Tiểu Bộ: Bổn Sanh I

Nhóm linh tinh

1933. Sampannaṃ sālikedāraṃ suvā bhuñjanti kosiya, paṭivedemi te brahme na naṃ vāretumussahe. 

1933. “Thưa ông Kosiya, các con chim két ăn ruộng lúa đã được chín tới. Thưa vị Bà-la-môn, tôi báo cho ngài biết. Tôi không có thể ngăn cản chúng.

1. Mùa lúa chiêm vàng thật đẹp thay,
Song tôi xin nói để ngài hay
Ðàn Anh vũ phá tan đồng lúa,
Tôi chẳng làm sao đuổi chúng bay.

1934. Eko ca tattha sakuṇo so tesaṃ sabbasundaro, bhutvā sāliṃ yathākāmaṃ tuṇḍenādāya gacchati.

1934. Và ở nơi đó có một con chim. Nó có vẻ đẹp toàn diện trong số những con chim ấy. Sau khi ăn lúa sāli theo như ý thích, nó còn dùng mỏ gắp lấy lúa rồi ra đi.”

2. Có một chim kia đẹp nhất đàn,
Trước tiên tìm lúa chín mà ăn,
Rồi mang một nắm vào trong mỏ,
Ðể sẵn mai sau những lúc cần.

1935. Oḍḍentu vāḷapāsāni yathā bajjhetha so dijo, jīvañca naṃ gahetvāna ānayetha mamantike.

1935. “Hãy giăng các bẫy lông đuôi ngựa để cho con chim ấy có thể bị vướng vào. Và ngươi hãy bắt sống nó, rồi mang đến chỗ của ta.”

3. Ðặt bẫy lông đuôi ngựa thế này,
Chim kia rồi cũng bị sa ngay,
Bắt cho cẩn thận, chim còn sống,
Rồi lấy chim về gặp lão đây.

1936. Ete bhutvā pivitvā ca pakkamanti vihaṃgamā, eko baddhosmi pāsena kiṃ pāpaṃ pakatammayā.

1936. “Các con chim này sau khi ăn uống rồi bay đi. Một mình ta bị cột vào bẫy. Tội ác nào đã được tạo ra bởi ta?”

4. Bầy chim ăn uống thật no say,
Rồi chúng liền tung cánh vút bay,
Bị bắt mình ta vào chiếc bẫy,
Ta đà gây tội lỗi gì đây?

1937. Udaraṃ nūna aññesaṃ suva accodaraṃ tava, bhutvā sāliṃ yathākāmaṃ tuṇḍenādāya gacchasi.

1937. “Này chim két, ta nghĩ rằng những con chim khác có bao tử bình thường, còn ngươi có bao tử vượt trội. Sau khi ăn lúa sāli theo như ý thích, ngươi còn dùng mỏ gắp lấy lúa rồi ra đi.

5. Bụng chim lớn vượt các chim kia:
Trước hết chim ăn bữa thỏa thuê,
Sau đó ngậm thêm đầy mỏ nữa,
Trước khi giương cánh rộng bay về.

1938. Koṭṭhannu tattha pūresi suva verannu te mayā, puṭṭho me samma akkhāhi kuhiṃ sāliṃ nidhīyasi.

1938. Có phải ngươi làm cho đầy kho thóc ở nơi kia? Này chim két, phải chăng ngươi có thù hận với ta? Này chim, được ta hỏi, ngươi hãy trả lời, ngươi cất giấu lúa sāli ở đâu?”

6. Chim có một kho phải đổ vào?
Và chim ghét lão đắng cay sao?
Lão đòi chim phải trình cho đúng:
Chim để kho kia ở chốn nào?

1939. Na me veraṃ tayā saddhiṃ koṭṭho mayhaṃ na vijjati, iṇaṃ muñcāmiṇaṃ dammi sampatto koṭisimbaliṃ,
nidhimpi tattha nidahāmi evaṃ jānāhi kosiya.

1939. “Tôi không có thù hận với ông, kho thóc của tôi không có. Tôi trả nợ và tôi cho vay nợ. Tôi đi đến chóp đỉnh của rừng cây bông vải, tôi cũng có cất giữ của chôn giấu tại nơi ấy. Này ông Kosiya, ông hãy biết như vậy.”

7. Ta chẳng ghét ngài, Ko-si-ya,
Ta không hề có vựa kho nhà,
Khi vào rừng ở, ta hoàn nợ,
Và cũng cho vay mượn nữa mà,
Nơi đó ta dồn kho báu mãi,
Ðây là câu giải đáp phần ta.

1940. Kīdisaṃ te iṇadānaṃ iṇamokkho ca kīdiso, nidhiṃ nidhānaṃ akkhāhi atha pāsā pamokkhasi.

1940. “Việc cho vay nợ của ngươi là như thế nào? Và việc trả nợ là như thế nào? Ngươi hãy giải thích việc cất giữ của chôn giấu, rồi ngươi sẽ được thoát khỏi cái bẫy.”

8. Món nào chim lại muốn cho vay?
Gì đó là công phải trả đây?
Cho biết kho nào đang tích trữ,
Rồi ta sẽ thả tự do bay.

1941. Ajātapakkhā taruṇā puttakā mayha kosiya, te maṃ bhatā bharissanti tasmā tesaṃ iṇaṃ dade.

1941. “Này ông Kosiya, những chim con của tôi còn nhỏ, cánh còn chưa mọc. Được tôi nuôi dưỡng, chúng sẽ phụng dưỡng tôi; bằng cách đó, tôi cho chúng vay nợ.

9. Lũ chim non nớt ở nhà ta,

Ðôi cánh còn chưa mọc đủ ra,
Chúng sẽ nuôi ta mai mốt nọ,
Nay ta cho chúng mượn vay mà.

1942. Mātā pitā ca me vuddhā jiṇṇakā gatayobbanā, tesaṃ tuṇḍena hātūna muñce pubbe kataṃ iṇaṃ.

1942. Mẹ và cha của tôi đã lớn tuổi, đã già nua, đã qua thời tuổi trẻ. Sau khi mang lại lúa cho họ bằng cái mỏ, tôi có thể trả nợ đã vay trước đây.

10. Mẹ cha già yếu cả song thân,
Hai vị xa dần hạn tuổi xuân,
Với lúa ta mang trong chiếc mỏ
Ðem vê dâng trả các ân nhân.

1943. Aññepi tattha sakuṇā khīṇapakkhā sudubbalā, tesaṃ puññatthiko dammi taṃ nidhiṃ āhu paṇḍitā.

1943. Ở nơi ấy, còn có những con chim khác có cặp cánh bị liệt, vô cùng yếu ớt. Là người mong mỏi phước báu, tôi cho lúa đến chúng; các bậc sáng suốt đã gọi việc ấy là của chôn giấu.

11. Còn lắm chim đang sống lẻ đơn,
Bầy chim yếu đuối lại nhiều hơn,
Ta cho bọn chúng vì từ mẫn:
Ðây chỗ hiền nhân gọi trữ tồn.

1944. Edisaṃ me iṇadānaṃ iṇamokkho me ediso, nidhiṃ nidhānaṃ akkhātaṃ evaṃ jānāhi kosiya.

1944. Việc cho vay nợ của tôi là như thế ấy. Việc trả nợ của tôi là như thế ấy. Việc cất giữ của chôn giấu đã được giải thích. Này ông Kosiya, ông hãy biết như vậy.”

12. Ðây là phần nợ muốn cho vay,
Ðấy lại là công phải trả đầy,
Nơi nọ là kho đang tích trữ,
Giờ ta phân giải hết lời này.

1945. Bhaddako vatayaṃ pakkhī dvijo paramadhammiko, ekaccesu manussesu ayaṃ dhammo na vijjati.

1945. “Con chim này quả thật là hiền thiện, là loài lưỡng sanh có đạo đức tuyệt vời! Đạo đức này ở một số người không tìm thấy.

13. Ðạo lý cuộc đời tối thượng thay!
Làm bao công đức chính chim này!
Từ mồm nhiều kẻ trên trần thế
Chẳng có hề nghe luật lệ vầy.

1946. Bhuñja sāliṃ yathākāmaṃ saha sabbehi ñātihi, punāpi suva passemu piyaṃ me tava dassanaṃ.

1946. Ngươi hãy ăn lúa sāli theo như ý thích cùng với tất cả thân quyến. Này chim két, chúng ta hãy gặp lại nhau. Sự xuất hiện của ngươi được ta yêu thích.”

14. Ăn cho vừa ý thật no nê,
Và mọi chim thân cũng thỏa thuê,
Anh vũ, rồi ta còn gặp lại,
Ta yêu hình bóng bạn quay về.

1947. Bhuttañca pītañca tavassamamhi ratī ca no kosiya te sakāse, nikkhittadaṇḍesu dadāhi dānaṃ, jiṇṇe ca mātāpitaro bharassu.

1947. “Này ông Kosiya, chúng tôi đã được ăn và đã được uống ở chỗ trú ngụ của ông, và chúng tôi có sự vui thích ở bên ông. Ông hãy ban phát vật thí nơi những người đã buông bỏ gậy gộc, và ông hãy phụng dưỡng mẹ cha già yếu.”

15. Trong nhà ngài đấy, Ko-si-ya,
Ta uống ăn, tình bạn thiết tha,
Xin hãy cúng dường cho những vị
Trong đời gánh nặng đã quăng xa,
Và xin phụng dưỡng song thân đủ,
Khi các ngài kia đã xế tà.

1948. Lakkhī vata me udapādi ajja yo addasāsiṃ pavaraṃ dijānaṃ, suvassa sutvāna subhāsitāni kāhāmi puññāni anappakāni.

1948. “Quả thật, Nữ thần May Mắn đã đến với ta ngày hôm nay! Ta đây đã gặp được con chim cao quý của loài chim. Sau khi lắng nghe những lời khéo nói của chim két, ta sẽ làm các việc phước thiện không phải là ít.”

16. Thần nữ Cát Tường hẳn đến đây
Khi ta nhìn thấy chúa chim này,
Ta nguyền thực hiện nhiều công đức,
Chẳng có bao giờ muốn nghỉ tay,
Vì giọng chim thần nay lảnh lót,
Ta vừa nghe thật tuyệt vời thay!

1949. So kosiyo attamano udaggo annañca pānañcabhisaṅkharitvā, annena pānena pasannacitto santappayi samaṇe brāhmaṇe cā ”ti.

1. Sālikedārajātakaṃ.

1949. “Ông Kosiya ấy có ý hài lòng, phấn chấn, đã cho chuẩn bị cơm ăn và nước uống, rồi với tâm tịnh tính, đã làm thỏa mãn các vị Sa- môn và Bà-la- môn với cơm ăn và nước uống.”

1. Bổn sanh Ruộng Lúa Sāli. [484]

17. Ko-si này với đại hân hoan
Thực phẩm làm phong phú ngập tràn
Ðãi uống ăn La-môn, Thánh giá,
Bản thân vị ấy thật hiền lương.

Câu chuyện 484 

1950. Upanīyatidaṃ maññe cande lohitamadena majjāmi, vijahāmi jīvitaṃ pāṇā me cande nirujjhanti.

1950. “Hỡi nàng Candā, ta nghĩ rằng mạng sống này bị dẫn đi. Ta bị xây xẩm bởi sự sôi sục của máu. Hỡi nàng Candā, ta đang lìa bỏ sự sống, các hơi thở của ta bị ngưng lại.

1. Chắc hẳn đời ta sắp sửa tàn,
Máu ta đang chảy xiết, tuôn tràn,
Ta gần mất hết nguồn sinh lực,
Hơi thở đang thoi thóp, hỡi nàng!

1951. Osadhi me dukkhaṃ me hadayaṃ me dayhate nitammāmi, tava candiyā socantiyā na naṃ aññehi sokehi.

1951. Mạng sống của ta chìm xuống, ta có sự đau đớn. Trái tim ta bị đốt nóng, ta mệt nhọc vô cùng. Nỗi khổ ấy của ta bởi vì nàng đang sầu muộn, không phải do các nỗi sầu muộn khác.

2. Ta đang chìm ngập với đau thương,
Lòng dạ ta đang đốt cháy bừng,
Song bởi chính nàng sầu, Nguyệt hỡi,
Mà tim ta cảm xúc khôn lường.

1952. Tiṇamiva vanamiva miyyāmi nadī aparipuṇṇiyāva sussāmi, tava candiyā socantiyā na naṃ aññehi sokehi.

1952. Ta bị héo tàn, tựa như cọng cỏ (bị phơi ở tảng đá bị đốt nóng), tựa như khu rừng (bị chặt cây tận gốc). Ta bị khô cạn, tựa như dòng sông không không còn đầy nước. Nỗi khổ ấy của ta bởi vì nàng đang sầu muộn, không phải do các nỗi sầu muộn khác.

3. Như cỏ cây, ta cứ lụi tàn,
Héo hon như suối cạn khô dần,
Lòng đầy xúc cảm, Can-dà hỡi,
Vì nỗi buồn đau của chính nàng.

1953. Vassaṃva sare pāde imāni massūni vattare mayhaṃ, tava candiyā socantiyā na naṃ aññehi sokehi.

1953. Những giọt nước mắt này của ta tuôn chảy tựa như nước mưa rơi xuống chảy thành dòng ở chân núi. Nỗi khổ ấy của ta bởi vì nàng đang sầu muộn, không phải do các nỗi sầu muộn khác.”

4. Dòng lệ tuôn từ cặp mắt ta,
Như mưa chân núi chảy vào hồ,
Bởi vì lòng dạ đầy thương cảm,
Cho nỗi sầu nàng, hỡi Nguyệt Nga!

1954. Pāposi kho rājaputta yo me icchitapatiṃ varākiyā, vijjhi vanamūlasmiṃ soyaṃ viddho chamā seti.

1954. “Thưa hoàng tử, ngài quả là độc ác! Ngài đã bắn trúng người chồng yêu dấu của thiếp, người phụ nữ khốn khổ. Chồng thiếp đây đã bị trúng tên, nằm dài trên mặt đất, dưới gốc cây trong rừng.

5. Ôi khổ thân ta, chúa bạo tàn!
Nhà ngươi đã bắn trọng thương chàng,
Nay chàng nằm đó, trên đất lạnh,
Dưới một gốc cây, giữa núi ngàn.

1955. Imaṃ mayhaṃ hadayasokaṃ paṭimuñcatu rājaputta tava mātā, yo mayhaṃ hadayasoko kimpurisaṃ avekkhamānāya.

1955. Thưa hoàng tử, nỗi sầu muộn ở trái tim của thiếp trong khi thiếp  nhìn thấy người chồng nhân điểu, hãy để cho người mẹ của ngài nhận lấy nỗi sầu muộn ở trái tim này của thiếp.

6. Vương tử! Sầu đau xét ruột này,
Ta mong thái hậu phải đền thay!
Mối sầu đang bóp tim tan nát,
Khi thấy chàng yêu đã chết đây.

1956. Imaṃ mayhaṃ hadayasokaṃ paṭimuñcatu rājaputta tava jāyā, yo mayhaṃ hadayasoko kimpurisaṃ avekkhamānāya. 

1956. Thưa hoàng tử, nỗi sầu muộn ở trái tim của thiếp trong khi thiếp  nhìn thấy người chồng nhân điểu, hãy để cho người vợ của ngài nhận lấy nỗi sầu muộn ở trái tim này của thiếp.

7. Vương tử! Sầu đau xét ruột này,
Ta mong vương hậu phải đền thay!
Mối sầu đang bóp tim tan nát,
Khi thấy chàng yêu đã chết đây.

1957. Mā ca putte mā ca patiṃ addakkhi rājaputta tava mātā, yo kimpurisaṃ avadhi adūsakaṃ mayhakāmāhi.

1957. Thưa hoàng tử, chớ để cho người mẹ của ngài nhìn thấy những người con và người chồng của bà là kẻ đã giết hại loài nhân điểu vô tội bởi vì lòng ham muốn có được thiếp.

8. Mong thái hậu nay khóc phụ hoàng,
Và sau lại phải khóc hoàng nam,
Kẻ vì tham dục đang làm ác
Cho chính chồng ta thật uổng oan.

1958. Mā ca putte mā ca patiṃ addakkhi rājaputta tava jāyā, yo kimpurisaṃ avadhi adūsakaṃ mayhakāmāhi.

1958. Thưa hoàng tử, chớ để cho người vợ của ngài nhìn thấy những người con và người chồng của bà là kẻ đã giết hại loài nhân điểu vô tội bởi vì lòng ham muốn có được thiếp.”

9. Ước mong vương hậu phải chờ trông
Tình cảnh mất con lẫn mất chồng,
Là kẻ vì tham, làm việc ác
Cho chàng vô tội, chính phu quân.

1959. Mā tuvaṃ cande rujji mā soci vanatimiramattakkhi, mama tvaṃ hohisi bhariyā rājakule pūjitā nārī.

1959. “Này nàng Candā, nàng chớ khóc lóc. Hỡi nàng có con mắt như bông hoa vanatimira, nàng chớ sầu muộn. Nàng sẽ trở thành người vợ của ta, nàng sẽ là người phụ nữ được tôn vinh ở hoàng cung.”

10. Thôi đừng than khóc, chớ sầu thương,
Ta chắc rừng đêm quáng mắt nàng:
Cung điện vua ban nàng diễm phúc,
Nàng làm hoàng hậu của quân vương!

1960. Api nūnahaṃ marissaṃ nacapanāhaṃ rājaputta tava hessaṃ, yo kimpurisaṃ avadhi adūsakaṃ mayhakāmāhi.

1960. “Thưa hoàng tử, chắc chắn rằng thiếp sẽ chết, chứ thiếp sẽ không bao giờ thuộc về ngài, là kẻ đã giết hại loài nhân điểu vô tội bởi vì lòng ham muốn có được thiếp.”

11. Không, ta đành kết liễu cuộc đời!
Ta chẳng bao giờ muốn lấy ngươi,
Ngươi giết chồng ta nào có tội,
Tất cả vì tham ái ta thôi!

1961. Api bhīruke api jīvitukāmike kimpurisi gaccha himavantaṃ, tālissatagarabhojane araññe taṃ migā ramissanti.

1961. “Này cô nàng nhút nhát, này cô nàng ước muốn được sống, này nàng nhân điểu, nàng hãy đi về núi Hi-mã-lạp. Này cô nàng có thức ăn là các lá cây tālissatagara, các con thú ở trong rừng sẽ vui đùa với nàng.”

12. Sống cho thỏa nguyện, hỡi tiên nương,
Thôi hãy quay về đỉnh Tuyết Sơn,
Ta biết có nhiều loài thú vật
Ăn toàn cỏ hoa, mến rừng hoang.

1962. Te pabbatā tā ca kandarā tā ca giriguhāyo, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.

1962. “Những ngọn núi ấy, các động núi ấy, và các hang núi ấy, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?

13. Ðây giữa vùng đồi núi, đỉnh cao,
Trong nhiều thung lũng, dưới hang sâu,
Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
Vì bóng chàng nay thiếp thấy đâu?

1963. Te paṇṇasanthatā ramaṇiyā vāḷamigehi anuciṇṇā, tattha8 taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ. 

1963. Những tấm thảm lá đáng yêu ấy, nơi được lai vãng bởi các loài thú dữ, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?

14. Thú rừng lang bạt khắp nơi nơi,
Lá trải trên nhiều chốn đẹp tươi,
Thiếp phải làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
Vì nay chàng vắng bóng trên đời?

1964. Te pupphasanthā ramaṇiyā vāḷamigehi anuciṇṇā, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ. 

1964. Những tấm thảm hoa đáng yêu ấy, nơi được lai vãng bởi các loài thú dữ, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?

15. Dã thú tung hoành, hoa ngát hương
Lan tràn bao chốn đẹp hoang đường,
Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
Vì chẳng còn đâu thấy bóng chàng?

1965. Acchā savanti girivaranadiyo kusumābhikiṇṇasotāyo, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ. 

1965. Những dòng sông quý báu từ ngọn núi chảy tràn có nước trong vắt, những con suối được rải rắc với những bông hoa, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?

16. Trong veo, nhiều suối chảy ven đồi,
Hoa dại muôn ngàn, phủ khắp nơi,
Thiếp phải làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
Vì nay chàng bỏ thiếp đơn côi?

1966. Nīlāni himavato pabbatassa kūṭāni dassaneyyāni, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ. 

1966. Những đỉnh núi ngọc lục của dãy Hi-mã-lạp sơn đáng ngắm nhìn, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?

17. Xanh thẳm là đối núi Tuyết San,
Khi nhìn, đồi núi đẹp vô vàn,
Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
Vì chẳng còn đâu thấy bóng chàng?

1967. Pītāni himavato pabbatassa kūṭāni dassaneyyāni, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.

1967. Những đỉnh núi vàng ròng của dãy Hi-mã-lạp sơn đáng ngắm nhìn, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào? 

18. Bao đỉnh Tuyết Sơn nhuộm ánh vàng,
Nhìn xem đồi núi đẹp huy hoàng,
Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
Vì thiếp còn đâu thấy bóng chàng?

1968. Tambāni himavato pabbatassa kūṭāni dassaneyyāni, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.

1968. Những đỉnh núi đồng đỏ của dãy Hi-mã-lạp sơn đáng ngắm nhìn, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?

19. Ðồi núi Tuyết Sơn đỏ rực lên,
Núi đồi tuyệt diệu lúc nhìn xem!
Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
Vì thiếp còn đâu thấy bóng tiên?

1969. Tuṅgāni himavato pabbatassa kūṭāni dassaneyyāni, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.

1969. Những đỉnh núi cao vút của dãy Hi-mã-lạp sơn đáng ngắm nhìn, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?

20. Tuyết Sơn đỉnh nhọn vút trời cao,
Ðồi núi nhìn xem đẹp biết bao!
Thiếp sẽ làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
Vì nay thiếp chẳng thấy chàng đâu?

1970. Setāni himavato pabbatassa kūṭāni dassaneyyāni, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.

1970. Những đỉnh núi bạc trắng ngần của dãy Hi-mã-lạp sơn đáng ngắm nhìn, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?

21. Lấp lánh, Tuyết Sơn đỉnh trắng ngần,
Nhìn xem đồi núi đẹp muôn phần!
Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
Vì chẳng còn trông thấy Nguyệt quân?

1971. Citrāni himavato pabbatassa kūṭāni dassaneyyāni, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ. 

1971. Những đỉnh núi đủ màu sắc của dãy Hi-mã-lạp sơn đáng ngắm nhìn, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?

22. Tuyết Sơn lại đổi sắc cầu vồng,
Tuyệt diệu là khi đứng ngắm trông!
Thiếp phải làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
Vì không còn được thấy lang quân?

1972. Yakkhagaṇasevite gandhamādane osadhehi sañchanne, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ. 

1972. Ở ngọn núi Gandhamādana được bao phủ bởi các loại thảo dược, được thân cận bởi tập thể Dạ-xoa, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?

23. Ðồi Hương thân thiết với yêu ma,
Khắp chốn phủ đầy vạn cỏ hoa,
Thiếp phải làm gì, chàng nguyệt hỡi,
Vì đâu còn thấy bóng Can-da?

1973. Kimpurisasevite gandhamādane osadhehi sañchanne, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ. 

1973. Ở ngọn núi Gandhamādana được bao phủ bởi các loại thảo dược, được thân cận bởi tập thể nhân điểu, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?”

24. Thần tiên yêu mến ngọn đồi Hương,
Cây cỏ bao quanh khắp nẻo đường,
Thiếp sẽ làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
Vì đâu còn thấy bóng chàng thương?

1974. Vande te pāde ayirabrahme yo me icchitapatiṃ varākiyā, amatena abhisiñci samāgatasmiṃ piyatamena. 

1974. Thưa đấng Phạm Thiên cao cả, thiếp xin đảnh lễ hai bàn chân của ngài, vị đã rưới nước bất tử lên người chồng yêu dấu của thiếp, người phụ nữ khốn khổ, để thiếp được đoàn tụ với người yêu dấu nhất.

25. La-môn, Thánh giả đáng tôn vinh!
Cho phận thiếp đây kém phước lành
Ðược thấy phu quân đầy ái kính,
Rảy lên chàng thánh dược hồi sinh!

1975. Vicarāma dāni girivaranadiyo kusumābhikiṇṇasotāyo, nānādumavasanāyo piyaṃvadā aññamaññassā ”ti.

2. Candakinnarajātakaṃ.

1975. Giờ đây, hai ta hãy du ngoạn những dòng sông quý báu ở ngọn núi, những con suối được rải rắc với những bông hoa, những nơi trú ngụ của nhiều loại cây khác biệt, với những lời nói yêu thương trao đổi giữa hai người.”

2. Bổn sanh Nhân Điểu Canda. [485] 

26. Ta hãy lui về đỉnh Nguyệt San,
Nơi khe suối diễm lệ tuôn tràn,
Suối khe phủ ngập đầy hoa lá,
Mãi mãi chốn kia, gió nhẹ nhàng
Thầm thì len qua ngàn cổ thụ,
Mải mê trò chuyện, phút bình an.

Câu chuyện 485 

1976. Ukkā milācā bandhanti dīpe pajā mamaṃ khādituṃ patthayanti, mittaṃ sahāyañca vadehi senaka ācikkha ñātivyasanaṃ dijānaṃ. 

1976. “Những người nhà quê thắt những cây đuốc ở trên hòn đảo. Chúng mong muốn ăn thịt những đứa con của thiếp. Thưa chàng diều hâu, chàng hãy nói với bạn bè và thân hữu, chàng hãy báo tin cho các con chim về sự bất hạnh của quyến thuộc.”

1. Dân chúng đang nhen lửa đảo này,
Ðể ăn bầy trẻ chốc liền đây,
Hỡi chàng! Mau bảo cùng bè bạn
Nguy hiểm con ta cấp báo ngay.

1977. Dijo dijānaṃ pavarosi pakkhi ukkusarāja saraṇaṃ taṃ upemi, pajā mama khādituṃ patthayanti luddā milācā bhava me sukhāya.

1977. “Hỡi bạn chim, bạn là con chim hàng đầu của loài chim. Hỡi chim ưng chúa, tôi đi đến nương tựa bạn. Những người nhà quê tàn bạo mong muốn ăn thịt những đứa con của tôi. Xin bạn hãy đem lại sự an lành cho tôi.”

2. Chim chúa là ngài, hỡi chúa công!
Nay ta tìm chốn chúa an thân,
Dân làng săn muốn bắt bầy trẻ,
Xin chúa ban cho bạn nỗi mừng!

1978. Mittaṃ sahāyañca karonti paṇḍitā kāle akāle sukhamesamānā, karomi te senaka etamatthaṃ ariyo hi ariyassa karoti kiccaṃ.

1978. “Các bậc sáng suốt kết thành bạn bè và thân hữu trong lúc tầm cầu sự an lành vào ban ngày và ban đêm. Này chim diều hâu, ta sẽ thực hành nghĩa cử ấy đối với ngươi, bởi vì người cao thượng thực hiện việc cần phải làm đối với người cao thượng.”

3. Ðúng lúc hay không, bậc trí nhân
Kết giao cùng bảo vệ thân bằng,
Vì chim Ưng hỡi, ta hành động,
Bạn thiện giúp nhau những lúc cần.

1979. Yaṃ hoti kiccaṃ anukampakena ariyassa ariyena kataṃ tavayidaṃ, attānurakkhī bhava mā aḍayha
lacchāma putte tayi jīvamāne.

1979. “Việc nào là việc cần phải làm vì lòng thương tưởng bởi người cao thượng đối với người cao thượng, việc này đã được bạn thực hiện. Bạn hãy có sự bảo vệ bảo thân, chớ để bị cháy bỏng. Chúng tôi sẽ giữ được các con lúc bạn đang còn sống.”

4. Bạn thiện giúp nhau: ấy việc cần,
Ngài làm vì xót bạn gian nan,
Bình an con trẻ, ngài còn sống,
Cẩn thận, đừng cho thể lực tàn.

1980. Taveva rakkhāvaraṇaṃ karonto sarīrabhedāpi na santasāmi, karonti heke sakhinaṃ sakhāro pāṇaṃ cajanti satamesa dhammo.

1980. “Trong khi làm công việc bảo vệ che chở cho chính ngươi, ngay cả những sự tiêu tan thân xác, ta cũng không sợ sệt. Bởi vì một số bạn bè làm cho những người bạn bè, họ từ bỏ mạng sống; đó là bản thể của những người tốt.”

5. Khi ta canh giữ ở cây này
Ta chẳng lo rằng nếu chẳng may
Ta mất mạng mình vì chúng bạn,
Thiện nhân hành động vẫn như vầy!
Thế nên, bạn hãy làm vì bạn
Dù chính đời mình kết liễu ngay.

1981. Sudukkaraṃ kammamakā aṇḍajāyaṃ vihaṅgamo, atthāya kuraro putte aḍḍharatte anāgate.

1981. “Con chim thuộc loài noãn sanh này đã làm công việc vô cùng khó làm. Vì lợi ích, con chim ưng đã bảo vệ các con chim con trước lúc nửa đêm.”

6. Vương điễu noãn sinh lượn cõi không
Ðã làm một việc khổ vô cùng,
Chúa Ưng, trước lúc màn đêm xuống,
Canh giữ bầy chim nhỏ vạn an.

1982. Cutāpi eke khalitā sakammunā mittānukampāya patiṭṭhahanti, puttā mamaṭṭā gatimāgatosmi atthaṃ caretha mama vārichanna.

1982. “Một số người bị lỗi lầm, thậm chí bị tử vong bởi vì việc làm của mình, cũng vẫn tương trợ vì lòng thương tưởng bạn bè. Hỡi người bạn ẩn mình ở trong nước, các con của tôi bị khổ sở, tôi đã đi đến giang sơn của bạn, xin bạn hãy làm điều lợi ích giúp tôi.”

7. Cho dầu những kẻ bị sa chân
Qua lắm việc làm ác, bất nhân,
Cũng có cơ vươn mình tiến được,
Nếu xin nhờ giúp đỡ khi cần.
Các con ta gặp khi nguy khốn,
Ta chẳng bay ngay đến bạn vàng,
Hỡi bạn ngâm mình trong đáy nước,
Giúp nhà tôi, hãy vội lên đàng!

1983. Dhanena dhaññena ca attanāva mittaṃ sahāyañca karonti paṇḍitā, karomi te senaka etamatthaṃ ariyo hi ariyassa karoti kiccaṃ.

1983. “Các bậc sáng suốt kết thành bạn bè và thân hữu vì tài sản, vì thóc lúa, và còn vì bản thân nữa. Này chim diều hâu, ta sẽ thực hành nghĩa cử ấy đối với ngươi, bởi vì người cao thượng thực hiện việc cần phải làm đối với người cao thượng.”

8. Thiện nhân đối với một thân bằng
Cho cả đồ dùng lẫn bản thân,
Vì bạn, hỡi Ưng! Ta hoạt động,
Thiện nhân giúp đỡ bạn khi cần.

1984. Appossukko tāta tuvaṃ nisīda putto pitu carati atthacariyaṃ, ahaṃ carissāmi tavetamatthaṃ senassa putte paritāyamāno.

1984. “Cha thương, cha hãy ngồi yên, không phải nhọc công. Con trai làm công việc lợi ích thay cha. Con sẽ thực hiện nghĩa cử ấy cho cha, trong khi bảo vệ những người con của chim diều hâu.”

9. Xin cha an dưỡng, hỡi cha thân,
Việc của cha, con sẽ lãnh phần.
Con phụng sự cha là tốt nhất,
Con đi cứu cả tổ chim bằng.

1985. Addhā hi tāta satamesa dhammo putto pitu yaṃ caretha atthacariyaṃ, appeva maṃ disvā pavaḍḍhakāyaṃ senassa putte na viheṭhayeyyuṃ.

1985. “Quả đúng vậy, con thương! Đó là bản thể của những người tốt! Là việc con trai nên làm công việc lợi ích thay cha. Tuy nhiên, sau khi nhìn thấy cha có thân hình vạm vỡ, chúng sẽ không quấy nhiễu những người con của chim diều hâu.”

10. Cứ làm việc thiện, hỡi Rùa con,
Con phải giúp cha, thật chánh chơn,
Song chúng chỉ tha bầy trẻ nhỏ,
Vì cha, người thầy lớn khôn ngoan.

1986. Pasū manussā migaviriyaseṭṭha bhayadditā seṭṭhamupabbajanti, puttā mamaṭṭā gatimāgatosmi tvaṃ nosi rājā bhava me sukhāya.

1986. “Hỡi vị tinh tấn hạng nhất ở loài thú, khi bị áp lực bởi nỗi sợ hãi, loài vật và loài người nhờ cậy đến vị tối cao. Các con của tôi bị khổ sở, tôi đã đi đến giang sơn của bạn. Bạn là vị vua của chúng tôi, xin bạn hãy đem lại sự an lành cho tôi.”

11. Oai hùng bậc nhất của muôn loài,
Loài thú vật kia lẫn mọi người,
Chạy đến anh hùng lúc hoảng sợ:
Chin non gặp nạn, giúp nhà tôi,
Ngài là chúa tể muôn loài đó,
Vì thế nên tôi phải đến nơi.

1987. Karomi te senaka etamatthaṃ āyāma te taṃ disataṃ vadhāya, kathaṃ hi viññū pahu sampajāno na vāyame attajanassa guttiyā.

1987. “Này chim diều hâu, ta sẽ thực hành nghĩa cử ấy đối với ngươi. Chúng ta hãy đi đến để giết chết đám thù địch ấy của ngươi. Tại làm sao mà một người có sự hiểu biết, có khả năng, trong khi biết rõ mà lại không ra sức bảo vệ cho người của mình?”

12. Ta giúp chim ngay, hỡi bạn Ưng!
Mau, ta đi giết bọn cừu nhân,
Hiển nhiên, bậc trí nhiều thông hiểu
Cần gắng công che chở bạn thân.

1988. Mittañca kayirātha suhaddayañca ayirañca kayirātha sukhehi ayiro, nivatthakojo va sarebhihantvā modāma puttehi samaṅgibhūtā.

1988. “Nên kết thành bạn bè với người có tâm tốt. Và người cao thượng nên làm việc cao thượng vì những điều hạnh phúc. Tựa như người có mặc áo giáp chặn đứng các mũi tên, chúng ta được ân sủng, hãy vui sướng với các con.

13. Rõ ràng kết bạn hữu đầy nhà,
Gặp bạn hiền: hoan lạc hiện ra,
Tên bắn trên quân bào bất lợi,
Ta mừng, an ổn các con ta.

1989. Sakamittassa kammena sahāyassāpalāyino, kūjantamupakūjanti lomasā hadayaṅgamaṃ.

1989. Nhờ vào hành động nỗ lực của bạn bè thân thuộc, của con sư tử không bỏ rơi bạn hữu, các con chim hót líu lo tiếng hót đi vào trái tim.

14. Nhờ công giúp của bạn chân tình,
Chim bạn đến mong góp sức mình,
Ðối đáp, chim non kêu ríu rít
Làm say lòng mẹ với âm thanh.

1990. Mittaṃ sahāyaṃ adhigamma paṇḍito so bhuñjati puttapasuṃ dhanaṃ vā, ahañca puttā ca patī ca mayhaṃ mittānukampāya samaṅgibhūtā.

1990. Sau khi tìm đến bạn bè thân hữu, bậc sáng suốt ấy thụ hưởng con cái và thú vật, hay tài sản. Nhờ vào lòng thương tưởng của bạn bè, tôi cùng các con và người chồng của tôi được toàn vẹn.

15. Người khôn nhờ bạn giúp bàn tay,
Sống với đàn con hạnh phuc đầy,
Ta với chồng con cùng đứng vững
Vì thân bằng hữu mến thương lây.

1991. Rājāvatā sūravatā ca attho sampannasakkhissa bhavanti hete, so mittavā yasavā uggatatto asmiñca loke modati kāmakāmī.

1991. Mục đích là có thể đạt được bởi người kết bạn với vua và bởi người kết bạn với dũng sĩ, bởi vì người có bạn bè đạt được những điều này. Người có sự đeo đuổi ước muốn ấy có bạn, có danh tiếng, có vị thế đã được nâng lên, và vui sướng ở thế gian này.

16. Dân cần bảo vệ bởi vua quan,
Những vị tình thân hữu vẹn toàn,
Hạnh phúc chàng mong: uy lực đủ
Là người hưng thịnh, lắm thân bằng.

1992. Karaṇīyāni mittāni daḷiddenāpi senaka, passa mittānukampāya samaggamhā sañātake.

1992. Thưa chàng diều hâu, dầu là người nghèo khó cũng vẫn nên kết giao bạn bè. Chàng hãy nhìn xem, nhờ vào lòng thương tưởng của bạn bè, chúng ta được đoàn tụ cùng với các thân quyến.

17. Này Ưng, cần phải kiếm thân bằng
Dù bạn nghèo hèn hoặc yếu non,
Nay hãy xem: nhờ tình thắm thiết
Ta và gia quyến thảy bình an.

1993. Sūrena balavantena yo mettiṃ kurute dijo, evaṃ so sukhito hoti yathāhaṃ tvañca senakā ”ti.

3. Mahā-ukkusajātakaṃ.

1993. Thưa chàng diều hâu, con chim nào kết giao tình thân hữu với bậc dũng sĩ, với người có sức mạnh, con chim ấy được hạnh phúc như vậy, giống như là thiếp và chàng vậy.”

3. Bổn sanh Chim Ưng Vĩ Đại. [486]

18. Chim Ưng tìm được bậc anh hùng
Ðể đóng vai chim bạn thiết thân,
Ưng hỡi, như đôi ta hạnh phúc,
Chim kia cũng hạnh phúc trong lòng.

Câu chuyện 486 

1994. Kharājinā jaṭilā paṅkadantā dummukharūpā ye me japanti, kaccinnu te mānusake payoge idaṃ vidū parimuttā apāyā.

1994. “Có y da dê thô cứng, tóc bện, có răng bị đóng bợn, có bộ dạng lấm lem dơ bẩn, các vị này lẩm nhẩm. Phải chăng các vị ấy, trong sự rèn luyện thuộc về nhân gian, là những vị hiểu biết thế gian này, và đã được hoàn toàn thoát khỏi các đọa xứ?

1. Hàm răng bẩn, áo da dê, tóc bện,
Miệng thì thầm lời thánh đạo bình an,
Chẳng từ nan nhiều phương tiện hiền nhân,
Chắc đã đạt Chân như và Giải thoát.

1995. Pāpāni kammāni karotha rāja bahussuto ce na careyya dhammaṃ, sahassavedāpi na taṃ paṭicca
dukkhā pamucce caraṇaṃ apatvā.
 

1995. Tâu bệ hạ, nếu người có nhiều kiến thức làm các hành động xấu xa, và không thực hành thiện pháp, người đã không đạt được sự thực hành, dầu có một ngàn sự hiểu biết, không vì điều ấy mà có thể thoát khỏi khổ đau.”

2. Một trí nhân có thể làm ác hạnh,
Một trí nhân có thể chẳng chánh chân,
Ngàn câu Vệ-đà chẳng tạo an toàn
Khi việc hỏng, hoặc cứu người lâm nạn.

1996. Sahassavedopi na taṃ paṭicca dukkhā pamucce caraṇaṃ apatvā, maññāmi vedā aphalā bhavanti
sasaṃyamaṃ caraṇaññeva saccaṃ.

1996. “Người đã không đạt được sự thực hành, dầu có một ngàn sự hiểu biết, không vì điều ấy mà có thể thoát khỏi khổ đau. Ta nghĩ rằng các sự hiểu biết là không có kết quả, chính sự thực hành với sự tự chế ngự là chân lý.”

3. Ngàn câu Vệ-đà chẳng tạo an toàn
Khi việc hỏng, hoặc cứu người nguy khốn:
Kinh Vệ-đà hẳn là đồ vô dụng,
Chánh đạo là: làm chánh, tự điều thân.

1997. Na heva vedā aphalā bhavanti sasaṃyamaṃ caraṇaññeva saccaṃ, kittiṃ hi pappoti adhicca vede
santiṃ puṇoti caraṇena danto.

1997. “Các sự hiểu biết không hẳn là không có kết quả, chính sự thực hành với sự tự chế ngự là chân lý. Bởi vì người sau khi học tập các sự hiểu biết thì đạt được danh tiếng, còn với sự thực hành, người đã được huấn luyện đạt đến sự an tịnh.”

4. Không phải thế, Vệ-đà không vô dụng,
Dù tự điều thân là đạo chánh chân,
Học Vệ-đà vẫn mang lại vinh quang,
Song ta đạt tối an nhờ chánh hạnh.

1998. Bhaccā mātā pitā bandhū yena jāto sayeva so, uddālako ahaṃ bhoto sotthiyākulavaṃsako.

1998. “Người mẹ, người cha, các quyến thuộc là những người cưu mang. Kẻ đã được sanh ra từ người nào thì đương nhiên thuộc về người ấy. Con là Uddālaka, là người thuộc dòng dõi gia tộc Sotthiya của ngài.”

5. Cha mẹ và thân quyến họ hàng
Ðòi ta chăm sóc với yêu thương,
Mẹ cha là bản thân con đó,
Con Ud-da-la chính búp non
Từ gốc rễ nhà ngài quý tộc,
Thưa ngài, Tôn giả Bà-la-môn.

1999. Kathaṃ bho brāhmaṇo hoti kathaṃ bhavati kevalī, kathañca parinibbānaṃ dhammaṭṭho kinti vuccati.

1999. “Này con, thế nào là vị Bà-la-môn? Thế nào là người có sự toàn hảo? Và thế nào là sự hoàn toàn diệt tắt? Như thế nào được gọi là vị đứng vững ở thiện pháp?”

6. Ðiều gì thành tựu một La-môn,
Vị ấy làm sao được thiện toàn?
Hãy nói thế nào người chánh hạnh,
Làm sao đạt hạnh phúc Niết-bàn?

2000. Niraṃ katvā aggimādāya brāhmaṇo āposijaṃ yajamusseti yūpaṃ, evaṃ karo brāhmaṇo hoti khemi
dhamme ṭhitaṃ tena amāpayiṃsu.

2000. “Sau khi khước từ (thế gian) và thờ phượng thần lửa, trong khi hành lễ rưới nước, trong khi dâng hiến, vị Bà-la-môn nâng cao cây gậy tế thần. Với sự thực hành như vậy, là vị Bà-la-môn, là người có sự an ổn. Do việc ấy, người đời đã công nhận là vị đứng vững ở thiện pháp.”

7. Bỏ đời, sùng bái lửa thiêng hồng,
Vung gậy tế đàn, rảy nước trong,
Phận sự làm xong, người tán tụng,
La-môn như vậy được an lòng.

2001. Na suddhi secanenatthi napi kevalī brāhmaṇo, na khanti napi soraccaṃ napi so parinibbuto.

2001. “Không có sự trong sạch với việc hành lễ rưới nước, vị Bà-la-môn cũng không có sự toàn hảo, không có sự nhẫn nại, cũng không có sự hiền hòa; vị ấy cũng không được hoàn toàn diệt tắt.”

8. Rảy nước không làm sạch Ðạo nhân,
Thiện toàn chẳng phải việc đăng đàn,
Cũng không an ổn và thân ái,
Chẳng đạt tối cao, lạc Niết-bàn.

2002. Kathaṃ so brāhmaṇo hoti kathaṃ bhavati kevalī, kathañca parinibbānaṃ dhammaṭṭho kinti vuccati.

2002. “Vị Bà-la-môn ấy là thế nào? Người có sự toàn hảo là thế nào? Và thế nào là sự hoàn toàn diệt tắt? Như thế nào được gọi là vị đứng vững ở thiện pháp?”

9. Ðiều gì thành tựu hạnh La-môn
Vị ấy làm sao được thiện toàn,
Xin bảo thế nào người chánh hạnh,
Làm sao thành tựu lạc Niết-bàn?

2003. Akkhettabandhu amamo nirāso nillobhapāpo bhavalobhakhīṇo, evaṃ karo brāhmano hoti khemi dhamme ṭhitaṃ tena amāpayiṃsu.

2003. “Là người không ruộng vườn, không bà con, không ích kỷ, không mong cầu, không tham lam xấu xa, đã được cạn kiệt tham ái trong các hữu. Với sự thực hành như vậy, là vị Bà-la-môn, là người có sự an ổn. Do việc ấy, người đời đã công nhận là vị đứng vững ở thiện pháp.”

10. Người không của cải, chẳng nương đồng,
Không có họ hàng, chẳng ước mong,
Chẳng thiết cuộc đời, không ái dục,
Hoặc không ác hạnh, thảy đều không.
Ðạo nhân vậy đạt tâm thanh tịnh,
Giữ phận chánh chân, được tán đồng.

2004. Khattiyā brāhmaṇā vessā suddā caṇḍālapukkusā, sabbeva soratā dantā sabbeva parinibbutā, sabbesaṃ sītibhūtānaṃ atthi seyyova pāpiyo.

 2004. “Các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, các thương buôn, các nô bộc, các người hạ tiện, các người hốt rác, tất cả đều hiền hòa, đều đã được huấn luyện, tất cả đều được hoàn toàn diệt tắt. Trong số tất cả các vị đã có trạng thái mát mẻ, phải chăng có vị tốt hơn, có vị kém thua?”

11. Công, nông, giáo sĩ, đến vua quan,
Nô lệ, Chiên-đà, các tiện dân,
Tất cả những người đầy trắc ẩn,
Ðều thành tựu cực lạc Niết-bàn.
Vậy ai cao trọng, ai hèn kém
Giữa các Thánh hiền tối thượng chăng?

2005. Khattiyā brāhmaṇā vessā suddā caṇḍāla pukkusā, sabbeva soratā dantā sabbeva parinibbutā, sabbesaṃ sītibhūtānaṃ natthi seyyova6 pāpiyo.

2005. “Các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, các thương buôn, các nô bộc, các người hạ tiện, các người hốt rác, tất cả đều hiền hòa, đều đã được huấn luyện, tất cả đều được hoàn toàn diệt tắt. Trong số tất cả các vị đã có trạng thái mát mẻ, không có vị tốt hơn hay vị kém thua.”

12. Công, nông, giáo sĩ, đến vua quan,
Nô lệ, Chiên-đà, các tiện dân,
Tất cả những người đầy trắc ẩn,
Ðều thành tựu cực lạc Niết-bàn,
Chẳng ai cao trọng, ai hèn kém
Giữa các bậc hiền Thánh đại nhân.

2006. Khattiyā brāhmaṇā vessā suddā caṇḍālapukkusā, sabbeva soratā dantā sabbeva parinibbutā.  

2006. “Các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, các thương buôn, các nô bộc, các người hạ tiện, các người hốt rác, tất cả đều hiền hòa, đều đã được huấn luyện, tất cả đều được hoàn toàn diệt tắt.

13. Công, nông, giáo sĩ, đến vua quan,
Nô lệ, Chiên-đà, các tiện dân,
Tất cả những người này đức hạnh
Ðều thành tựu cực lạc Niết-bàn,

2007. Sabbesaṃ sītibhūtānaṃ natthi seyyova pāpiyo, panaṭṭhaṃ carasi brahmaññaṃ sotthiyākulavaṃsataṃ.

2007. Trong số tất cả các vị đã có trạng thái mát mẻ, không có vị tốt hơn hay vị kém thua, vậy Bà-la-môn hạnh, tính chất dòng dõi gia tộc Sotthiya, mà ngài thực hành đều bị mất đi.

14.”Chẳng ai cao trọng, ai hèn kém,
Giữa các bậc hiền Thánh đại nhân;
Giáo sĩ, vậy ngài vô tích sự,
Hư danh địa vị, hẳn rồi chăng?

2008. Nānārattehi vatthehi vimānaṃ bhavati chāditaṃ, na tesaṃ chāyāvatthānaṃ so rāgo apanujjatha.  

2008. “Đền đài, cung điện trở nên bị che khuất bởi những tấm vải nhuộm nhiều màu. Bóng che không phải là của những tấm vải ấy, mà màu sắc ấy làm nhòa đi.

14. Với tấm vải thô nhuộm đủ màu,
Ngôi đình được dựng, mái đình cao,
Ðỉnh tròn, rực rỡ đầy màu sắc,
Bóng đổ một màu vẫn giống nhau.

2009. Evameva manussesu yadā sujjhanti mānavā, na tesaṃ jātiṃ pucchanti dhammamaññāya subbatā ”ti.

4. Uddālakajātakaṃ.

2009. Tương tự như vậy ở loài người, khi những người trẻ tuổi được trong sạch sau khi hiểu thông Giáo Pháp và trở thành những vị có sự hành trì tốt đẹp, người ta không hỏi về xuất thân của các vị ấy.”

4. Bổn sanh Đạo Sĩ Uddālaka. [487] 

15. Vậy khi nhiều kẻ đạt thanh tâm
Tại chính nơi đây, giữa cõi trần,
Người thiện thấy toàn là bậc Thánh,
Chẳng hề hỏi huyết thống nguồn căn.

Câu chuyện 487  

2010. Assaṃ gavaṃ rajataṃ jātarūpaṃ bhariyañca so idha labhataṃ manāpaṃ, puttehi dārehi samaṅgi hotu
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.

2010. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy ở đời này hãy đạt được ngựa, voi, bạc, vàng, và người vợ hợp ý; cầu cho gã hãy có nhiều con, có nhiều vợ.”

1. Mong nhiều trâu ngựa, lắm kim ngân,
Vợ quý, nó giữ gìn luyến thương,
Mong nó sinh nhiều trai gái đủ,
Kẻ ăn phần trộm của La-môn!

2011. Mālañca so kāsikacandanañca dhāretu puttassa bahū bhavantu, kāmesu tibbaṃ kurutaṃ apekkhaṃ
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.
 

2011. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hãy mang tràng hoa, mặc vải Kāsi, và thoa bột trầm hương; cầu cho kẻ này hãy có nhiều con; cầu cho gã hãy thể hiện sự ham muốn tột độ ở các dục.”

2. Mong nó nhiều con, lắm áo quần,
Vòng hoa tay khoác, ngát chiên-đàn,
Tâm tư sôi sục đầy tham dục,
Kẻ trộm phần ngài, hỡi Ðạo nhân!

2012. Pahūtadhañño kasimā yasassī putte gihī dhanimā sabbakāme, vayaṃ apassaṃ gharamāvasātu
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.
 

2012. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hãy là người nông dân có nhiều thóc lúa, có danh tiếng; hãy là người tại gia có nhiều con cái, có tài sản, đạt được tất cả các dục; cầu cho gã hãy trú ngụ ở nhà, không nhận biết tuổi tác của bản thân.”

3. Mong nó nhiều danh vọng, ruộng vườn,
Nhà kho, con cái, sẵn sàng dâng,
Nó không hiểu tháng năm dần mất,
Kẻ trộm phần ngài, hỡi Ðạo nhân!

2013. So khattiyo hotu pasayhakārī rājābhirājā balavā yasassī, sacāturantaṃ mahimāvasātu
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.
 

2013. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hãy là vị Sát-đế-lỵ có hành động bạo lực, là vị vua trên các vị vua, có sức mạnh, có danh tiếng; cầu cho gã trú ngụ ở trái đất bao gồm cả bốn phương.”

4. Mong nó lừng danh đại tướng quân,
Ðế vương tối thượng ngự huy hoàng,
Thế gian bốn cõi đều phần nó,
Kẻ trộm phần ngài, hỡi Ðạo nhân!

2014. So brāhmaṇo hotu avītarāgo muhuttanakkhattapathesu yutto, pūjetu naṃ raṭṭhapatī yasassī bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.  

2014. Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hãy là vị Bà-la-môn chưa xa lìa luyến ái, chuyên chú vào thời khắc và đường đi của các vì sao; cầu cho vị chúa của vương quốc có danh tiếng hãy tôn vinh kẻ ấy.”

5. Mong nó trở thành một Ðạo nhân,
Mà không chế ngự được tham sân,
Chỉ tin tinh tú, ngày lành tốt,
Ðược hiển vinh nhờ các đế vương
Ân thưởng, kẻ ăn phần trộm đó,
Hỡi ngài, Tôn giả Bà-la-môn!

2015. Ajjhāyakaṃ sabbasamattavedaṃ tapassinaṃ maññatu sabbaloko, pūjentu taṃ jānapadā samecca
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.
 

2015. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho tất cả thế gian hãy quý trọng kẻ có sự khắc khổ, chuyên học tập trọn vẹn đầy đủ bộ Kinh Vệ Đà; cầu cho dân chúng sau khi hiểu rõ hãy tôn vinh kẻ ấy.”

6. Vệ-đà, mong nó học uyên thâm,
Người quý trọng đức độ Thánh nhân,
Mong nó được muôn người bái phục,
Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!

2016. Catussadaṃ gāmavaraṃ samiddhaṃ dinnaṃ hi bhuñjatu vāsavena, avītarāgo maraṇaṃ upetu
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.
 

2016. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hãy hưởng thụ ngôi làng cao quý, thịnh vượng, có bốn sự dư thừa (về nhân lực, thóc lúa, củi, nước), bởi vì đã được ban tặng bởi vị Chúa của chư Thiên; cầu cho gã hãy chạm trán Thần Chết lúc vẫn chưa xa lìa luyến ái.

7. Ơn trời cho nó được ngôi làng,
Có đủ giàu sang, bốn loại hàng,
Khi chết, dục tham không chế ngự,
Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!

2017. So gāmaṇī hotu sahāyamajjhe naccehi gītehi pamodamāno, mā rājato vyasanamalatthakiñci bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.

2017. Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hãy là người trưởng làng đang vui sướng với các điệu vũ, với các lời ca ở giữa bạn bè; cầu cho gã chớ gánh chịu bất cứ sự bất hạnh nào từ phía đức vua.” 

8. Nó làm lý trưởng, bạn quây quần,
Vũ khúc, hoan ca, nhạc đắm hồn,
Mong nó đầy tràn ơn lộc chúa,
Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!

2018. Yaṃ ekarājā paṭhaviṃ vijetvā itthī sahassassa ṭhapetu aggaṃ, sīmantinīnaṃ pavarā bhavātu bhisāni te brāhmaṇa yā ahāsi.  

2018. “Thưa vị Bà-la- môn, cô nàng nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho vị vua độc nhất đã chinh phục trái đất hãy thiết lập cô nàng vào ngôi vị chánh hậu trong số một ngàn nữ nhân; cầu cho cô nàng hãy là người quý phái trong số các phụ nữ.”

9. Mong nàng làm tuyệt thế giai nhân,
Chúa tể thế gian chọn má hồng,
Chánh hậu giữa muôn người toại ý,
Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!

2019. Isīnaṃ hi sā sabbasamāgatānaṃ bhuñjeyya sāduṃ avikampamānā, carātu lābhena vikatthamānā
bhisāni te brāhmaṇa yā ahāsi.
 

2019. “Thưa vị Bà-la- môn, cô nàng nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho cô nàng ấy có thể thọ dụng thức ăn ngon ngọt một cách thản nhiên ở giữa tất cả các nữ tỳ đã tụ hội lại; cầu cho cô nàng hãy sống phô trương về lợi lộc.”

10. Khi mọi nữ tỳ tập họp xong,
Mong nàng oai vệ ngự ngai vàng,
Cao lương mỹ vị đầy ngon ngọt,
Kiêu hãnh vì ân phước của nàng,
Người đã lấy phần ăn trộm đó,
Hỡi ngài, Tôn giả Bà-la-môn!

2020. Āvāsiko hotu mahāvihāre navakammiko hotu kajaṅgalāyaṃ, ālokasandhiṃ divasā karotu
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.
 

2020. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho gã hãy là vị thường trú ở ngôi tự viện lớn; cầu cho gã hãy là người làm công việc xây dựng tại thành phố Kajaṅgalā (rộng một do-tuần); cầu cho gã hãy kiến thiết cửa sổ nội trong một ngày.”

11. Mong nó bảo tồn viện Ka-jan,
Trùng tu quang cảnh đã tiêu tàn,
Hàng ngày làm cửa song nhà mới,
Kẻ trộm phần ngài, hỡi Ðại nhân!

2021. So bajjhataṃ pāsasatehi chamhi rammā vanā nīyatu rājadhāniṃ, tuttehi so haññatu pācanehi
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.
 

2021. “Thưa vị Bà-la- môn, con voi nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho nó hãy bị trói buộc bởi một trăm sợi xích ở sáu chỗ (bốn chân, cổ, và hông); cầu cho nó hãy bị dẫn đi từ khu rừng đáng yêu đến kinh thành; cầu cho nó hãy bị hành hạ bởi những cây giáo nhọn, bởi những gậy móc câu.”

12. Mong nó bị người bắt lấy thân,
Sáu trăm dây trói tự rừng hoang
Mang về thành, bị người vây đánh
Bằng gậy, giáo, gươm, phải phát cuồng!
Kẻ đã lấy phần ăn trộm đó,
Hỡi ngài, Tôn giả Bà-la-môn!

2022. Alakkamālī tipukaṇṇaviddho laṭṭhihato sappamukhaṃ upetu, sakkaccabaddho visikhaṃ carātu bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.  

2022. “Thưa vị Bà-la- môn, con khỉ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho nó có đeo vòng hoa bạch tiền, bị chì xuyên thủng lỗ tai, bị hành hạ bởi roi vọt; cầu cho nó hãy đi đến gần miệng rắn (ở trò biểu diễn khỉ và rắn); cầu cho nó hãy đi lang thang ở đường phố, bị cột trói cẩn thận.”

13. Vòng hoa trên cổ, thiếc đeo tai,
Mong nó đi đường, khiếp sợ oai
Chiếc gậy luyện chơi gần lũ rắn,
Kẻ ăn phần trộm ấy, thưa ngài!

2023. Yo ve anaṭṭhaṃ naṭṭhanti cāha kāmeva so labhataṃ bhuñjatañca agāramajjhe maraṇaṃ upetu yo cā bhonto saṅkati kañcideva.  

2023. “Thật vậy, kẻ nào đối với vật không bị mất mà đã nói là: ‘Bị mất,’ cầu cho kẻ ấy hãy nhận được và hưởng thụ các dục; cầu cho gã hãy chạm trán Thần Chết ở giữa ngôi nhà (vì đã không được xuất gia). Và thưa các ngài, kẻ nào trong số các vị nghi ngờ về bất cứ ai (thì cũng gánh chịu như vậy).

14. Ai thề thực phẩm biến đi rồi,
Mà nếu không mất mát, vậy thời
Mong nó hưởng tràn đầy dục lạc,
Và mang kết quả việc kia hoài,
Ước mong cái chết đầy phàm tục
Số phận dành cho nó cuối đời,
Ðiều ấy cũng dành cho quí vị,
Nếu bây giờ quí vị nghi tôi!

2024. Yadesamānā vicaranti loke iṭṭhañca kantañca bahunnametaṃ, piyaṃ manuññaṃ idha jīvaloke kasmā isayo nappasaṃsanti kāme.

2024. “Chúng lang thang ở trên đời, trong khi tầm cầu vật ưa thích và vật mong muốn, là vật được yêu quý, vật làm vừa lòng đối với số đông ở tại nơi này, ở thế gian của cuộc sống. Vì sao các vị ẩn sĩ không ca ngợi các dục?” 

15. Người kiếm tìm luôn ở cõi trần
Cái điều vui đẹp, thiết thân lòng
Ðược nhiều kẻ ước mong mê mẩn.
Như vậy, vì sao các Thánh nhân
Lại chẳng tán dương nhiều sự việc
Vẫn thường ham muốn bởi phàm nhân?

2025. Kāmesu ce haññare bajjhare ca kāmesu dukkhañca bhayañca jātaṃ, kāmesu bhūtādhipatī pamattā pāpāni kammāni karonti mohā.  

2025. “Thật vậy, chúng bị hành hạ và bị trói buộc ở các dục; khổ đau và nguy hiểm được sanh ra ở các dục; các vị quân vương bị say đắm ở các dục; vì si mê, chúng làm các hành động xấu xa.

16. Tham dục là tai họa chết người,
Là dây xiềng xích trói trên đời,
Ở trong ác dục, ta tìm thấy
Ðau khổ và kinh hãi cả thôi.
Khi bị dục tham nào cám dỗ,
Vua thường phạm tội, đắm say hoài!

2026. Te pāpadhammā pasavetvā pāpaṃ kāyassa bhedā nirayaṃ vajanti, ādīnavaṃ kāmaguṇesu disvā
tasmā isayo nappasaṃsanti kāme.
 

2026. Sau khi tạo ra tội ác do bản chất xấu xa, do sự hoại rã của thân, chúng di chuyển đến địa ngục. Sau khi nhìn thấy điều bất lợi ở các loại dục, vì thế, các vị ẩn sĩ không ca ngợi các dục.”

17. Phải vào địa ngục, các phàm nhân
Gây tội, khi tan rã nhục thân,
Vì biết khổ đau trong ác dục,
Bậc hiền chê trách, chẳng đồng lòng.

2027. Vīmaṃsamāno isino bhisāni tīre gahetvāna thale nidhesiṃ, suddhā apāpā isayo vasanti etāni te brāhmacārī bhisāni.  

2027. “Trong khi xem xét các củ sen của vị ẩn sĩ, ta đã cầm lấy chúngở bờ hồ và đã cất giấu ở trong đất. Các vị ẩn sĩ sống trong sạch, không xấu xa. Thưa vị thực hành Phạm hạnh, các củ sen này là của ngài.”

18. Chính ta trộm, thử các hiền nhân,
Ta đặt bên hồ các thức ăn,
Bậc trí thật hiền lương thánh thiện,
Hỡi người Phạm hạnh, hãy nhìn phần!

2028. Na te naṭā no pana kīḷaneyyā na bandhavā no pana te sahāyā, kismiṃ paratthambha sahassanetta isīhi tvaṃ kīḷasi devarāja.  

2028. “Chúng tôi không phải là các vũ công của ngài, hơn nữa không là những người có thể đùa giỡn. Chúng tôi không là bà con, hơn nữa không là bạn bè của ông. Thưa vị nâng đỡ kẻ khác, thưa bậc có ngàn mắt, thưa đấng Thiên Vương, liên quan đến việc gì mà ông đùa giỡn với các bậc ẩn sĩ?”

19. Chúng ta không múa rối vui chơi,
Làm các trò tiêu khiển với ngài,
Chẳng quyến thuộc ngài, hay bạn hữu,
Tại sao vậy thế, hỡi vua trời?
Thưa ngài Ngàn mắt, sao ngài nghĩ
Bậc trí bày trò giải trí thôi?

2029. Ācariyo mesi pitā ca mayhaṃ esā patiṭṭhā khalitassa brahme, ekāparādhaṃ khama bhūripañña
na paṇḍitā kodhabalā bhavanti.

2029. “Ngài là vị thầy của ta, và là người cha của ta. Thưa vị Bà-la- môn, nơi nương tựa này là dành cho người bị phạm lỗi lầm. Thưa vị có trí tuệ uyên bác, xin ngài hãy tha thứ cho một sự sai trái. Các bậc sáng suốt không có năng lực của sự giận dữ.”

20. Ngài chính là Sư trưởng đại nhân,
Chính ngài là một vị cha thân,
Chở che cho trẫm đà sai phạm,
Xin hãy thứ tha trót lỗi lầm;
Chẳng có bao giờ, thưa Thánh giá,
Bậc hiền lại phát khởi lòng sân!

2030. Suvositaṃ isinaṃ ekarattaṃ yaṃ vāsavaṃ bhūtapatiṃ addasāma, sabbeva bhonto sumanā bhavantu
yaṃ brāhmaṇo paccapādī bhisāni.
 

2030. “Một đêm của các vị ẩn sĩ đã được trải qua tốt đẹp! Là việc chúng ta đã gặp được đấng Thiên Chủ, chúa của các Thiên thần. Thưa các vị, xin tất cả các vị hãy hoan hỷ, bởi vì vị Bà-la- môn đã nhận lại các củ sen.”

21. An lạc một đêm với Thánh nhân,
Chúng ta hội kiến đấng Thiên vương,
Chư Hiền, hãy đẹp lòng khi thấy
Thực phẩm mất, nay được phục hoàn.

2031. Ahañca sāriputto ca moggallāno ca kassapo, anuruddho puṇṇo ānando tadāsuṃ satta bhātaro.  

2031. “Khi ấy, Ta cùng với Sāriputta, Moggallāna, Kassapa, Anuruddha, Puṇṇa, và Ānanda đã là bảy anh em.

22. Mục-liên, Xá-lợi-phất và Ta,
Ca diếp, A-na-luật, Phú-na, (1),
Cùng với A-nan-đà thuở ấy
Thất Hiền Huynh Ðệ chốn kia mà.

2032. Bhaginī uppalavaṇṇā dāsī khujjuttarā tadā, citto gahapati dāso yakkho sātāgiro tadā.  

2032. Khi ấy, Uppalavaṇṇā đã là cô em gái,  Khujjuttarā đã là người tớ gái. Khi ấy, gia chủ Citta đã là người tôi trai, Sātāgira đã là Dạ-xoa.

23. Liên Hoa Sắc, tiểu muội ngày xưa,
Tỳ nữ, Khuj-ju (2), thuở bấy giờ,
Cổ thụ Thần kia, Sà-tá (3) đó,
Cit-ta Gia chủ, chính gia nô.

2033. Pārileyyo tadā nāgo madhudo seṭṭhavānaro, kāḷudāyī tadā sakko evaṃ dhāretha jātakan ”ti.

5. Bhisajātakaṃ.

2033. Khi ấy, voi Pārileyya đã là con voi,  Madhuda đã là con khỉ thủ lãnh. Khi ấy, Kāḷudāyī đã là Thiên Chủ Sakka. Các ngươi hãy ghi nhớ chuyện Bổn Sanh như vậy.”

5. Bổn sanh Các Củ Sen. [488] 

24. Con Voi ngày trước chính Par-ley (4)
Con Khỉ là Ma-dhu-sét đây, (5)
Ðế Thích là Ka-lu (6) thuở ấy,
Chúng Tăng giờ hiểu Tiền thân này.
—————Chú thích: (1) Punna; (2) Khujjutarà; (3) Satàgira; (4) Pàrileyya; (5) Madhuvasettha; (6) Kàludàyi

Câu chuyện 488  

2034. Mahesī rucino bhariyā ānītā paṭhamaṃ ahaṃ, dasavassasahassāni yaṃ maṃ surucimānayi.  

2034. “Thiếp là chánh hậu của đức vua Ruci, người vợ đã được cưới về đầu tiên; đức vua Suruci đã cưới thiếp về được mười ngàn năm.

1. Thiếp là chành hậu chúa Ru-ci,
Vương hậu đầu tiên chúa cưới về,
Với chúa Su-ru-ci vạn tuế,
Thiếp đã sống trọn đạo hiền thê.

2035. Sāhaṃ brāhmaṇa rājānaṃ vedehaṃ mithilaggahaṃ, nābhijānāmi kāyena vācāya udacetasā, suruciṃ atimaññittho āvivā yadivā raho.  

2035. Thưa vị Bà-la-môn, thiếp đây không biết rõ đức vua, người chủ quản kinh thành Mithilā, xứ Videha. Thiếp đã không khi dễ đức vua Suruci bằng thân, bằng lời, hay bằng ý, công khai hay kín đáo.

2. Huy Hoàng chúa tể ở My-la,
Là chính kinh thành của quốc gia,
Thiếp chẳng hề xem thường thánh ý,
Chẳng chê ngài thấp kém, sai ngoa,
Dù sau lưng chúa, hay ngoài mặt,
Về khẩu, ý, thân, đủ cả ba.

2036. Etena saccavajjena putto uppajjataṃ ise, musā me bhaṇamānāya muddhā phalatu sattadhā.  

2036. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói chân thật này, xin cho đứa con trai hãy được sanh ra. Nếu thiếp đang nói lời dối trá, thì cái đầu hãy vỡ tan thành bảy mảnh.

3. Thánh giả, điều này nếu thật chân,
Cầu mong vương tử được ngài ban,
Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.

2037. Bhattumanāpassa pitā mātā cāpi suvāmino, te maṃ brāhme vinetāro yāva aṭṭhaṃsu jīvite.  

2037. Thưa vị Bà-la-môn, cha, mẹ, và luôn cả thầy của người chồng hợp ý, họ đã là những người hướng dẫn cho thiếp trong khi họ còn sống.

4. Phụ hoàng, mẫu hậu của vương quân,
Hai đấng sinh thành ngự trị dân,
Trong lúc các ngài còn tại thế,
Vẫn thường dạy thiếp Ðạo hiền nhân.

2038. Sāhaṃ ahiṃsāratinī kāmaso dhammacāriṇī, sakkaccaṃ te upaṭṭhāsiṃ rattindivamatanditā.  

2038. Thiếp đây có sự ưa thích việc không hãm hại, có sự thực hành thiện pháp một cách tự nguyện. Thiếp đã hầu hạ cha mẹ chồng một cách nghiêm chỉnh, đêm ngày không biếng nhác.

5. Thiếp ước không làm hại mạng ai,
Quyết lòng hành động chánh chân hoài,
Ân cần tận tụy hầu hai vị,
Không mệt mỏi cho dẫu tối ngày.

2039. Etena saccavajjena putto uppajjataṃ ise, musā me bhaṇamānāya muddhā phalatu sattadhā.  

2039. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói chân thật này, xin cho đứa con trai hãy được sanh ra. Nếu thiếp đang nói lời dối trá, thì cái đầu hãy vỡ tan thành bảy mảnh.

6. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
Cầu mong vương tử được ngài ban,
Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.

2040. Soḷasitthisahassāni sahabhariyāni brāhmaṇa, tāsu issā vā kodho vā nāhu mayhaṃ kudācanaṃ.  

2040. Thưa vị Bà-la-môn, có mười sáu ngàn vương phi. Thiếp đã không bao giờ có sự ganh tỵ hay giận dữ đối với các nàng ấy.

7. Thứ phi sau thiếp cứ tăng dần,
Mời sáu ngàn không thiếu một nàng,
Tuy thế, chẳng hề, thưa Thánh giả,
Xảy hờn ghen giữa đám hồng quân.

2041. Hitena tāsaṃ nandāmi na ca me kāci appiyā, attānaṃ vānukampāmi sadā sabbā sapattiyo.  

2041. Thiếp vui mừng với việc các nàng ấy có được điều tốt đẹp, và không nàng nào là không được thiếp yêu thương. Thiếp luôn luôn cảm thông với tất cả các cô vợ chung chồng tựa như với chính bản thân mình.

8. Thiếp mừng khi chúng được an lành,
Với mọi cung phi, thắm thiết tình,
Lòng thiếp nhân từ cùng tất cả,
Khác nào đối với bản thân mình.

2042. Etena saccavajjena putto uppajjataṃ ise, musā me bhaṇamānāya muddhā phalatu sattadhā.

2042. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói chân thật này, xin cho đứa con trai hãy được sanh ra. Nếu thiếp đang nói lời dối trá, thì cái đầu hãy vỡ tan thành bảy mảnh.

9. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
Cầu mong vương tử được ngài ban,
Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.

2043. Dāse kammakare pesse ye caññe anujīvino, posemi sahadhammena sadā pamuditindriyā.  

2043. Đối với các nô bộc, các người làm công, các người hầu, và những người khác có cuộc sống phụ thuộc, thiếp chu cấp cho họ một cách hợp lý, luôn luôn có thần thái vui vẻ.

10. Nô tỳ, thị giả, mọi gia nhân,
Tất cả nơi đây ở hợp quần,
Thiếp đối ân cần, ban thực phẩm,
Tươi cười nét mặt tạo hân hoan.

2044. Etena saccavajjena putto uppajjataṃ ise, musā me bhaṇamānāya muddhā phalatu sattadhā.  

2044. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói chân thật này, xin cho đứa con trai hãy được sanh ra. Nếu thiếp đang nói lời dối trá, thì cái đầu hãy vỡ tan thành bảy mảnh.

11. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
Cầu mong vương tử được ngài ban,
Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.

2045. Samaṇe brāhmaṇe cāpi aññe vāpi vaṇibbake, tappemi annapānena sadā payatapāṇinī.

2045. Đối với các vị Sa-môn, các vị Bà-la-môn, hoặc luôn cả những người nghèo khổ, thiếp làm cho họ toại ý với cơm ăn và nước uống, luôn luôn là người có bàn tay mở ra.

12. Các nhà ẩn sĩ, Bà-la-môn,
Hễ thấy người nào đến khẩn van,
Thiếp đãi uống ăn đều khắp cả,
Ðôi bàn tay rửa sạch hoàn toàn.

2046. Etena saccavajjena putto uppajjataṃ ise, musā me bhaṇamānāya muddhā phalatu sattadhā.  

2046. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói chân thật này, xin cho đứa con trai hãy được sanh ra. Nếu thiếp đang nói lời dối trá, thì cái đầu hãy vỡ tan thành bảy mảnh.

13. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
Cấu mong vương tử được ngài ban,
Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.

2047. Cātuddasi paṇṇarasi yāva pakkhassa aṭṭhami, pāṭihāriyapakkhañca aṭṭhaṅgasusamāhitaṃ, uposathaṃ upavasāmi sadā sīlesu saṃvutā.  

2047. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, với cả ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng, thiếp hành trì ngày trai giới được tốt đẹp trọn vẹn tám điều, luôn luôn thu thúc trong các giới.

14. Vào ngày mống tám, nửa tuần trăng,
Mười bốn, mười lăm, các buổi rằm,
Thiếp vẫn chuyên tâm trì giới luật,
Bước theo Thánh đạo của hiền nhân.

2048. Etena saccavajjena putto uppajjataṃ ise, musā me bhaṇamānāya muddhā phalatu sattadhā.  

2048. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói chân thật này, xin cho đứa con trai hãy được sanh ra. Nếu thiếp đang nói lời dối trá, thì cái đầu hãy vỡ tan thành bảy mảnh.”

15. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
Cầu mong vương tử được ngài ban,
Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.

2049. Sabbeva te dhammaguṇā rājaputti yasassini, saṃvijjanti tayi bhadde ye tvaṃ kittesi attani.  

2049. “Này nàng công chúa có danh tiếng, toàn bộ tất cả các đức hạnh mà nàng tán dương về bản thân, này người nữ hiền thục, các đức hạnh ấy được tìm thấy ở nàng.

16. Nương nương hỡi, Chánh hậu Huy Hoàng,
Công đức này cao trọng thập toàn
Ðều thấy trong nàng, này Chánh hậu,
Chính nàng ca ngợi đại danh nàng.

2050. Khattiyo jātisampanno abhijāto yasassimā, dhammarājā videhānaṃ putto uppajjate tavaṃ.  

2050. Một vị Sát-đế-lỵ thành tựu về dòng dõi, được sanh ra tốt đẹp, có danh tiếng, vị vua công chính của xứ sở Videha, sẽ là người con trai được sanh lên cho nàng.”

17. Một hoàng nam chính thống cao sang,
Muôn vẻ vinh quang, trí vẹn toàn,
Ðại đế Vi-đề-ha chánh trực,
Sắp ra đời đó chính con nàng.

2051. Rummi rajojalladharo aghe vehāsayaṃ ṭhito, manuññaṃ bhāsasi vācaṃ yaṃ mayhaṃ hadayaṅgamaṃ.  

2051. “Dơ bẩn, mang theo bụi bặm và cáu ghét, đứng ở không trung trên bầu trời, ngài nói lời nói làm thích ý, có sự chạm đến trái tim của thiếp.

18. Bụi bẩn, lấm lem tóc rối bồng,
Hình ngài lơ lửng ở trên không,
Nói bằng một giọng đầy thân ái,
Lám thiếp cảm rung tận cõi lòng.

2052. Devatānusi saggamhā isivāsi mahiddhiko, kovāsi tvaṃ anuppatto attānaṃ me pavedaya.

2052. Phải chăng ngài là vị Thiên nhân từ cõi Trời, hay là vị ẩn sĩ có đại thần lực? Ngài là ai mà đã ngự đến đây? Xin ngài hãy cho thiếp biết về bản thân ngài.”

19. Có phải ngài Thiên đế đại hùng,
Trên trời ngài ngự, hỡi hiền nhân?
Xin cho thiếp biết từ đâu đến,
Cho biết là ai đó giáng trần?

2053. Yaṃ devasaṅghā vandanti sudhammāyaṃ samāgatā, sohaṃ sakko sahassakkho āgatosmi tavantike.

2053. “Hội chúng chư Thiên hội tụ ở giảng đường Sudhammā đảnh lễ vị nào, thì vị ấy chính là ta, Thiên Chủ Sakkha, vị có ngàn mắt, ta đã đi đến gặp nàng.

20. “Thiên nhãn Sak-ka” nàng thấy đây,
Vì Thiên chúng vẫn gọi như vầy.
Những khi Thiên chúng đều đoàn tụ
Trong Thiện pháp đường mỹ diệu thay.

2054. Itthiyo jīvalokasmiṃ yā honti samacārinī, medhāvinī sīlavatī sassudevā patibbatā.

2054. Các người nữ ở thế gian của cuộc sống là những người sống yên tịnh, có trí tuệ, có giữ giới, kính mẹ chồng như Thiên thần, chung thủy.

21. Khi nữ nhân hiền đức vẹn toàn,
Tại đây được thấy giữa trần gian,
Chánh chân nội tướng đầy nhân ái
Với mẹ chồng, như phận sự nàng.

2055. Tādisāya sumedhāya sucikammāya nāriyā, devā dassanamāyanti mānusiyā amānusā.

2055. Với người nữ thông minh, có việc làm trong sạch như thế ấy, chư Thiên, hạng không phải là người, đi đến gặp nàng, thuộc hạng người.

22. Khi chư Thiên biết một hồng nhan,
Lòng trí cao minh, nghiệp thiện toàn,
Dù nữ nhi, mà từ thượng giới,
Thiên chúng đích thân đến với nàng.

2056. Tvañca bhadde suciṇṇena pubbe sucaritena ca, idha rājakule jātā sabbakāmasamiddhinī.

2056. Này người nữ hiền thục, với thiện hạnh đã khéo được thực hành trước đây, nàng đã được sanh vào gia tộc vua chúa ở nơi này, là người nữ có sự thành tựu mọi ước muốn.

23. Giữ đời đức hạnh, hỡi Nương nương,
Nhờ tích trữ toàn việc thiện lương,
Công chúa xuất thân, đà đạt được
Trọn niềm hạnh phúc vẫn cầu mong.

2057. Ayañca te rājaputti ubhayattha kaṭaggaho, devalokūpapatti ca kitti ca idha jīvite.

2057. Hỡi nàng công chúa, đây là vận mệnh tốt đẹp của nàng ở cả hai nơi: sự sanh lên thế giới chư Thiên và danh tiếng ở cuộc sống tại nơi này.

24. Vậy nàng gặt hái nghiệp duyên nàng
Bằng cảnh huy hoàng ở thế gian,
Công chúa, về sau trên thượng giới
Tái sinh nàng được hóa Thiên thần.

2058. Ciraṃ sumedhe sukhinī dhammaṃ pālayamattani, esāhaṃ tidivaṃ yāmi piyamme tava dassanan ”ti.

6. Surucijātakaṃ.

2058. Này người nữ thông minh, này người nữ có hạnh phúc, nàng hãy gìn giữ thiện pháp lâu dài ở bản thân. Ta đây đi về cõi Trời. Việc gặp gỡ nàng là đáng quý đối với ta.”

6. Bổn sanh Vua Suruci. [489]

25. Nữ nhi hiền đức, hưởng hồng ân!
Cứ sống giữ gìn hạnh chánh chân,
Nay lúc ta cần về thượng giới,
Vui mừng vì diện kiến tôn nhan.

Câu chuyện 489

2059. Appossukkodāni tuvaṃ kapota vihaṅgama na tava bhojanattho, khudaṃ pipāsaṃ adhivāsayanto kasmā bhavaṃ posathiko kapoto.

2059. “Này chim bồ câu, giờ đây ngươi ít ham muốn. Này chim, phải chăng đối với ngươi không có nhu cầu về vật thực? Này bạn, vì sao chim bồ câu lại chịu đựng đói, khát và trở thành vị thực hành trai giới?”

1. Ta chắc giờ chim thiểu dục rồi,
Nay Bồ câu chẳng muốn tìm mồi,
Tại sao đành chịu nằm thèm khát,
Sao nguyện theo Trai giới hỡi ngài?

2060. Ahaṃ pure giddhigato kapotiyā asmiṃ padesasmiṃ ubho ramāma, athaggahī sākuṇiko kapotiṃ akāmako tāya vinā ahosiṃ.

2060. “Trước đây, tôi đã đi đến sự say đắm với chim bồ câu mái. Cả hai chúng tôi vui thú ở khu vực này. Rồi con diều hâu đã bắt đi chim bồ câu mái. Không có chim mái, tôi đã trở thành kẻ không còn ham muốn.

2. Xin đầy tham đắm, cặp uyên ương
Ðùa giỡn quanh đây tựa phượng loan,
Ưng ác chụp nàng, bay biến mất,
Chia lìa duyên kiếp đã tan hoang!

2061. Nānābhavā vippayogena tassā manomayaṃ vedanaṃ vediyāmi, tasmā ahaṃ posathaṃ pālayāmi rāgo mamaṃ mā punarāgamāsi.

2061. Do trạng thái xa cách bởi sự tách rời của chim mái, tôi cảm nhận rằng cảm thọ được tạo thành bởi ý. Vì thế, tôi gìn giữ ngày trai giới, mong rằng sự luyến ái chớ quay lại với tôi.”

3. Con biết niềm mất mát phủ phàng,
Bạo tàn, khốc liệt biết bao đường,
Con nhìn mọi vật, lòng đau đớn;
Vì thế con tìm đến náu nương
Nhờ giới hạnh, thề nguyền ái dục
Chẳng bao giờ trở lại lòng con.

2062. Anujjugāmi uraga dvijivha dāṭhāvudho ghoravisosi sappa, khudaṃ pipāsaṃ adhivāsayanto kasmā bhavaṃ posathiko nu dīgho.

2062. “Này con vật có sự di chuyển ngoằn ngoèo, này con vật di chuyển bằng ngực, này con vật có hai lưỡi, này rắn, ngươi có răng nanh là vũ khí, có nọc độc dữ dội. Này bạn, vì sao rắn lại chịu đựng đói, khát và trở thành vị thực hành trai giới?”

4. Vật ở cây, bò sát cuộn mình,
Ðầy răng nhọn hoắc, nọc truyền nhanh,
Rắn sao muốn giữ truyền Trai giới,
Sao đói khát cam chịu cố tình?

2063. Usabho ahū balavā gāmikassa calakkakū vaṇṇabalūpapanno, maṃ akkami taṃ kupito aḍaṃsiṃ dukkhābhituṇṇo maraṇaṃ upāgami.

2063. “Con bò mộng của chủ làng có sức mạnh, có cục bướu rung rinh, đã đạt được tướng mạo và sức vóc. Nó đã đạp lên tôi. Bị tức giận, tôi đã cắn nó. Bị giày vò bởi nỗi đau đớn, nó đã đi đến sự chết.

5. Con bò thôn trưởng thật oai hùng,
Dáng đẹp, lưng gù cứ chuyển rung,
Bò gầm lên, con hờn cắn nó,
Ðau đớn, bò chết ngã lăn đùng!

2064. Tato janā nikkhamitvāna gāmā kanditvā roditva apakkamiṃsu, tasmā ahaṃ posathaṃ pālayāmi kodho mamaṃ mā punarāgamāsi.

2064. Do đó, dân chúng đã đi ra khỏi ngôi làng, than van, khóc lóc, rồi đã bỏ đi. Vì thế, tôi gìn giữ ngày trai giới, mong rằng sự giận dữ chớ quay lại với tôi.”

6. Dân làng mọi kẻ đổ ra đường,
Than khóc vì trông thấy tận tường,
Vì vậy con nương nhờ giới hạnh,
Thề sân hận chẳng trở về con.

2065. Matāna maṃsāni bahū susāne manuññarūpaṃ tava bhojanetaṃ, khudaṃ pipāsaṃ adhivāsayanto kasmā bhavaṃ posathiko sigālo.

2065. “Có nhiều thịt của những xác chết ở bãi tha ma. Thức ăn này có vẻ hợp ý đối với ngươi. Này bạn, vì sao chó rừng lại chịu đựng đói, khát và trở thành vị thực hành trai giới?”

7. Xác chết, thức ăn quý sẵn đầy,
Nằm trong nghĩa địa rã tan thây,
Chó rừng, sao chịu đành thèm khát,
Sao lại thề tuân giới hạnh này?

2066. Pavissa kucchiṃ mahato gajassa kuṇape rato hatthamaṃse pagiddho, uṇho ca vāto tikhiṇā ca rasmiyo te sosayuṃ tassa karīsamaggaṃ.

2066. “Vui thích với xác chết, bị khởi tham đắm với thịt voi, tôi đã đi vào bụng của một con voi to lớn. Sức nóng, gió, và ánh nắng gay gắt, chúng đã làm khô héo hậu môn của con voi.

8. Tìm được voi và thích thịt ngon,
Con vào bụng nó ở lỳ luôn
Song nhiều gió mạnh, trời gay gắt
Làm héo khô khe hở chó chun!

2067. Kiso ca paṇḍū ca ahaṃ bhadante na me ahū nikkhamanāya maggo, mahā ca megho sahasā pavassi so temayī tassa karīsamaggaṃ.

2067. Thưa bậc đáng kính, tôi trở nên gầy ốm và vàng vọt. Con đường trở ra của tôi đã không còn. Và có đám mây lớn đã đổ mưa dữ dội; nó đã làm ẩm ướt hậu môn của con voi.

9. Tôn giả, con vàng võ, ốm gầy,
Vì không lối thoát, phải nằm đây,
Rồi cơn bão nọ bùng vang dội
Làm ướt, mềm đi ngã hậu này.

2068. Tato ahaṃ nikkhamissaṃ bhadante cando yathā rāhumukhā pamutto, tasmā ahaṃ posathaṃ pālayāmi lobho mamaṃ mā punarāgamāsi.

2068. Thưa bậc đáng kính, do đó, tôi đã đi ra khỏi, giống như mặt trăng đã được thoát khỏi miệng của Rāhu (nguyệt thực). Vì thế, tôi gìn giữ ngày trai giới, mong rằng sự tham lam chớ quay lại với tôi.”

10. Ðể thoát ra, con chẳng chậm đâu
Như trăng thoát khỏi vuốt la-hầu,
Nên con chạy đến nhờ Trai giới,
Con nguyện tham tâm tránh chạy mau.

2069. Vammika thūpasmiṃ kipillikāni nippothayanto tuvaṃ pure carāsi, khudaṃ pipāsaṃ adhivāsayanto kasmā bhavaṃ posathiko nu accho.

2069. “Trước đây, ngươi sống trong khi ăn các con mối ở gò mối. Này bạn, vì sao gấu lại chịu đựng đói, khát và trở thành vị thực hành trai giới?”

11. Ngài có thói xưa vẫn kiếm mồi
Nằm trên tổ kiến, Gấu Ông ơi,
Sao nay lại chịu nằm thèm khát,
Sao muốn thề nguyền Trai giới thôi?

2070. Sakaṃ niketaṃ atihīlayāno atricchatāya malataṃ agañchiṃ, tato janā nikkhamitvāna gāmā kodaṇḍakena paripothayiṃsu maṃ.

2070. “Trong khi nguyền rủa thậm tệ chỗ ở của mình, tôi đã đi đến Malatā vì cơn đói dữ dội. Do đó, dân chúng đã đi ra khỏi ngôi làng và đã đánh tôi tới tấp bằng gậy gộc, đùi cui.

12. Bỏ nhà vì quá đói trong lòng,
Con đến Mal-la, chạy vội vàng
Dân chúng trong làng đều đổ đến,
Dùng cung, gậy, chúng đánh hung tàn.

2071. So bhinnasīso ruhiramakkhitaṅgo paccāgamāsiṃ sakaṃ niketaṃ, tasmā ahaṃ posathaṃ pālayāmi atricchatā mā punarāgamāsi.

2071. Với đầu bị vỡ, với thân thể bị lem luốc máu me, tôi đã đi về lại chỗ ở của mình. Vì thế, tôi gìn giữ ngày trai giới, mong rằng cơn đói dữ dội chớ quay lại với tôi.”

13. Mình con vấy máu, vỡ tan đầu,
Con chạy về nơi trú ẩn mau,
Vì vậy con nguyền theo giới hạnh,
Dục tham chẳng kéo đến ngày sau.

2072. Yaṃ no apucchittha tuvaṃ bhadante sabbeva vyākarimha yathāpajānaṃ, mayampi pucchāma tavaṃ bhadante kasmā bhavaṃ posathiko nu brahme.

2072. “Thưa bậc đáng kính, việc mà ngài đã hỏi chúng tôi, tất cả chúng tôi đã trả lời theo sự hiểu biết. Thưa bậc đáng kính, chúng tôi cũng xin hỏi ngài. Thưa vị Bà-la-môn, vì sao ngài lại chịu đựng đói, khát và trở thành vị thực hành trai giới?”

14. Ðiều ấy, ngài mong muốn giải bày,
Mọi điều con biết, đã thưa thầy,
Song nay đến lượt mình, xin hỏi:
Tôn giả sao theo hạnh nguyện này?

2073. Anūpalitto mama assamamhi paccekabuddho muhuttaṃ nisīdi, so maṃ avedi gatimāgatiñca nāmañca gottaṃ caraṇañca sabbaṃ.

2073. “Một vị Độc Giác Phật, bậc không bị ô nhiễm, đã ngồi chốc lát ở khu ẩn cư của ta. Vị ấy đã cho ta biết về nơi đi và nơi đến, danh tánh, dòng họ, và tất cả tánh hạnh (của ta trong tương lai).

15. Một vì Ðộc Giác Phật qua đây
Chốc lát trong am, đã giải bày
Mọi việc vãng lai, danh tiếng, hiệu,
Gia đình và đạo lộ sau này.

2074. Evampahaṃ naggahe tassa pāde a cāpi naṃ mānagatena pucchiṃ, tasmā ahaṃ posathaṃ pālayāmi māno mamaṃ mā punarāgamāsī ”ti.

7. Pañcuposathajātakaṃ.

2074. Dầu là như vậy, ta đã không sờ vào bàn chân của vị ấy, và ta cũng đã không hỏi ngài, bởi vì đã bị ngã mạn chế ngự. Vì thế, ta gìn giữ ngày trai giới, mong rằng ngã mạn chớ quay lại với ta.”

7. Bổn sanh Năm Vị Hành Trai Giới. [490]

16. Ta không quỳ, bởi quá kiêu căng
Ở trước chân Ngài, chẳng hỏi han,
Vì thế, ta nương vào giới hạnh,
Ðể kiêu căng ấy chẳng đeo gần.

Câu chuyện 490

2075. Sace hi tyāhaṃ dhanahetu gahito mā maṃ vadhi jīvagāhaṃ gahetvā,rañño ca maṃ samma upenti nehi maññe dhanaṃ lacchasi napparūpaṃ.

2075. “Quả thật, nếu ta đã bị ông bắt vì nguyên nhân tài sản, thì chớ gây thương tích cho ta sau khi đã bắt sống. Này ông bạn, ông hãy đưa ta về gặp đức vua. Ta nghĩ ông sẽ nhận được tài sản không phải là ít.”

1. Bắt ta, bạn sẽ được ngàn vàng,
Bắt sống, xin đừng bắn bị thương,
Van bạn đem ta về chúa thượng,
Chắc ngài sẽ thưởng thật giàu sang.

2076. Na me ayaṃ tumhe vadhāya ajja samāhito cāpavare khurappo,pāsañca tyāhaṃ adhipātayissaṃ yathā sukhaṃ gacchatu morarājā.

2076. “Mũi tên này của tôi đã được đặt vào cây cung cao quý không phải để giết chết Công ngày hôm nay. Tôi sẽ phá vỡ cái bẫy ở chân Công. Này vua của loài công, Công hãy ra đi một cách thoải mái.”

2. Trên cung, ta chẳng ráp tên này
Ðể bắn chim, Công chúa, ở đây
Ta muốn cắt dây thòng lọng ấy
Ðể chim tùy ý, hãy xa bay!

2077. Yaṃ satta vassāni mamānubandhi rattindivaṃ khuppipāsaṃ sahanto, atha kissa maṃ pāsavasūpanītaṃ pamuttave icchasi bandhanasmā.

2077. “Ông đã theo đuổi ta bảy năm, chịu đựng đói khát đêm ngày. Giờ ta đã bị rơi vào sự khống chế của cái bẫy thì ông lại muốn giải thoát khỏi sự trói buộc cho ta?

3. Bảy năm theo đuổi, thợ săn này,
Ðói khát, bạn cam chịu tháng ngày,
Bạn muốn gì, nay ta mắc bẫy,
Vì sao muốn thả để ta bay?

2078. Pāṇātipātā virato nusajja abhayaṃ nu te sabbabhūtesu dinnaṃ, yaṃ maṃ tuvaṃ pāsavasūpanītaṃ pamuttave icchāsi bandhanasmā.

2078. Khi ta đã bị rơi vào sự khống chế của cái bẫy thì ông lại muốn giải thoát khỏi sự trói buộc cho ta. Phải chăng hôm nay ông kiêng cữ việc giết hại mạng sống? Phải chăng pháp không sợ hãi được ông ban phát cho tất cả chúng sanh?”

4. Hiển nhiên mọi vật được an lành,
Bạn nguyện từ đây bỏ sát sinh,
Mắc bẫy thân ta, tuy thế bạn
Muốn ta được thả để bay nhanh!

2079. Pāṇātipātā viratassa brūhi abhayañca yo sabbabhūtesu deti, pucchāmi taṃ morarājetamatthaṃ ito cuto kiṃ labhate sukhaṃ so.

2079. “Xin Công hãy nói về người kiêng cữ việc giết hại mạng sống, là người ban phát pháp không sợ hãi cho tất cả chúng sanh. Này vua của loài công, tôi hỏi Công ý nghĩa này: Sau khi từ đây chết đi, người ấy đạt được sự an vui gì?

5. Khi người từ bỏ sát quần sinh,
Nhờ nó, muôn loài thoát hãi kinh,
Phước đức nào đời sau sẽ đến,
Việc này, Khổng tước đáp cho mình.

2080. Pāṇātipātā viratassa brūmi abhayañca yo sabbabhūtesu deti, diṭṭheva dhamme labhate pasaṃsaṃ saggañca so yāti sarīrabhedā.

2080. “Ta nói về người kiêng cữ việc giết hại mạng sống, là người ban phát pháp không sợ hãi cho tất cả chúng sanh. Ngay trong kiếp hiện tại này, nhận được sự khen ngợi, và người ấy đi đến cõi trời khi cơ thể rã tan.”

6. Nhờ nó muôn loài thoát hãi kinh
Khi người thề chẳng sát quần sinh,
Ðời này nó được nhiều ca ngợi,
Thiên giới, đời sau hưởng phước lành.

2081. Na santi devā iccāhu eke idheva jīvo vibhavaṃ upeti, tathā phalaṃ sukatadukkatānaṃ dattupaññattañca vadanti dānaṃ, tesaṃ vaco arahataṃ saddahāno tasmā ahaṃ sakuṇe bādhayāmi.

2081. “Một số vị (Sa-môn và Bà-la-môn) đã nói rằng: ‘Chư Thiên không hiện hữu. Cuộc sống ở tại nơi này đi đến sự tiêu tan. Tương tự, quả báo của việc làm tốt và việc làm quấy cũng đi đến sự tiêu tan.’ Họ nói sự bố thí là trạng thái trí tuệ của người ngu si. Có sự tin tưởng vào lời nói của các bậc A-la-hán ấy, vì thế, tôi đánh bắt các con chim.”

7. Nhiều người nói chẳng có Thiên thần,
Cực lạc, đời này có thể mang;
Sinh quả dữ lành ngay hiện tại;
Vì nhiều bậc Thánh đã cho rằng:
Thi ân là việc đầy ngu xuẩn,
Vì thế tôi thường đánh bẫy săn
Chim thú, giờ đây tôi muốn hỏi:
Lời kia xứng đáng để tin chăng?

2082. Cando ca suriyo ca ubho sudassanā gacchanti obhāsayamantalikkhe, imassa lokassa parassa vā te kathannu te āhu manussaloke.

2082. “Mặt trăng và mặt trời, cả hai đều dễ dàng nhìn thấy. Trong khi chiếu sáng, chúng di chuyển ở không trung. Chúng thuộc về thế giới này hay thế giới khác? Vậy ở thế giới nhân loại, người ta đã nói về chúng như thế nào?”

8. Ðôi vầng nhật nguyệt rõ ràng ràng
Ði khắp trời cao tỏa sáng quang;
Người gọi là gì nơi hạ giới,
Thuộc về cõi khác hoặc trần gian?

2083. Cando ca suriyo ca ubho sudassanā gacchanti obhāsayamantalikkhe, parassa lokassa na te imassa evāti te āhu manussaloke.

2083. “Mặt trăng và mặt trời, cả hai đều dễ dàng nhìn thấy. Trong khi chiếu sáng, chúng di chuyển ở không trung. Chúng thuộc về thế giới khác, không thuộc về thế giới này. Ở thế giới nhân loại, người ta đã nói về chúng là: ‘Chư Thiên.’”

9. Rõ ràng nhật nguyệt thấy đôi vầng
Ði khắp trời cao, tỏa ánh quang;
Chúng chẳng thuộc về nơi hạ giới,
Mà về cõi khác: miệng người trần.

2084. Ettheva te nihatā hīnavādā ahetukā ye na vadanti kammaṃ, tathā phalaṃ sukatadukkatānaṃ dattupaññattaṃ ye ca vadanti dānaṃ.

2084. “Ngay ở nơi này, những vị (Sa-môn và Bà-la-môn) ấy là có học thuyết hạ liệt, bị đánh giá thấp. Những kẻ chủ trương vô nhân không nói về nghiệp. Tương tự, quả báo của việc làm tốt và việc làm quấy là không có.’ Và họ nói sự bố thí là trạng thái trí tuệ của người ngu si.”

10. Vậy chúng đều sai lạc cả bầy,
Những người gian dối nói như vầy!
Chẳng vì duyên cớ gì đi nữa
Lại bảo chỉ riêng thế giới này
Mang nghiệp quả lành hay quả dữ,
Còn xem bố thí việc ngu thay!

2085. Addhā hi saccaṃ vacanaṃ tavetaṃ kathaṃ hi dānaṃ aphalaṃ vadeyya, tathā phalaṃ sukatadukkatānaṃ dattupaññattañca kathaṃ bhaveyya.

2085. “Quả đúng vậy, lời nói ấy của ngài là sự thật. Bởi vì, làm sao có thể nói bố thí là không có quả báo? Tương tự, quả báo của việc làm tốt và việc làm quấy (làm sao lại không có). Và tại sao sự bố thí lại có thể là trạng thái trí tuệ của người ngu si?

11. Ðiều này ngài nói quả là chân,
Sao có người kia lại bảo rằng:
“Bố thí không mang về kết quả?
Rằng đây, ngay ở cõi phàm trần.
Người ta gặt quả lành hay dữ,
Bố thí là công việc độn đần?”

2086. Kathaṃ karo kintikaro kimācaraṃ kiṃ sevamāno kena tapoguṇena, kkhāhi me morarājetamatthaṃ yathā ahaṃ no nirayaṃ pateyyaṃ.

2086. Làm như thế nào? Làm việc gì? Thực hành điều gì? Trong khi thân cận cái gì? Với loại khắc khổ gì? Này vua của loài công, xin Công hãy giải thích cho tôi để tôi không phải đọa vào địa ngục.”

12. Cách nào nên sống, phải làm gì?
Thánh đạo là đâu, phải bước đi?
Công chúa, xin ngài cho lão biết,
Pháp môn khổ hạnh phải hành trì,
Cầu mong lão được chim Công chúa
Cứu khỏi chim vào địa ngục kia!

2087. Ye keci atthi samaṇā pathavyā kāsāvavatthā anagāriyā te, pātova piṇḍāya caranti kāle vikālacariyā viratā hi santo.

2087. “Có những vị Sa- môn ở trái đất, các vị ấy mặc vải màu ca-sa, sống không nhà, đi khất thực đúng thời vào lúc sáng sớm, bởi vì các bậc an tịnh kiêng cử việc khất thực phi thời.

13. Người truyền khổ hạnh ở trần gian,
Chằng ở nhà đâu, đắp áo vàng,
Sáng sớm đi ra đường khất thực,
Không đi chiều tối: chính hiền nhân.

2088. Te tattha kālenupasaṅkamitvā pucchasi yante manaso piyaṃ siyā, te te pavakkhanti yathā pajānaṃ imassa lokassa parassa catthaṃ.

2088. Ông hãy đi đến gặp các vị ấy ở nơi ấy vào lúc hợp thời và hãy hỏi điều ông yêu thích ở trong tâm. Các vị ấy sẽ giải thích các điều ấy và ý nghĩa của thế gian này và thế gian khác theo sự hiểu biết.”

14. Ðúng thời thăm các thiện nhân vầy,
Bạn sẽ vui lòng, dẫu hỏi ai
Giải vấn đề, vì chư vị biết
Cõi trên kia với cõi đời náy.

2089. Tacaṃva jiṇṇaṃ urago purāṇaṃ paṇḍūpalāsaṃ harito dumova, esappahīno mama luddabhāvo pajahāmahaṃ luddakabhāvamajja.

2089. “Tựa như con rắn (lột bỏ) lớp da cũ đã bị già cỗi, ví như cây còn xanh (giũ bỏ) chiếc lá úa vàng, cuộc đời thợ săn này của tôi đã được dứt bỏ. Hôm nay, tôi dứt bỏ cuộc đời thợ săn.

15. Như rắn lột quăng lớp vỏ tàn,
Lá khô cây trút lúc xanh dần,
Hôm nay ta bỏ nghề săn bắn,
Mãi mãi xa lìa nghiệp thợ săn.

2090. Ye cāpi me sakuṇā atthi baddhā satāni nekāni nivesanasmiṃ, tesaṃpahaṃ jīvitaṃ ajja dammi mokkhañca te patto sakaṃ niketaṃ.

2090. Và luôn cả những con chim đã bị tôi giam giữ là có đến hàng trăm ở chỗ trú ngụ của tôi. Hôm nay, tôi ban tặng cuộc sống cho chúng, và tôi đã đạt được sự giải thoát, còn chúng bay về chỗ ở của mình.”

16. Tất cả chim nào ta đã giam
Trong nhà, ta có đến hàng trăm,
Nay ta trả cuộc đời cho chúng
Về tổ, bầy chim được thoát nạn.

2091. Luddo carī pāsahattho araññe bādhetuṃ morādhipatiṃ yasassiṃ, bandhitva morādhipatiṃ yasassiṃ dukkhā pamucci yathāhaṃ pamutto ”ti.

8. Mahāmorajātakaṃ.

2091. “Người thợ săn đã đi lại ở trong khu rừng, tay cầm bẫy thú để bắt con chim công chúa có danh tiếng. Sau khi bắt được con chim công chúa có danh tiếng, người ấy đã được thoát khỏi khổ, giống như Ta đã được giải thoát.”

8. Bổn sanh Con Chim Công Vĩ Đại. [491]

17. Thợ săn xuyên suốt khắp rừng cây
Tìm kiếm chúa Công, bẫy dưới tay,
Ðã giải thoát đau cho Khổng tước
Khi vừa bị bắt, giống Ta đây.

Câu chuyện 491

2092. Yadesamānā vicarimha pabbatāni vanāni ca, anvesaṃ vicariṃ ñātī teme adhigatā mayā.

2092. “Chúng tôi đã đi lang thang tìm kiếm ở các ngọn núi và các khu rừng, tôi đã đi lang thang tìm kiếm các thân quyến, những vị này đây đã đi đến với tôi.

1. Lang thang tìm kiếm khắp xa gần
Ðồi núi chung quanh, các khóm rừng,
Thơ thẩn ta đi tìm quyến thuộc,
Kìa! Ta tìm thấy đám thân bằng!

2093. Bahuṃ idaṃ mūlaphalaṃ bhakkho cāyaṃ anappako, rammā cimā giri nadiyo phāsu vāso bhavissati.

2093. Rễ và trái cây này có nhiều, thức ăn này không phải là ít, ngọn núi và các con sông này là đáng yêu; việc cư ngụ sẽ là thoải mái.

2. Ðây, củ quả rừng phong phú sao
Với kho thực phẩm thật đồi dào!
Núi đồi khe suối xinh tươi quá,
Sống ở đây đời đẹp biết bao!

2094. Idhevāhaṃ vasissāmi saha sabbehi ñātihi, appossukko nirāsaṅkī asoko akutobhayo.

2094. Tôi sẽ trú ngụ ở tại nơi này với tất cả thân quyến. Tôi không năng nỗ, không ngờ vực, không sầu muộn, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu.”

3. Ta sống đây toàn quyến thuộc thân,
Hưởng thư nhàn, chẳng phải băn khoăn,
Cũng không lo lắng và kinh hãi,
Dù chuyện gì do phía địch quân.

2095. Aññaṃ hi lenaṃ pariyesa sattu no idha vijjati, so taccha sūkare hanti idhāgantvā varaṃ varaṃ.

2095. “Bạn nên tìm kiếm chỗ trú khác đi. Kẻ thù của chúng ta có mặt ở nơi này. Này heo Taccha, gã ấy đi đến nơi này và giết chết những con heo rừng mập nhất, ngon nhất.”

4. Cừu địch là đây! Ở chốn nào,
Xin tìm đường lối ẩn thân vào,
Nó thường giết hại, này Thợ mộc,
Lợn đẹp nhất đàn, loại tối cao!

2096. Ko namhākaṃ idha sattu ko ñātī susamāgate, appadhaṃse padhaṃseti tamme akkhātha pucchitā.

2096. “Vậy ai là kẻ thù của chúng ta ở nơi này? Kẻ nào quấy nhiễu các thân quyến đã khéo tụ tập lại, còn chưa bị quấy nhiễu? Được hỏi, xin các vị hãy giải thích điều ấy cho tôi.”

5. Kẻ thù các bạn ấy đâu đây?
Nói thật cho ta, hạnh ngộ thay!
Kẻ giết họ hàng, ai đó vậy?
Dù là chưa giết trọn luôn bầy.

2097. Uddhaggarājī migarājā balī dāṭhāvudho migo, so taccha sūkare hanti idhāgantvā varaṃ varaṃ.

2097. “Là con thú có các đường sọc đứng ở thân, chúa của loài thú, có sức mạnh, có răng nanh là vũ khí. Này heo Taccha, kẻ ấy đi đến nơi này và giết chết những con heo rừng mập nhất, ngon nhất.”

6. Ðó chính là vua của thú rừng!
Với răng để cắn, sọc đen vằn,
Ấy là mãnh thú oai hùng quá,
Thường giết lợn uu tú nhất đàn!

2098. Na no dāṭhā na vijjanti balaṃ kāye samūhataṃ, sabbe samaggā hutvāna vasaṃ kāhāma ekakaṃ.

2098. “Không phải các răng nanh của chúng ta không có, không phải sức mạnh của chúng ta ở cơ thể bị tiêu hoại. Tất cả chúng ta, sau khi hợp nhất lại, sẽ tạo thành một sức mạnh duy nhất.

7. Thân thể ta tàn hết lực chăng?
Thế sao ta lại chẳng nhe răng?
Nếu ta chung sức thì nhờ vậy
Ta sẽ thắng ngay chú Cọp vằn!

2099. Hadayaṅgamaṃ kaṇṇasukhaṃ vācaṃ bhāsasi tacchaka, yopi yuddhe palāyetha tampi pacchā hanāmase.

2099. “Này heo Taccha, ông nói lời nói thấm vào trái tim, thoải mái lỗ tai. Thậm chí kẻ nào trốn chạy ở chiến trận, sau này chúng ta sẽ giết chết kẻ ấy.”

8. Lời nói này nghe tuyệt diệu thay!
Tượng công, ta thích nói như vầy,
Ðừng cho chú lợn nào đi trốn,
Hoặc bị giết sau trận đấu này.

2100. Pāṇātipātā virato nu ajja abhayaṃ nu te sabbabhūtesu dinnaṃ, dāṭhā nu te miga viriyaṃ na santi yo saṅghapatto kapaṇova jhāyasi.

2100. “Phải chăng hôm nay ngươi kiêng cữ việc giết hại mạng sống? Phải chăng pháp không sợ hãi được ngươi ban phát cho tất cả chúng sanh? Này con thú, phải chăng các răng nanh của ngươi không có sự nỗ lực? Là kẻ đã đạt được bầy heo mà ngươi lại trầm tư như là kẻ ăn mày?”

9. Cọp thề bỏ giết mọi loài chăng?
Cọp đã cho muôn vật vạn toàn,
Chắc hẳn hàm răng không bén nữa,
Ðàn heo đã gặp, lại xin ăn?

2101. Na me dāṭhā na vijjanti balaṃ kāye samūhataṃ, ñātī ca disvāna samaṅgi ekato tasmā jhāyāmi vanamhi ekato.

2101. “Không phải các răng nanh của tôi không có, không phải sức mạnh của tôi ở cơ thể bị tiêu hoại. Nhưng sau khi nhìn thấy các thân quyến có sự chiếm cứ phía bên kia, vì thế, tôi trầm tư ở khu rừng, phía bên này.

10. Răng của ta không cắn được rồi,
Sức ta đà kiệt quệ mà thôi,
Cùng nhau, chúng đứng toàn huynh đệ,
Vì thế ta phiêu bạt lẻ loi.

2102. Imassudaṃ yanti disodisaṃ pure bhayadditā lenagavesino puthū, tedāni saṅgamma vasanti ekako yatthaṭṭhitā duppasahajja te mayā.

2102. Trước đây, những con heo này chạy tứ tán. Bị khốn khổ vì sợ hãi, chúng tìm kiếm nơi nương náu một cách riêng rẽ. Giờ đây, chúng kết hợp lại, sống thành một khối. Hôm nay, tôi khó áp chế được chúng ở nơi chúng sinh sống.

11. Xưa, chúng ngược xuôi, bại tẩu nhanh,
Tìm hang tháo chạy, phách hồn kinh,
Nhưng nay chúng rống, vòng vây chặt,
Vô địch, đấu tranh giáp mặt mình!

2103. Pariṇāyakasampannā sahitā ekavādino, te maṃ samaggā hiṃseyyuṃ tasmā tesaṃ na patthaye.

2103. Đã đạt được người lãnh đạo, đã kết hợp lại, chung một lập trường, có sự hợp nhất, chúng có thể hãm hại tôi; vì thế, đối với chúng, tôi không màng.”

12. Bây giờ chúng thỏa thuận đồng tâm,
Chúng đã bầu lên một tướng quân,
Chúng hại thân này khi hiệp lực,
Nên ta thấy chúng, cũng không cần!

2104. Ekova indo asure jināti ekova seno hanti dije pasayha, ekova vyaggho migasaṅghapatto varaṃ varaṃ hanti balaṃ hi tādisaṃ.

2104. “Chỉ một vị thần Inda chiến thắng các A-tu-la. Chỉ một chim điều hâu giết chết các con chim bằng võ lực. Chỉ một con cọp đạt được bầy thú rồi giết chết con mập nhất, ngon nhất, bởi vì sức mạnh của nó là như thế ấy.”

13. Diều hâu đơn độc giết đàn chim,
Chiến thắng La thần bởi Ðế thiên,
Khi mãnh hổ nhìn bầy dã thú,
Lựa con đẹp nhất, giết êm liền!

2105. Na heva indo na seno napi vyaggho migādhipo, samagge sahite ñātī vyagghe ca kurute vase.

2105. “Tuy nhiên, không phải vị thần Inda, không phải chim điều hâu, cũng không phải con cọp chúa tể loài thú, mà là các thân quyến, khi có sự hợp nhất, khi đã kết hợp lại, có thể tạo ra quyền lực đối với con cọp.”

14. Chẳng diều, chẳng hổ, chúa sơn lâm,
Thiên chủ, làm sao đủ lực thần
Khống chế cả bầy heo đánh Hổ,
Họ hàng hiệp lực để tranh hùng!

2106. Kumbhilakā sakuṇikā saṅghino gaṇacārino, sammodamānā ekajjhaṃ uppatanti ḍayanti ca.

2106. “Những con chim nhỏ kumbhilaka sống theo bầy, di chuyển theo nhóm, vui vẻ cùng nhau nhảy nhót và bay lượn.

15. Con chim bé bỏng phủ đầy lông,
Bay nhảy từng đàn lũ thật đông,
Tụ tập trên cao thành đám lớn,
Cùng nhau lướt nhẹ khoảng trời không.

2107. Tesañca ḍayamānānaṃ ekettha apavattati, tañca seno nitāḷeti veyyagghiyeva sā gati.

2107. Và trong khi chúng đang bay lượn, một con nào trong số đó tách khỏi bầy, chim diều hâu chộp lấy con chim ấy; đường lối ấy phù hợp với cọp.”

16. Một mình đáp xuống, chú diều hâu,
Trong lúc cả bầy chúng giỡn nhau,
Tàn sát chúng ngay như ý muốn,
Ðó là cách Hổ phải theo mau!

2108. Ussāhito jaṭilena luddenāmisacakkhunā, dāṭhī dāṭhīsu pakkhandi maññamāno yathā pure.

2108. “Được khích lệ bởi gã đạo sĩ bện tóc hung bạo, quan tâm vật chất, con thú có răng nanh đã nhảy bổ vào những con thú có răng nanh, nghĩ rằng giống như trước đây.”

17. Với con mắt ác độc thèm ăn,
Cọp tưởng lời này quả thật chân,
Can đảm mồm nhe răng nhọn hoắc,
Nhảy vào đám lợn cũng đầy răng!

2109. Sādhu sambahulā ñātī api rukkhā araññajā, sūkarehi samaggehi vyaggho ekāyane hato.

2109. “Thật là tốt đẹp có nhiều thân quyến, luôn cả các cây cối mọc trong rừng! Con cọp đã bị giết chết ở cái hố bởi những con heo rừng có sự hợp nhất.”

18. Bạn bè hiệp lực tựa cây rừng
Ðó thật là quang cảnh đáng mừng,
Bầy lợn hợp quần, làm nhiệm vụ
Giết ngay Cọp chúa trọn thành công.

2110. Brāhmaṇañceva vyagghañca ubho hantvāna sūkarā, ānandino pamuditā mahānādañca nādisuṃ.

2110. “Sau khi giết chết cả hai là người Bà-la-môn và con cọp, các con heo rừng trở nên hoan hỷ, vui mừng, và chúng đã rống lên tiếng rống lớn. 19. Bầy lợn thế là đã diệt tan
Bà-la-môn với Cọp đen vằn,
Rồi gầm thét, chúng la vang dội
Trong nỗi lòng vui sướng ngập tràn.

2111. Te su udumbaramūlasmiṃ sūkarā susamāgatā, tacchakaṃ abhisiñciṃsu tvaṃ no rājāsi issaro ”ti.

9. Tacchasūkarajātakaṃ.

2111. Rồi ở nơi gốc cây sung, các con heo rừng ấy đã làm lễ rưới nước đăng quang cho con heo rừng Taccha: ‘Ngài là đức vua, là chúa tể của chúng tôi.’”

9. Bổn sanh Heo Rừng Taccha. [492]

20. Bầy heo ở dưới gốc sung rừng
Ðổ nước thánh đầy để tấn phong
Chú Lợn rừng con người Thợ mộc,
Ðồng hô: “Chúa tể của thần dân!”

Câu chuyện 492

2112. Vāṇijā samitiṃ katvā nānāraṭṭhato āgatā, dhanāhārā pakkamiṃsu ekaṃ katvāna gāmaṇiṃ.

2112. “Các thương buôn đi đến từ nhiều quốc độ khác nhau, sau khi lập thành đoàn và bầu lên một người thủ lãnh, họ đã khởi hành mang theo tài sản và lương thực.

1. Từ nhiều quốc độ, các thương nhân
Ðến họp cùng nhau cả một đoàn,
Bầu chọn trưởng đoàn và thẳng tiến
Lên đường tìm kiếm một kho tàng.

2113. Te taṃ kantāramāgamma appabhakkhaṃ anodakaṃ, mahānigrodhamaddakkhuṃ sītacchāyaṃ manoramaṃ.

2113. Sau khi đi đến khu rừng hoang vu ấy, bị thiếu thức ăn, không còn nước, họ đã nhìn thấy cây đa to lớn, có bóng mát, làm thích ý.

2. Ðoàn lữ hành kia thiếu thức ăn
Ðến rừng khô cháy nắng oi nồng,
Chợt nhìn thấy gốc đa hùng vĩ,
Với bóng cây che mát dịu lòng.

2114. Te ca tattha nisīditvā tassa rukkhassa chādiyā, vāṇijā samacintesu bālā mohena pārutā.

2114. Và họ đã ngồi xuống tại đó, ở bóng mát của cây đa ấy. Các thương buôn là những kẻ ngu dốt, bị bao trùm bởi si mê, đã suy nghĩ rằng:

3. Thế rồi dưới tán là cây che,
Cả bọn thương nhân thảy dựa kề,
Lý luận như vầy vì ám độn,
Nghèo nàn trí tuệ, hóa u mê:

2115. Addāyate ayaṃ rukkho api vāri ca sandati, iṅghassa purimaṃ sākhaṃ mayaṃ chindāma vāṇijā.

2115. ‘Cây này bị ẩm ướt, và cũng có nước chảy. Nào, các vị thương buôn, chúng ta hãy chặt cành phía đông của cây này.’

4. “Cây này đầy ẩm ướt bên trong
Từ đó hình như nước có dòng,
Ta hãy chặt từ cây một nhánh,
Cành nào đã mọc hướng về Ðông”.

2116. Sā ca chinnāva pagghari acchaṃ vāriṃ anāvilaṃ, te tattha nahātvā ca pivitvā ca yāvaticchiṃsu vāṇijā.

2116. Và ngay khi được chặt đứt, cành cây ấy đã rỉ ra nước trong sạch, không bị vẩn đục. Các thương buôn ấy, tại đó, đã tắm rửa, đã uống nước cho đến khi đã thỏa ước muốn.

5. Cành kia được chặt, nước tuôn dòng,
Từng giọt tinh nguyên, thật sáng trong,
Cả bọn thương nhân cùng tắm rửa,
Uống cho đến lúc thỏa thuê lòng.

2117. Dutiyaṃ samacintesuṃ bālā mohena pārutā, iṅghassa dakkhiṇaṃ sākhaṃ mayaṃ chindāma vāṇijā.

2117. Những kẻ ngu dốt, bị bao trùm bởi si mê, đã suy nghĩ lần thứ nhì rằng: ‘Nào, các vị thương buôn, chúng ta hãy chặt cành phía nam của cây này.’

6. Lại vì trí tuệ chúng nghèo nàn
Vì sự ngu si đã cản ngăn,
Chúng bảo: “Phía Nam còn một nhánh,
Chúng ta hãy đến cắt nhanh chân”.

2118. Sā ca chinnāva pagghari sālimaṃsodanaṃ bahuṃ, appodavaṇṇe kummāse siṅgiṃ bidalasūpiyo.

2118. Và ngay khi được chặt đứt, cành cây ấy đã rỉ ra nhiều lúa sāli, thịt, cơm, cháo chua kiểu ít nước, mứt gừng, các loại xúp đậu.

7. Cành này vừa chặt xuống liền mang
Lúa gạo, thức ăn cứ chảy tràn,
Cháo đặc, nghệ gừng, cùng xúp đậu
Và nhiều thức ăn khác thật vô vàn.

2119. Te tattha bhutvā khāditvā yāvaticchiṃsu vāṇijā, tatiyaṃ samacintesuṃ bālā mohena pārutā.

2119. Các thương buôn ấy, tại đó, đã ăn, đã nhai cho đến khi đã thỏa ước muốn. Những kẻ ngu dốt, bị bao trùm bởi si mê, đã suy nghĩ lần thứ ba rằng:

8. Bọn thương nhân uống uống ăn ăn,
Chúng nhét vào đầy bụng thật căng,
Rồi bảo với lòng đầy ám độn
Và vì trí tuệ quá nghèo nàn:

2120. Iṅghassa pacchimaṃ sākhaṃ mayaṃ chindāma vāṇijā, sā ca chinnāva paggari nāriyo samalaṅkatā.

2120. ‘Nào, các vị thương buôn, chúng ta hãy chặt cành phía tây của cây này.’ Và ngay khi được chặt đứt, cành cây ấy đã rỉ ra những nữ nhân đã được trang điểm.

9. “Mau lên các bạn phú thương này,
Ta hãy cắt cành lá phía Tây”,
Mỹ nữ cả bầy ùa tứ phía,
Xiêm y lộng lẫy diễm kiều thay!

2121. Vicitra vatthābharaṇā āmuttamaṇikuṇḍalā, apisu vāṇijā ekā nāriyo paṇṇavīsati.

2121. Các nàng có vải vóc và đồ trang sức đủ màu sắc rực rỡ, có các bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni. Mỗi thương buôn được một nữ nhân, và hai mươi lăm nữ nhân (thuộc về người thủ lãnh).

10. Kìa! Xiêm y có đủ muôn màu,
Lủng lẳng vòng vàng với bảo châu,
Trong số cả trăm người mỗi một,
Mỗi chàng chiếm một gái xinh sao!

2122. Samantā parikariṃsu tassa rukkhassa chādiyā, te tāhi paricāresuṃ yāvaticchiṃsu vāṇijā.

2122. Họ đã quây quần xung quanh, ở bóng râm của cây ấy. Các thương buôn ấy đã tiêu khiển với các nàng ấy cho đến khi đã thỏa ước muốn.

11. Cùng đứng bên nhau cả bọn này
Quây quần dưới bóng mát tàn cây,
Ðám thương nhân thảy đều vào giữa,
Ðùa giỡn bày trò thích thú thay!

2123. Catutthaṃ samacintesuṃ bālā mohena pārutā, iṅghassa uttaraṃ sākhaṃ chindāma vāṇijā.

2123. Những kẻ ngu dốt, bị bao trùm bởi si mê, đã suy nghĩ lần thứ tư rằng: ‘Nào, các vị thương buôn, chúng ta hãy chặt cành phía bắc của cây này.’

12. Lại vì trí tuệ chúng nghèo nàn,
Vì sự ngu si đã cản ngăn
Chúng bảo: “Bắc phương còn một nhánh
Chúng ta hãy chặt xuống lìa thân”.

2124. Sā ca chinnāva paggari muttā veḷuriye bahū, rajataṃ jātarūpañca kuttiyo paṭiyāni ca.

2124. Và ngay khi được chặt đứt, cành cây ấy đã rỉ ra nhiều ngọc trai, ngọc bích, bạc, và vàng, các thảm lót và các tấm trải bằng sợi len.

13. Khi cành hướng Bắc chặt vừa xong,
Vàng bỗng tuôn ra cả một dòng,
Bạc chảy đầy tay và thảm quý,
Bào ngọc, trân châu nói chẳng cùng.

2125. Kāsikāni ca vatthāni uddiyāne ca kambale, te tattha bhāre bandhitvā yāvaticchiṃsu vāṇijā.

2125. Các thương buôn ấy, tại đó, đã buộc các tấm vải xứ Kāsi và các tấm mền xứ Uddiya thành các kiện hàng cho đến khi đã thỏa ước muốn.

14. Trang phục Ba-la-nại mượt mà,
Chăn màn dày mỏng thực xa hoa,
Thương nhân lúc ấy liền hành sự
Cuộn hết thành bao lớp lụa là.

2126. Pañcamaṃ samacintesuṃ bālā mohena pārutā, iṅgassa mūlaṃ chindāma api bhiyyo labhāmase.

2126. Những kẻ ngu dốt, bị bao trùm bởi si mê, đã suy nghĩ lần thứ năm rằng: ‘Nào, các vị thương buôn, chúng ta hãy chặt gốc của cây này. Thậm chí chúng ta có thể nhận được nhiều hơn.’

15. Cũng vì ngu muội với si mê,
Chúng lại bảo nhau, như trước kia:
“Ta hãy chặt cây từ gốc rễ,
Chắc càng thâu của cải tràn trề”.

2127. Athuṭṭhahi satthavāho yācamāno katañjalī, nigrodhe kiṃ aparajjhatha vāṇijā bhaddamatthu te.

2127. Khi ấy, vị trưởng đoàn đã đứng dậy, chắp tay yêu cầu rằng: ‘Các vị xúc phạm điều gì đến cây đa? Này các vị thương buôn, cầu mong có sự tốt lành cho quý vị.

16. Kìa vội đứng lên, vị trưởng đoàn
Cúi đầu cung kính, lại thưa rằng:
“Cây đa làm hại gì chư vị,
Mong ước trời cho hưởng phước phần!

2128. Vāridā purimā sākhā annapānaṃ ca dakkhiṇā, nāridā pacchimā sākhā sabbakāme ca uttarā nigrodhe kiṃ aparajjhatha4 vāṇijā bhaddamatthu te.

2128. Cành cây phía đông cho nước, phía nam cho cơm nước, cành phía tây cho phụ nữ, và phía bắc cho tất cả các dục. Các vị xúc phạm điều gì đến cây đa? Này các vị thương buôn, cầu mong có sự tốt lành cho quý vị.’

17. Cành hướng Ðông cho nước chảy tràn,
Cành Nam cho thực phẩm ta ăn
Cành Tây cho các nàng kiều nữ,
Cành Bắc cho tơ lụa bạc vàng,
Cây đó hại gì cho quý vị,
Cầu chư vị hưởng phước trời ban!

2129. Yassa rukkhassa chāyāya nisīdeyya sayeyya vā, na tassa sākhaṃ bhañjeyya mittadubbho hi pāpako.

2129. Người ngồi hoặc nằm ở bóng râm của cây nào thì không nên bẻ gãy cành lá của cây ấy, bởi vì kẻ hãm hại bạn bè là kẻ ác xấu.’

18. Cây này cho bóng mát an nhàn,
Nằm nghỉ, ngồi chơi, những lúc cần,
Không được phá tan cành đổ hết,
Hành vi bừa bãi thực hung tàn!”

2130. Te ca tassa anāditvā ekassa vacanaṃ bahū, nisitāhi kuṭhārīhi mūlato taṃ upakkamuṃ.

2130. Và chúng với số đông đã không nghe theo lời nói của vị ấy có một mình. Chúng đã khởi sự chặt cây đa ấy ở gốc bằng những cái rìu sắc bén.

19. Song ngài chỉ một, chúng từng bầy,
Tiếng nói ngài sao cản chúng đây:
Chúng nện những dao rìu sắc bén
Vào phần gốc để đốn thân cây.

2131. Tato nāgā nikkhamiṃsu sannaddhā paṇṇavīsati, dhanuggahānaṃ tisatā chasahassā ca vammino.

2131. Sau đó, các con rồng đã tiến ra, hai mươi lăm con được vũ trang, ba trăm con cầm cung, và sáu ngàn con cầm tấm chắn.

20. Rắn mặc giáp bào đủ bách quân,
Ðứng lên cùng giữ vững sa trường,
Ba trăm xạ thủ, sáu ngàn nữa
Trang bị mộc khiên với kiếm thần.

2132. Ete hanatha bandhatha mā vo muñcittha jīvitaṃ, ṭhapetvā satthavāhaṃ sabbe bhasmīkarotha te.

2132. ‘Các ngươi hãy giết chết, hãy trói những kẻ này lại. Các ngươi chớ tha cho kẻ nào sống, ngoại trừ vị trưởng đoàn. Các người hãy làm cho tất cả bọn chúng biến thành tro.’

21. Bắn hạ bọn kia, trói chặt mau,
Chẳng tha mạng sống một tên nào,
Ðốt thành tro bụi trừ đoàn trưởng,
Như thế hoàn thành việc đã giao.

2133. Tasmā hi paṇḍito poso sampassaṃ atthamattano, lobhassa na vasaṃ gacche haneyya disataṃ manaṃ.

2133. Chính vì thế, con người sáng suốt, trong khi nhìn thấy lợi ích cho bản thân, không nên rơi vào quyền lực của tham, nên tiêu diệt ý nghĩ thù nghịch.

22. Vậy trí nhân nên thấy thiện hành,
Chẳng bao giờ để bản tâm thành
Tôi đòi nô lệ lòng tham dục,
Phá vỡ mục tiêu đối thủ mình.

2134. Etamādīnavaṃ ñatvā taṇhā dukkhassa sambhavaṃ, vītataṇho anādāno sato bhikkhu paribbaje ”ti.

10. Mahāvāṇijajātakaṃ.

2134. Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) tham ái là nguồn sanh khởi của khổ, vị tỳ khưu có tham ái đã được xa lìa, không có nắm giữ, có niệm, nên sống hạnh du sĩ.”

10. Bổn sanh Người Thương Buôn Vĩ Đại. [493]

23. Bậc trí khi xem việc ác làm
Khổ đau bắt rễ tự lòng tham,
Ðoạn trừ tham dục và dây trói,
Phát nguyện sống đời thanh tịnh tâm.

Câu chuyện 493

2135. Abbhuto vata lokasmiṃ uppajji lomahaṃsano, dibbo ratho pāturahū vedehassa yasassino.

2135. “Thật là phi thường ở thế gian, việc dựng đứng lông đã sanh khởi; Thiên xa đã hiện ra cho vị vua danh tiếng của xứ Videha!”

1. Việc lạ trên trần đã được xem
Làm cho dựng đứng tóc người lên:
Vì mời Ðại đế Vi-đề quốc,
Phái xuống thiên xa tự cõi thiên.

2136. Devaputto mahiddhiko mātali devasārathi, nimantayittha rājānaṃ vedehaṃ mithilaggahaṃ.

2136. Vị Thiên tử có đại thần lực Mātali, người điều khiển Thiên xa, đã thỉnh mời đức vua trị vì kinh thành Mithilā, xứ Videha.

2. Thiên sứ Mà-ta-li đại cường,
Vị thần điều ngự ấy vừa mang
Lời truyền đến tận Vi-đề quốc
Ngay tại kinh thành triệu quốc vương:

2137. Ehimaṃ rathamāruyha rājaseṭṭha disampati, deva dassanakāmā te tāvatiṃsā sa-indakā. saramānā hi te devā sudhammāyaṃ samacchare.

2137. “Tâu vị vua hạng nhất, tâu vị chúa tể một phương, xin bệ hạ hãy đến, hãy bước lên cỗ xe này. Tâu bệ hạ, chư Thiên ở cõi Trời Tam Thập với cả Thiên Chủ Inda có ý muốn nhìn thấy bệ hạ. Bởi vì trong khi tưởng nhớ đến bệ hạ, chư Thiên ngồi chung ở giảng đường Sudhammā.”

3. “Xin tấu Ðại vương, bậc Thánh quân,
Ngự trên xa giá để theo thần,
In-dra Thiên chủ cùng Thiên chúng
Tam thập tam thiên giới lẫy lừng,
Chư vị giờ này đang hội họp
Và đồng mơ tưởng đến hiền nhân”.

2138. Tato ca rājā sādhīno pamukho rathamāruhi, sahassayuttaṃ abhiruyha agā devāna santike,taṃ devā paṭinandiṃsu disvā rājānamāgataṃ.

2138. Và sau đó, đức vua Sādhīna, vị lãnh tụ, đã bước lên cỗ xe. Sau khi ngự lên cỗ xe thắng một ngàn ngựa, đức vua đã đi đến chỗ ngụ của chư Thiên. Sau khi nhìn thấy đức vua đang tiến đến, chư Thiên đã đón mừng ngài.

4. Ðại đế Sà-dhì ngước mắt lên,
Và liền ngự giá chiếc xe tiên,
Thần xa được cả ngàn thiên mã
Ðồng kéo ngài lên đến cõi thiên.

5. Chư Thiên chiêm ngưỡng đấng anh quân,
Thượng khách lên chơi, vội đón mừng:

2139. Svāgataṃ te mahārāja atho te adurāgataṃ, nisīdadāni rājisi devarājassa santike.

2139. “Tâu đại vương, chào mừng bệ hạ, và việc ngự đến không khó nhọc của bệ hạ. Tâu vị ẩn sĩ vương, giờ đây xin thỉnh bệ hạ ngồi xuống kề bên vị Thiên Vương.” “Ðại đế!” đồng hô lời chúc tụng,
“Thật là hạnh ngộ cuộc tao phùng!
Trên ngai vàng cạnh ngai Thiên chủ
An tọa xin mời đấng thánh nhân!”

2140. Sakkopi paṭinandittha vedehaṃ mithilaggahaṃ, nimantayī ca kāmehi āsanena ca vāsavo.

2140. Thiên Chủ Sakka cũng đã đón mừng vị vua trị vì kinh thành Mithilā, xứ Videha, và Thiên Chủ Vāsava đã thỉnh mời với các dục và chỗ ngồi.

6. Sak-ka chào đón chúa Vi-đề
Ngự trị kinh thành tại Mỹ-thi,
Thiên chủ ban ngài ngàn lạc thú,
Thỉnh ngài an tọa thật uy nghi:

2141. Sādhu khosi anuppatto āvāsaṃ vasavattinaṃ, vasa devesu rājisi sabbakāmasamiddhisu, tāvatiṃsesu devesu bhuñja kāme amānuse.

2141. “Thật tốt đẹp thay bệ hạ đã ngự đến chỗ trú ngụ của những vị có quyền lực. Tâu vị ẩn sĩ vương, bệ hạ hãy sống giữa chư Thiên có sự thành đạt tất cả các dục. Bệ hạ hãy hưởng thụ các dục không thuộc về nhân loại giữa chư Thiên cõi Tam Thập.”

7. “Giữa các đế vương ở cõi trần
Chào mừng Thánh thượng đến thiên cung,
Ðại vương an trú cùng Thiên chúng,
Ðược phỉ ước nguyền đúng lệnh ban,
Xin hưởng lạc thiên đường bất tận
Trên trời Ðao lợi, cảnh thiên đàng!”

2142. Ahaṃ pure saggagato ramāmi naccehi gītehi ca vāditehi, sodāni ajja na ramāmi sagge āyuṃ nu khīṇo maraṇaṃ nu santike udāhu mūḷhosmi janindaseṭṭha.

2142. “Trước đây, trẫm đã đi đến cõi Trời, vui thích với các điệu vũ, với các lời ca, và với các điệu nhạc. Giờ đây, hôm nay, trẫm đây không vui thích ở cõi Trời. Thưa vị chúa tối thượng của loài người. Phải chăng tuổi thọ của trẫm đã cạn kiệt, cái chết đã gần kề, hay là trẫm bị mê mờ?”

8. Ta hưởng, từ khi đến ngọc đường,
Ðàn ca, vũ khúc, nhạc du dương.
Nay ta chẳng thấy niềm hoan lạc,
Lâm mạng chung thời đến phải chăng?
Hay chính là vì lòng ám độn,
Làm ta sợ hãi, tấu Thiên hoàng?

2143. Nacāyu khīṇaṃ maraṇaṃ te dūre nacāpi mūḷho naraviriya seṭṭha, tavañca puññāni parittakāni yesaṃ vipākaṃ idha vedayittho.

2143. “Tâu vị tinh tấn tối thượng của loài người, không phải tuổi thọ của bệ hạ đã cạn kiệt, cái chết của bệ hạ hãy còn xa, và cũng không phải bệ hạ bị mê mờ. Các phước báu của bệ hạ là ít ỏi, và bệ hạ đã thọ hưởng quả thành tựu của chúng ở nơi này.

9. Ðời ngài chưa hết, chẳng lâm chung,
Ngài chẳng cuồng si, hỡi Ðại nhân,
Song thiện nghiệp ngài nay đã tận,
Giờ công đức trước hưởng xong phần.

2144. Vasa devānubhāvena rājaseṭṭha disampati, tāvatiṃsesu devesu bhuñja kāme amānuse.

2144. Tâu vị vua hạng nhất, tâu vị chúa tể một phương, bệ hạ hãy sống với năng lực của chư Thiên, hãy hưởng thụ các dục không thuộc về nhân loại giữa chư Thiên cõi Tam Thập.”

10. Song cứ ở đây, hỡi Ðại vương!
Bởi quyền tối thượng của ta ban:
Hưởng đi thiên lạc cùng Thiên chúng
Tam thập tam thiên giới trú an.

2145. Yathā yācitakaṃ yānaṃ yathā yācitakaṃ dhanaṃ, evaṃ sampadamevetaṃ yaṃ parato dānapaccayā.

2145. “Cỗ xe giống như vật vay mượn, tài sản giống như vật vay mượn, tương tự như vậy, chính việc thành đạt này là do duyên ban phát từ người khác.

11. Như lúc thiên xa đã giáng trần,
Hoặc khi phước lộc được dành phần,
Chính là thọ hưởng niềm thiên lạc
Do bởi bàn tay khác thưởng ân.

2146. Nacāhametaṃ icchāmi yaṃ parato dānapaccayā, sayaṃ katāni puññāni tamme āveṇikaṃ dhanaṃ.

2146. Và trẫm không thích điều ấy, là việc do duyên ban phát từ người khác. Các phước báu đã được tự mình tạo ra, tài sản ấy là dành riêng cho trẫm.

12. Ta chẳng cầu mong nhận phước phần
Do bàn tay kẻ khác thi ân,
Chính nhờ thiện nghiệp phần ta tạo,
Thiện sự riêng ta đứng vững chân.

2147. Sohaṃ gantvā manussesu kāhāmi kusalaṃ bahuṃ, dānena samacariyāya saṃyamena damena ca, yaṃ katvā sukhito hoti na ca pacchānutappati.

2147. Trẫm đây, sau khi đi đến cõi người, sẽ làm nhiều việc thiện với việc bố thí, với việc thực hành bình đẳng, với việc tự chế ngự, và với việc rèn luyện. Sau khi làm điều ấy, trẫm được an lạc và sau này không bị ân hận.”

13. Ta sẽ ra đi tạo việc lành,
Phát ban cả nước, khắp quần sinh,
Tuân theo giới hạnh và tu tập,
Ðiều phục thân tâm, quyết thực hành,
Người biết làm vầy là hạnh phúc,
Chẳng ăn năn hối tiếc phần mình.

2148. Imāni tāni khettāni imaṃ nikkhaṃ sukuṇḍalaṃ, imā tā haritā nūpā imā najjo savantiyo.

2148. “Những ruộng đồng này đây, con kênh đào khéo uốn quanh này, những đầm cỏ xanh mướt này đây, những con sông, những dòng suối này.

14. Lãnh thổ là đây, tổ quốc ta
Máng tròn dẫn nước suối băng qua
Cỏ xanh bao phủ đầy nơi chốn
Khe nhỏ, lạch ngòi vẫn chảy ra

2149. Imā tā pokkharaṇiyo rammā cakkavākūpakūjitā, mandālakehi sañchannā padumuppalakehi ca, yassimāni mamāyiṃsu kinnu te disataṃ gatā.

2149. Những hồ sen đáng yêu này đây với những con ngỗng đỏ kêu ríu rít, được bao phủ bởi những loài thủy thảo và bởi những hoa sen hồng sen xanh. Những người đã yêu mến những nơi này của trẫm, vậy họ đã đi đến phương trời nào?

15. Các hồ diễm lệ lắng nghe vang
Khi đám hồng nga réo gọi đàn
Bao đóa sen xanh chen lẫn trắng,
Cây hình đá biến mọc lan tràn
Song người yêu cánh cùng ta trước,
Nay ở đâu, lòng ta muốn hỏi han?

2150. Tānīdha khettāni so bhūmibhāgo te ārāmā te vana me pacārā, tameva mayhaṃ janataṃ apassato suññāva me nārada khāyate disā.

2150. Ở đây, những đồng ruộng ấy, khoảnh đất kia, những khu vườn nọ, các khu rừng ấy, những vùng phụ cận này, trẫm không nhìn thấy chính những người dân ấy của trẫm. Này Nārada, hướng này đối với trẫm hình như hoàn toàn rỗng không.

16. Đây là điền thổ ruộng cùng nương,
Đồng lúa lạc viên , chính cố hương,
Song chẳng thấy đâu người quyến thuộc,
Tưởng chừng sa mạc quá thê lương!

2151. Diṭṭhā mayā vimānāni obhāsentā catuddisā, sammukhā devarājassa tidasānañca sammukhā.

2151. Trẫm đã nhìn thấy các cung điện chiếu sáng bốn phương, đã diện kiến vị Thiên Vương, và đã diện kiến chư Thiên ở cõi Tam Thập.

17. Ta đã nhìn cung điện cõi trời
Huy hoàng chiếu sáng khắp muôn nơi,
Chư Thiên ở cõi trời Đao Lợi
Thiên chủ cùng ta diện kiến rồi.

2152. Vutthaṃ me bhavanaṃ dibbaṃ yuttā kāmā amānusā, tāvatiṃsesu devesu tibbakāma samiddhisu.

2152. Trẫm đã sống ở cung Trời, đã được cung phụng các dục không thuộc về nhân loại, ở giữa chư Thiên cõi Tam Thập có sự thành đạt các dục tuyệt trần.

18. Ta hưởng bao hoan lạc tuyệt trần,
Ngôi nhà thiên giới để riêng phần
Tràn đầy tất cả điều tâm nguyện
Tam thập tam thiên của Ngọc Hoàng.

2153. Sohaṃ etādisiṃ disvā puññāyamhi idhāgato, hammameva carissāmi nāhaṃ rajjena atthiko.

2153. Trẫm đây, sau khi đã nhìn thấy như thế, đã đi đến nơi này vì việc phước thiện. Trẫm sẽ thực hành mỗi thiện pháp, trẫm không có ham muốn với vương quyền.

19. Ta ngắm xong và đã tái hồi
Để thi hành thiện sự mà thôi
Và ta sẽ sống đời thanh tịnh,
Ta chẳng màng gì đến chiếc ngôi.

2154. Adaṇḍāvacaraṃ maggaṃ sammāsambuddhadesitaṃ, taṃ maggaṃ paṭipajjissaṃ yena gacchanti subbatā ”ti.

11. Sādhinajātakaṃ.

2154. Trẫm sẽ thực hành đạo lộ đưa đến sự bình an, đạo lộ ấy đã được các bậc Chánh Đẳng Giác thuyết giảng, đạo lộ mà những vị có sự hành trì tốt đẹp đang đi.”

11. Bổn sanh Đức Vua Sādhīna. [494]

20. Đạo này không dẫn đến đau buồn,
Chánh Đạo mà chư Phật chỉ đường;
Đường đó giờ đây ta tiến bước
Là đường bậc Thánh vẫn theo luôn.

Câu chuyện 494

2155. Rājā avoca vidhuraṃ dhammakāmo yudhiṭṭhilo, brāhmaṇe vidhura pariyesa sīlavante bahussute.

2155. Đức vua yêu thích thiện pháp Yudhiṭṭhila đã nói với Vidhura rằng: “Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị Bà-la-môn có giới hạnh, có kiến thức, –

1- Chúa thượng Yu-dhi thật chánh chân
Một hôm hỏi ý bậc hiền nhân:
“Vi-dhù, tìm các La môn thiện
Những bậc hiền nhân trí tuệ tràn.

2156. Virate methunā dhammā ye me bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ, dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.

2156. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”

2- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng như vầy, thiện hữu,
Để ngày sau hái qủa an toàn.

2157. Dullabhā brāhmaṇā deva sīlavanto bahussutā, viratā methunā dhammā ye te bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ.

2157. “Tâu bệ hạ, khó có được những vị Bà-la-môn có giới hạnh, có kiến thức, đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của bệ hạ.

3- Thật khó tìm Hiền thánh thế này
La-môn trí đức đủ như vầy,
Những người giữ trọn tâm ly dục
Để thọ hưởng phần phẩm thực đầy.

2158. Dasa khalu mahārāja yā tā brāhmaṇajātiyo, tesaṃ vibhaṅgaṃ vicayaṃ vitthārena suṇohi me.

2158. Tâu đại vương, thật vậy, có mười hạng là dòng dõi Bà-la-môn. Xin bệ hạ hãy lắng nghe sự phân tích và xếp loại về họ một cách chi tiết của thần.

4- Giữa đời mười loại Bà la môn,
Xin hãy lắng nghe, tấu Đại Vương,
Trong lúc hạ thần phân biệt họ,
Thần xin nói rõ họ hoàn toàn:

2159. Pasibbake gahetvāna puṇṇe mūlassa saṃvute, osadhiyo ganthenti nahāyanti japanti ca.

2159. Các vị mang các túi xách chứa đầy rễ cây được buộc lại, tổng hợp các phương thuốc, làm công việc tắm rửa, và lẩm nhẩm chú thuật.

5- Vài người mang túi xách trên lưng,
Củ, rễ chất đầy buộc thật căng,
Những kẻ góp gom cây cỏ thuốc
Tắm mình, tụng chú thuật, bùa thần.

2160. Tikicchakasamā rāja tepi vuccanti brāhmaṇā, akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.

2160. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống như các thầy thuốc, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”

6-Bọn họ như thầy thuốc, Đại vương,
Cũng đều được gọi Bà la môn
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?

2161. Apetā te brahmaññā (iti rājā koravyo) na te vuccanti brāhmaṇā, aññepi vidhura pariyesa sīlavante bahussute.

2161. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác cũng có giới hạnh, có kiến thức, –

7- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vidhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

2162. Virate methunā dhammā ye me bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ, dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.

2162. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”

8- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

2163. Kiṃkiṇikāyo gahetvāna ghosenti puratopi te, pesanānipi gacchanti rathacariyāsu sikkhare.

2163. Các vị ấy cầm lấy cái cồng và đi phía trước khua vang. Các vị còn chuyển tin nhắn, học tập về các cách điều khiển cỗ xe.

9- Bọn người đi trước lại mang chuông,
Trong lúc vừa đi họ réo vang,
Họ biết lái xe đầy khéo léo,
Thư từ thông điệp họ đều mang

2164. Paricārakasamā rāja tepi vuccanti brāhmaṇā, akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.

2164. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống như những người hầu, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”

10-Họ chẳng khác nào đám dịch nhân,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?

2165. Apetā te brahmaññā (iti rājā koravyo) na te vuccanti brāhmaṇā, aññe vidhura pariyesa sīlavante bahussute.

2165. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –

11- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

2166. Virate methunā dhammā ye me bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ, dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.

2166. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”

12- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

2167. Kamaṇḍaluṃ gahetvāna vaṃkadaṇḍañca brāhmaṇā, paccupessanti rājāno gāmesu nigamesu ca, nādinne vuṭṭhahissāma gāmamhi ca vanamhi ca.

2167. Các vị Bà-la-môn cầm lấy bầu nước uống và cây gậy cong, rồi tiếp cận các vị vua ở các thôn làng và các thị trấn (nói rằng): ‘Ở trong làng và ở trong rừng, khi chưa được bố thí, chúng tôi sẽ không đứng lên.’

13- Với bình nước uống gậy cong cong,
Họ chạy theo kịp quốc vương,
Qua các thôn làng cùng thị trấn,
Trong khi theo đuổi lại ca rằng:
” Ta không đi nữa, dù rừng, phố,
Cho đến khi Hoàng thượng cúng dường”.

2168. Niggāhakasamā rāja tepi vuccanti brāhmaṇā, akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.

2168. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống như những người thâu thuế, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”

14- Họ quấy rầy các thuế nhân,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?

2169. Apetā te brahmaññā (iti rājā koravyo) na te vuccanti brāhmaṇā, aññepi vidhura pariyesa sīlavante bahussute.

2169. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –

15- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

2170. Virate methunā dhammā ye me bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ, dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.

2170. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”

16- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

2171. Parūḷhakacchanakhalomā paṅkadantā rajassirā, okiṇṇā rajareṇūhi yācakā vicaranti te.

2171. Những vị có móng tay chân và lông nách mọc dài, có răng bị đóng bợn, có đầu lấm bụi, được phủ đầy những bụi bặm, các vị ấy là những hành khất đi lang thang.

17- Móng dài, lông rậm cả tay chân,
Tóc bện và hôi thối miệng răng,
Bụi bặm bám đầy người bẩn thỉu,
Họ đi đường tựa bọn xin ăn.

2172. Khāṇughātasamā rāja tepi vuccanti brāhmaṇā, akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.

2172. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống như những người đào bứng gốc cây, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”

18- Là bọn tiều phu! Tấu Đại vương!
Cũng đều được gọi Bà la môn
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?

2173. Apetā te brahmaññā (iti rājā koravyo) na te vuccanti brāhmaṇā, aññepi vidhura pariyesa sīlavante bahussute.

2173. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –

19- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

2174. Virate methunā dhammā ye me bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ, dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.

2174. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”

20- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

2175. Harīṭakaṃ āmalakaṃ ambaṃ jambuvibhīṭakaṃ, labujaṃ dantapoṇāni beluvā badarāni ca.

2175. 2176. “Tâu quân vương, các vị bán các loại loại hàng hóa có giá trị cao thấp khác nhau như là: trái harīṭaka, trái āmalaka, trái xoài, trái mận đỏ, trái vibhīṭaka, trái sa-kê, các cây chà răng, trái beluva, các trái táo, trái rājāyatana, mía và mật đường, ống xông khói, mật ong và thuốc nhỏ mắt.

21- Am-lạc, Vil-va, đào đỏ hồng,
La-buj, xoài chín, vật chùi răng,

2176. Rājāyatanaṃ ucchupuṭaṃ dhūmanettaṃ madhu-añjanaṃ, uccāvacāni paṇiyāni vipaṇenti janādhipa.

Thuốc cao, ván, điếu, đường, ong mật,
Nhiều thứ còn kia, họ bán hàng.

2177. Vāṇijakasamā rāja tepi vuccanti brāhmaṇā, akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.

2177. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống như các thương buôn, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”

22- Chúa thượng, khác nào bọn lái buôn,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?

2178. Apetā te brahmaññā (iti rājā koravyo) na te vuccanti brāhmaṇā, sīlavante bahussute.

2178. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –

23- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

2179. Virate methunā dhammā ye me bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ, dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.

2179. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”

24- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

247. Kasi-vāṇijjaṃ kārenti, posayanti ajeḷake; Kumāriyo pavecchanti, vivāhantāvahanti ca.

Ở các văn bản Pāḷi của Miến Điện, Thái Lan, và PTS của Anh Quốc còn có thêm một hạng Bà-la-môn nữa ở chỗ này; như thế thì số lượng các hạng Bà-la-môn sẽ là 11, thay vì 10 như ở Tạng của Sri Lanka. Phần Pāli ở bên cạnh được thêm vào từ Tạng Miến Điện (Tạng Thái và Tạng của PTS cũng tương tự như thế).

25- Những người làm ruộng hoặc đi buôn
Nuôi lắm đàn dê ở trại chuồng,
Trao đổi cưới xin làm sính lễ,
Bán bầy con gái, để mua vàng.

248. Samā ambaṭṭhavessehi, tepi vuccanti brāhmaṇā; Akkhātā te mahārāja, tādise nipatāmase.

26- Giống bọn con lai đám tiện dân,
Cũng đều được gọi Bà La Môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?

249. Apetā te ca brahmaññā, (Iti rājā korabyo) Na te vuccanti brāhmaṇā; Aññe vidhura pariyesa, sīlavante bahussute.

27- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

250. Virate methunā dhammā, ye me bhuñjeyyu bhojanaṃ; Dakkhiṇaṃ samma dassāma, yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.

28- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

2180. Nikkhantabhikkhaṃ bhuñjanti gāmesveke purohitā, bahū te paṭipucchanti aṇḍacchedā nilañchakā, pasūpi tattha haññanti mahisā sūkarā ajā.

2180. Một số viên quan tế tự thọ dụng bữa ăn ngoại lệ ở các ngôi làng, Nhiều người hỏi các vị ấy (về chiêm tinh, bói toán). Các vị là những người thiến và đóng dấu các con thú. Tại nơi ấy, thậm chí các con thú như trâu, heo rừng, dê bị giết chết.

29- Bọn thầy cúng tế, đoán điềm hên,
Thiến, lựa bò, dê để lấy tiền,
Dân chúng mời về, thường ở lại,
Có đầy thực phẩm được dâng lên,
Nơi kia bò cái, bê, bò thiến,
Dê, lợn đều đem giết lắm phen.

2181. Goghātakasamācārā tepi vuccanti brāhmaṇā, akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.

2181. Tâu bệ hạ, các vị ấy, có hành vi giống như các đồ tể, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”

30- Bọn họ như hàng thịt hạ tầng,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?

2182. Apetā te brahmaññā (iti rājā koravyo) na te vuccanti brahmaṇā, aññe vidhura pariyesa sīlavante bahussute.

2182. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –

31- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

2183. Virate methunā dhammā ye me bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ, dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.

2183. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”

32- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

2184. Asicammaṃ gahetvāna khaggaṃ paggayha brāhmaṇā, vessapathesu tiṭṭhanti satthaṃ abbāhayantipi.

2184. Sau khi cầm lấy thanh gươm và mộc che, các vị Bà-la-môn đã giơ cao thanh kiếm, đứng ở các con đường của thương buôn, rồi còn hộ tống đoàn xe nữa.

33- Bọn mang gươm, giáo, mộc che mình,
Tay lại cầm rìu tựa chiến binh,
Họ đứng trước đoàn thương khách nọ,
Sẵn sàng hướng dẫn đám du hành.

2185. Samā gopanisādehi tepi vuccanti brāhmaṇā, akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.

2185. Tâu bệ hạ, các vị ấy, tương đương với những kẻ giữ bò hay những người man rợ, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”

34- Như mục phu, quân cướp bạo gan,
Cũng đều được gọi Bà la môn ,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?

2186. Apetā te brahmaññā (iti rājā koravyo) na te vuccanti brahmaṇā, aññe vidhura pariyesa sīlavante bahussute.

2186. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –

35- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

2187. Virate methunā dhammā ye me bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ, dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.

2187. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”

36- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

2188. Araññe kuṭikaṃ katvā kūṭāni kārayanti te, sasabiḷāre bādhenti āgodhā macchakacchapaṃ.

2188. “Sau khi làm căn chòi nhỏ ở trong rừng, họ cho làm những cái bẫy và đánh bắt các con thỏ, mèo rừng, kỳ đà, cá, và rùa.

37- Có bọn xây lều đặt bẫy giăng,
Bất kỳ nơi chốn ở trong rừng,
Bắt loại tôm, cá, cùng rùa, trạnh,
Mèo, thỏ, cắc kè, mọi thú hoang.

2189. Luddakā te mahārāja tepi vuccanti brāhmaṇā, akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.

2189. Tâu bệ hạ, họ là những người thợ săn, các vị ấy cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”

38- Tâu Đại vương, đây chính thợ săn,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?

2190. Apetā te brahmaññā (iti rājā koravyo) na te vuccanti brahmaṇā, aññe vidhura pariyesa sīlavante bahussute.

2190. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –

39- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

2191. Virate methunā dhammā ye me bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ, dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.

2191. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”

40-Chư vị đoạn tham dục, ác hạnh,
Để dùng thực phẩm của triều đình,
Trẫm nguyện dâng cúng chư hiền giả,
Để chính mình sau gặt quả lành.

2192. Aññe dhanassa kāmāhi heṭṭhāmañce pasakkhitā, rājāno upari nahāyanti somayāge upaṭṭhite.

2192. Những vị khác với sự mong muốn về tài sản, đã nằm dài bên dưới gầm giường, và các vị vua tắm ở bên trên vào lúc lễ tế Soma được chuẩn bị.

41- Lại có bọn ham chuộng bạc vàng,
Chịu nằm xuống dưới chiếu vương sang,
Để vua tắm rửa trên đầu họ,
Trong lễ So-ma rảy tế đàn.

2193. Malamajjakasamā rāja tepi vuccanti brāhmaṇā, akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.

2193. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống như các người thợ cạo, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”

42- Thợ cạo khác gì? Tấu Đại vương,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?

2194. Apetā te brahmaññā (iti rājā koravyo) na te vuccanti brahmaṇā, aññe vidhura pariyesa sīlavante bahussute.

2194. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –

43-Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

2195. Virate methunā dhammā ye me bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ, dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.

2195. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”

44- Chư vị đoạn tham dục, ác hành,
Để dùng thực phẩm của triều đình,
Trẫm nguyện dâng cúng người như vậy,
Để chính mình sau gặt quả lành.

2196. Atthi brāhmaṇā deva sīlavanto bahussutā, viratā methunā dhammā ye te bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ.

2196. “Tâu bệ hạ, có những vị Bà-la-môn có giới hạnh, có kiến thức, đã kiêng cử pháp đôi lứa, những vị ấy có thể thọ dụng vật thực của bệ hạ.

45-Song các La môn , Tấu Đại vương,
Những người đại trí tuệ, hiền lương,
Đoạn trừ mọi ác hạnh, tham dục,
Để thọ thức ăn được cúng dường.

2197. Ekañca bhattaṃ bhuñjanti na ca majjaṃ pivanti te, akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.

2197. Các vị ấy ăn một bữa và không uống chất say. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”

46- Chư vị chỉ dùng một bữa ăn,
Chẳng bao giờ đụng rượu men nồng,
Đại vương biết rõ người như vậy,
Ta có nên tìm các vị không?

2198. Ete kho brāhmaṇā vidhura sīlavanto bahussutā, ete vidhura pariyesa khippañca te nimantayā ”ti.

12. Dasabrāhmaṇajātakaṃ.

2198. “Này Vidhura, các vị Bà-la-môn này chắc chắn là có giới hạnh, có kiến thức. Này Vidhura, hãy tức tốc tìm kiếm các vị này và hãy thỉnh mời các vị ấy.”

12. Bổn sanh Mười Hạng Bà-La-Môn. [495]

47- Quốc sư đem hết các La môn,
Thanh tịnh tràn đầy, trí chánh chơn,
Mời các Ngài, ngay Hiền sĩ hỡi,
Chần chờ gì nữa? Hãy lên đường!

Câu chuyện 495

2199. Sukhumālarūpaṃ disvāna raṭṭhā vivanamāgataṃ, kūṭāgāravarūpetaṃ mahāsayanamupāsitaṃ.

2199. “Tôi đã nhìn thấy vị có vóc dáng thanh tao, từ vương quốc đã đi đến vùng đất khô cằn, là người được sở hữu ngôi nhà mái nhọn cao quý, được cung phụng giường nằm cao sang.

1- Ta trông ngài xứng đáng ngôi cao,
Ngài đến từ cung điện xứ nào,
Sa mạc vùng này hoang vắng quá,
Dáng hình ngài quá thật thanh tao.

2200. Tassa te pemakenāhaṃ adāsiṃ baddhamodanaṃ, sālīnaṃ vicitaṃ bhattaṃ suciṃ maṃsūpasecanaṃ.

2200. Vì lòng yêu mến bệ hạ đây, thần đã dâng bệ hạ bữa cơm thượng hạng, được nấu với gạo sālī đã đãi sạch, tinh khiết, có trộn lẫn thịt.

2- Vì mến thương ngài, ta đã dâng,
Cao lương khéo chọn lựa vừa ăn:
Món cơm kia được tài người khéo
Nấu đổ lên trên món thịt hầm.

2201. Taṃ tvaṃ bhattaṃ paṭiggayha brāhmaṇassa apāpayi, attānaṃ anasitvāna koyaṃ dhammo namatthu te.

2201. Sau khi tiếp nhận bữa ăn ấy, bệ hạ đã bảo trao đến vị Bà-la-môn. Bệ hạ đã không ăn cho mình. Đây là pháp gì mà có được sự tôn kính của bệ hạ?”

3- Thực phẩm ngài cầm lại chẳng ăn,
Ngài đem tặng vị Bà la môn,
Lòng đầy cung kính, nay xin hỏi:
Việc mới làm mang ý nghĩa chăng?

2202. Ācariyo brāhmaṇo mayhaṃ kiccākiccesu vyāvaṭo, garu ca āmantanīyo dātumarahāmi bhojanaṃ.

202. “Vị Bà-la-môn là thầy dạy học của trẫm, quán xuyến các công việc lớn nhỏ. Và vị thầy là nên được mời thỉnh; trẫm nên dâng bữa ăn (đến vị thầy).”

4- Sư trưởng ta đây thật nhiệt thành,
Việc dù lớn nhỏ vẫn thi hành,
Nên ta phải tặng phần cơm cúng,
Xứng đáng Quốc sư, quá thật tình.

2203. Brāhmaṇaṃdāni pucchāmi gotamaṃ rājapūjitaṃ, rājā te bhattaṃ pādāsi suciṃ maṃsūpasecanaṃ.

2203. “Giờ đây, tôi xin hỏi Bà-la-môn Gotama, vị được đức vua tôn vinh. Đức vua đã ban đến ngài bữa ăn tinh khiết, có trộn lẫn thịt.

5- Dù vua cũng trọng Bà la môn
Xin nói, sao ngài lại chẳng ăn,
Một đĩa cao lương tài nấu khéo,
Người đổ đầy trên món thịt ngon?

2204. Taṃ tvaṃ bhattaṃ paṭiggayha isissa bhojanaṃ adā, akhettaññūsi dānassa koyaṃ dhammo namatthu te.

2204. Sau khi tiếp nhận bữa ăn ấy, ngài đã dâng bữa ăn đến vị ẩn sĩ. Ngài là người nhận biết bản thân không phải là thửa ruộng cho sự bố thí. Đây là pháp gì mà có được sự tôn kính của ngài?”

6- Ngài chẳng hiểu thông nghĩa cúng dường,
Song ngài đem tặng vị hiền nhân,
Với lòng kính trọng, nay xin hỏi,
Việc ấy ngài làm có nghĩa chăng?

2205. Bharāmi putte dāre ca gharesu gathito ahaṃ, bhuñje mānusake kāme anusāsāmi rājino.

2205. “Ta cưu mang các con và các người vợ. Ta bị trói buộc vào các căn nhà. Ta có thể hưởng thụ các dục của con người. Ta chỉ dạy cho các vị vua.

7- Ta có gia đình với vợ con,
Ta thường cư trú tại gia môn,
Dục tham vua chúa ta điều phục,
Tham dục riêng ta vẫn đám hồn.

2206. Āraññakassa isino cirarattaṃ tapassino, vaddhassa bhāvitattassa dātumarahāmi bhojanaṃ.

2206. Ta nên dâng bữa ăn đến bậc ẩn sĩ sống ở rừng, vị có sự khắc khổ thời gian dài, bậc trưởng thượng, có bản thân đã được tu tập.”

8- Vói người khổ hạnh, bậc hiền nhân,
Xưa ở trong rừng vẫn trú thân,
Già cả, thực hành theo giáo lý,
Nên ta cầm thực phẩm đem dâng.

2207. Isiñcadāni pucchāmi kisaṃ dhamanisanthataṃ, parūḷhakacchanakhalomaṃ paṅkadantaṃ rajassiraṃ.

2207. “Và giờ đây, tôi xin hỏi bậc ẩn sĩ gầy ốm, nổi đầy gân, có móng tay chân và lông nách mọc dài, có răng bị đóng bợn, có đầu lấm bụi.

9- Nay ta xin hỏi bậc hiền nhân,
Ở dưới da ngài lộ rõ gân,
Vói móng mọc dài, đầu tóc rối,
Cái đầu dơ bẩn lẫn hàm răng.

2208. Eko araññe viharasi nāvakaṅkhasi jīvitaṃ, bhikkhu kena tayā seyyo yassa tvaṃ bhojanaṃ adā.

2208. Ngài sống một mình trong rừng, không mong mỏi về cuộc sống. Vị tỳ khưu là tốt hơn ngài về điều gì mà ngài đã dâng bữa ăn đến vị ấy?”

10- Ngài chẳng màng đời sống thế gian,
Hỡi người đơn độc trú rừng hoang,
Tôn sư nay có gì ưu thắng,
Mà phải đem lương thực cúng dâng?

2209. Khaṇantālukalambāni biḷālītakkaḷāni ca, dhunaṃ sāmākanīvāraṃ saṅghāriyaṃ pasāriyaṃ.

2209. “Ta đào các khoai mỡ và củ cải, các củ biḷālī và củ takkaḷa. Ta đập giũ các hạt kê, lúa dại, gom lại rồi trải ra phơi khô.

11- Ta đào củ cải, tỏi, hành hoang,
Cỏ, lá, bạc hà, vẫn kiếm luôn,
Nhặt hạt cải đen, rung lúa dại,
Trải ra phơi nắng thật khô dòn.

2210. Sākaṃ bhisaṃ madhuṃ maṃsaṃ padarāmalakāni ca, tāni āhatva bhuñjāmi atthi me so pariggaho.

2210. Về rau cải, củ sen, mật ong, thịt thừa của thú rừng, táo rừng, và trái āmalaka, ta mang về các thứ ấy và thọ dụng. Đối với ta, có sự bám víu ấy.

12- Ngó sen, dược thảo, táo, chà là,
Am-lạc, mật ong, miếng thịt thừa,
Là của ta dành phần kiếm được,
Rồi làm thành món hợp cho ta.

2211. Pacanto apacantassa amamassa akiñcano, anādānassa sādāno dātumarahāmi bhojanaṃ.

2211. Là người nấu thức ăn, có vật sở hữu, còn chấp thủ, ta nên dâng bữa ăn đến vị không nấu, không có trạng thái chấp là của ta, không còn chấp thủ.”

13- Ngài không, lão nấu, lão nhiều hàng,
Ngài chẳng có chi, lão buộc ràng,
Thế sự bao điều, ngài giải thoát,
Món cơm ngài hưởng đúng công bằng.

2212. Bhikkhuñcadāni pucchāmi tuṇhīmāsīna subbataṃ, isi te bhattaṃ pādāsi suciṃ maṃsūpasecanaṃ.

2212. “Và giờ đây, tôi xin hỏi vị tỳ khưu đang ngồi im lặng, là bậc có sự hành trì tốt đẹp. Vị ẩn sĩ đã dâng đến ngài bữa ăn tinh khiết, có trộn lẫn thịt.

14- Xin hỏi, ngồi kia bậc Trí hiền,
Mọi nguồn dục vọng thảy nằm yên,
Món cơm nấu khéo đầy ngon ngọt,
Có kẻ đem phần thịt đổ lên.

2213. Taṃ tvaṃ bhattaṃ paṭiggayha tuṇhī bhuñjasi ekako, nāññaṃ kañci nimantesi koyaṃ dhammo namatthu te.

2213. Sau khi tiếp nhận bữa ăn ấy, ngài im lặng thọ dụng một mình. Ngài không mời mọc bất cứ người nào khác. Đây là pháp gì mà có được sự tôn kính của ngài?”

15- Ngài nhận và ngon miệng uống ăn,
Chẳng mời ai đến để chia phần,
Đầy lòng kính trọng, nay xin hỏi:
Việc ấy ngài làm có nghĩa chăng?

2214. Na pacāmi na pācemi na chindāmi na chedaye, taṃ maṃ akiñcanaṃ ñatvā sabbapāpehi ārataṃ.

2214. “Ta không nấu, không bảo người khác nấu, ta không cắt gọt, không bảo người khác cắt gọt; ta đã nhận biết ta đây không còn bất cứ ô nhiễm nào, đã được lánh xa tất cả các điều ác xấu.

16- Không nấu, cũng không bảo nấu dùm,
Nay không làm hại, trước không làm,
Vị kia biết rõ ta không của,
Ta quyết đoạn trừ mọi dục tham.

2215. Vāmena bhikkhamādāya dakkhiṇena kamaṇḍaluṃ, isi me bhattaṃ pādāsi suciṃ maṃsūpasecanaṃ.

2215. Sau khi cầm vật thực bằng tay trái, bình nước bằng tay phải, vị ẩn sĩ đã dâng đến ta bữa ăn tinh khiết, có trộn lẫn thịt.

17- Tay phải vị kia nắm chiếc bình,
Thức ăn cầm phía trái bên mình,
Cho ta món thịt hầm người đặt,
Trên bát cơm ngon thật tốt lành.

2216. Ete hi dātumarahanti samamā sapariggahā, paccaṇīkamahaṃ maññe yo dātāraṃ nimantaye.

2216. Chính những vị này nên bố thí, những người có trạng thái chấp là của ta, có sở hữu. Ta nghĩ rằng người nào mời thỉnh thí chủ là việc làm trái khuấy.”

18- Chúng nhiều tài sản, lắm kim ngân,
Bổn phận là đem của phát phân,
Ai bảo người cho cũng thọ hưởng,
Ấy là thù địch, chớ phân vân.

2217. Atthāya vata me ajja idhāgañji rathesabho, ito pubbe na pajānāmi yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.

2217. “Quả thật vì lợi ích của ta mà hôm nay đấng thủ lãnh xa binh đã đi đến nơi này. Trước đây, ta không biết được vật đã được bố thí ở nơi nào có quả báo lớn.

19- Thật là ta được một duyên may
Hạnh ngộ quân vương ngự tới rày,
Thuở trước ta không hề biết rõ,
Cúng dường mang phước quá tràn đầy.

2218. Raṭṭhesu giddhā rājāno kiccākiccesu brāhmaṇā, isī mūlaphale giddhā vippamuttā ca bhikkhavo ”ti.

13. Bhikkhāparamparajātakaṃ.

2218. Các vị vua bị tham đắm vào các quốc độ, các vị Bà-la-môn vào các công việc lớn nhỏ, các vị ẩn sĩ bị tham đắm vào các rễ và trái cây, còn các vị tỳ khưu được giải thoát hoàn toàn.”

13. Bổn sanh Vật Thực Theo Tuần Tự. [496]

20- Đế vương với các Bà la môn,
Trị nước mà tâm ác dục tràn,
Các trí nhân tìm cây quả dại,
Bậc tu hành giải thoát lòng tham.

Câu chuyện 496

TASSUDDĀNAṂ

Suva kinnaramukkakharājina so bhisajāta mahesi kapotavaro, atha mora satacchaka vāṇijako atha rāja dasabrāhmaṇā bhikkhaparan ”ti.

Pakiṇṇakanipāto niṭṭhito.
–ooOoo–

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

Chim két, loài nhân điểu, chim ưng, y da dê thô cứng, các củ sen, hoàng hậu chánh cung, chuyện chim bồ câu,
rồi chim công, với con heo rừng Taccha, người thương buôn, rồi đức vua Sādhīna, mười hạng Bà-la-môn, vật thực theo tuần tự.

Nhóm Linh Tinh được chấm dứt.

–ooOoo–

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *