác định được nội dung, còn vị kia ngồi cách 6 mét nghe tiếng nói nhưng không xác định được nội dung. Cho đến như vậy là tiếng động nhỏ. Trái lại, nếu vị trưởng lão thứ ba xác định được nội dung thì gọi là tiếng động lớn” (VinA. iv, 891).
[8] sakkaccan ti satiṃ upaṭṭhapetvā: nghiêm trang là sau khi thiết lập niệm (VinA. iv, 891).
[9] Hợp từ piṇḍukkhepakaṃ được dịch sát nghĩa là “sự thảy lên cục (cơm).” Như vậy theo sự xác định ở phần không phạm tội thì vật thực cứng và các thứ trái cây được phép thảy vào miệng! Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “piṇḍukkhepakan ti piṇḍaṃ ukkhipitvā ukkhipitvā” (VinA. iv, 893), chúng tôi hiểu sự lập lại của bất biến động từ ukkhipitvā là “đưa lên rồi đưa lên” nên đã ghi lại lời dịch Việt là: “thọ thực theo lối đưa thức ăn (vào miệng) một cách liên tục.”
[10] Hợp từ kabaḷāvacchedaka được dịch sát nghĩa là “sự cắn vắt cơm làm hai.” Cũng như điều trên, khi xem đến phần không phạm tội với các vật thực cứng, các thứ trái cây, các món ăn đặc biệt, chúng tôi hiểu lời giải thích “kabaḷāvacchedakan ti kabaḷaṃ avacchinditvā avacchindivā” của ngài Buddhaghosa là “cắn đi cắn lại vắt cơm,” “cắn vắt cơm từng chút một,” nói theo cách nôm na là “ăn theo lối nhâm nhi.”
[11] Từ nillehakaṃ nghĩa là sự liếm, vét trong ba cụm từ “hattha-nillehakaṃ, patta-nillehakaṃ, oṭṭha-nillehakaṃ” liên quan đến tay, bình bát, và môi. Sở dĩ chúng tôi không dịch là “liếm bình bát” vì điều ấy không thể thực hiện được nên ghi là “nạo vét.” Nếu vị tỳ khưu thọ thực trong đĩa thì từ “liếm” có thể áp dụng (ND).
[12] Xem phần giảng giải chi tiết ở Cullavagga – Tiểu Phẩm, TTPV tập 06, chương IV.
TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)