Tiểu Bộ – Bổn Sanh I: Nhóm một kệ ngôn, Phẩm 6 -10
▪ 11. PAROSATAVAGGO
▪ 11. PHẨM HƠN MỘT TRĂM NGƯỜI
101. Parosatañcepi samāgatānaṃ jhāyeyyuṃ te vassasataṃ apaññā, ekova seyyo puriso sapañño yo bhāsitassa vijānāti atthan ”ti.
1. Parosatajātakaṃ.
101. Thậm chí nếu hơn một trăm người đã tụ hội lại, những kẻ ấy tham thiền một trăm năm, không có trí tuệ, chỉ một người có trí tuệ vẫn tốt hơn, là người hiểu được ý nghĩa của lời đã được nói ra.
1. Bổn sanh Hơn Một Trăm Người
Trăm kẻ ngu tụ hội.
Thiền tư một trăm năm,
Không bằng một người trí
Hiểu nghĩa lời Phật dạy.
102. Yo dukkhaphuṭṭhāya bhaveyya tāṇaṃ so me pitā dūbhi vane karoti, sā kassa kandāmi vanassa majjhe yo tāyitā so sahasā karotī ”ti.
2. Paṇṇikajātakaṃ.
102. Người nào là nơi nương tựa của tôi khi tôi bị xúc chạm khổ đau, người ấy là cha của tôi, kẻ lập kế hãm hại tôi ở trong khu rừng. Tôi đây khóc lóc cho ai ở giữa khu rừng? Người bảo vệ tôi lại là người làm điều bạo lực (đối với tôi).
2. Bổn sanh Người Bán Rau
Người đáng che chở ta
Trong khi ta đau khổ,
Người ấy là cha ta,
Lại làm quấy với ta.
Chính tại giữa ngôi rừng,
Ta khóc việc làm ấy.
Người đáng che chở ta,
Lại là kẻ thù ta.
103. Yattha verī nivasati na vase tattha paṇḍito, ekarattaṃ dirattaṃ vā dukkhaṃ vasati verisū ”ti.
3. Verījātakaṃ.
103. Kẻ thù cư ngụ ở nơi nào, người sáng suốt không nên sống ở nơi ấy, dầu là một đêm hoặc hai đêm sống một cách khổ sở giữa những kẻ thù.
3. Bổn sanh Kẻ Thù
Tại chỗ kẻ thù ở,
Người trí không ở đấy.
Một đêm hay hai đêm,
Gặp khổ giữa kẻ thù.
104. Catubbhi aṭṭhajjhagamā aṭṭhāhi pi ca soḷasa, soḷasāhi ca battiṃsa atricchaṃ cakkamāsado, icchāhatassa posassa cakkaṃ bhamati matthake ”ti.
4. Mittavindajātakaṃ.
104. Với bốn, gã đã đi đến tám, và cũng với tám rồi mười sáu, và với mười sáu rồi ba mươi hai, trong khi ước muốn quá lố, gã nhận lấy bánh xe. Bánh xe quay tròn ở trên đầu của kẻ bị hành hạ bởi ước muốn.
4. Bổn sanh Mittavinda
Từ bốn đi đến tám,
Từ tám đi mười sáu,
Mười sáu đến băm hai,
Kẻ tham đến bánh xe,
Bánh xe lăn trên đầu,
Ðến khi dục đoạn tận.
105. Bahuṃ petaṃ vane kaṭṭhaṃ vāto bhañjati dubbalaṃ, tassa ce bhāyasī nāga kiso nūna bhavissasī ”ti.
5. Dubbalakaṭṭhajātakaṃ.
105. Nhánh cây này có nhiều ở trong rừng, cơn gió bẻ gãy cành yếu ớt. Này voi, nếu ngươi sợ hãi điều ấy, có lẽ ngươi sẽ bị gầy ốm?
5. Bổn sanh Nhánh Cây Yếu Ớt
Rừng này có nhiều cành,
Gió bẻ gãy cành mục,
Này voi, nếu ngươi sợ,
Ngươi sẽ ốm yếu thôi.
106. Susukhaṃ vata maṃ jīvantaṃ pacamānā udañcanī, corī jāyappavādena telaṃ loṇañca yācatī ”ti.
6. Udañcanījātakaṃ.
106. Thật vậy, trong khi tôi đang sống vô cùng hạnh phúc, cô nàng, tựa như cái thùng xách nước, đang hành hạ tôi. Nữ đạo tặc, với danh xưng người vợ, đòi hỏi dầu và muối.
6. Bổn sanh Cái Thùng Xách Nước.
Hạnh phúc, đời sống tôi
Bị nữ tặc cướp mất,
Nhân danh là vợ tôi,
Tôi phải nấu phải nướng,
Phải múc nước, gánh nước,
Phải xin muối, xin dầu!
107. Sādhu kho sippakaṃ nāma api yādisakīdisaṃ, passa khañjappahārena laddhā gāmā catuddisā ”ti.
7. Sālittakajātakaṃ.
107. Tốt lành thay gọi là người có học nghệ, bất luận nghề gì và như thế nào. Ngươi hãy nhìn xem, bốn ngôi làng ở bốn hướng đã đạt được nhờ vào việc ném (phân dê) của người què.
7. Bổn sanh Ném Sỏi
Lành thay, một nghề tinh,
Dầu đó là nghề gì,
Xem kẻ què ném đá,
Ðược làng cả bốn phương.
108. Sikkheyya sikkhitabbāni santi sacchandino janā, bāhiyā hi suhannena rājānamabhirādhayī ”ti.
. Bāhiyajātakaṃ.
108. Nên học tập những điều cần được học tập. Con người có mong muốn riêng tư (về học nghệ). Chính cô thôn nữ với việc tiểu tiện khéo léo đã làm hài lòng đức vua.
8. Bổn sanh Cô Thôn Nữ
Hãy học điều cần học,
Dầu có kẻ cứng đầu.
Gái quê khéo tiểu tiện,
Làm đẹp lòng đức vua.
109. Yathanno puriso hoti tathannā tassa devatā, āharetaṃ kaṇaṃ pūvaṃ mā me bhāgaṃ vināsayā ”ti.
9. Kuṇḍapūvajātakaṃ.
109. Con người có thức ăn thế nào, thiên thần của người ấy có thức ăn như vậy. Ngươi hãy mang lại bánh cám ấy, ngươi chớ làm mất phần của ta.
9. Bổn sanh Bánh Bột Cám
Người cúng ăn thứ gì,
Thần cũng ăn thứ ấy,
Ðem lại bánh bột trấu,
Chớ làm mất phần ta!
110. Sabbasaṃhārako natthi suddhaṃ kaṅgu pavāyati, alikaṃ bhāsata yaṃ dhuttī saccamāha mahallikā ”ti.
10. Sabbasaṃhārakapañhajātakaṃ.
110. Không có việc tổng hợp của mọi thứ (hương hoa), nó tỏa ra hương kaṅgu tinh khiết. Điều mà cô gái vô lại đã nói là sai trái, bà lão đã nói sự thật.
10. Bổn sanh Câu Hỏi Về Việc Tổng Hợp Mọi Thứ
Chẳng có mùi hương của bá hoa,
Chỉ Kan-gu cứ thoảng bay ra,
Nữ nhân ác độc kia gian dối,
Bà lão nhà quê nói thật thà.
(Gs. Phương Lan)
Parosatavaggo ekādasamo.
*****
Phẩm Hơn Một Trăm Người là thứ mười một.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Saparosatatāyitaverī puna bhamacakkatha nāgasirivhayano, sukhakañca vata sippakabāhiyā kuṇḍapūvamahallikakā ca dasa.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Với hơn một trăm người, người bảo vệ, lại thêm kẻ thù, rồi bánh xe quay tròn, con voi có tên Siri, và thật vậy con người hạnh phúc, có học nghệ, cô thôn nữ, bánh bột cám, và bà lão, là mười.
–ooOoo–
▪ 12. HAṂSAVAGGO
▪ 12. PHẨM THIÊN NGA
111. Haṃsi tvaṃ evamaññasi seyyo puttena pitāti rājaseṭṭha, handassatarassa te ayaṃ assatarassa hi gadrabho pitā ”ti.
1. Gadrabhapañho.
111. Tâu đấng chí tôn, nếu ngài nghĩ rằng: ‘Người cha là tốt hơn so với người con,’ vậy thì con lừa này, đối với ngài, phải cao giá hơn con la, bởi vì con lừa là cha của con la.
1. Câu hỏi về Con Lừa
Tâu Đại vương, ngài vẫn nghĩ rằng
Con luôn thua kém bậc cha ông?
Thế thì lừa phải hơn la chứ,
Lừa ấy với la chính phụ thân!
(Gs. Phương Lan)
112. Yena sattubilaṅgā ca diguṇapalāso ca pupphito, yenādāmi tena vadāmi yena nādāmi na tena vadāmi, esa maggo yavamajjhakasasa etaṃ channapathaṃ vijānāhī ”ti.
2. Amarādevīpañho.
112. Theo hướng đi có tiệm bánh và tiệm cháo, rồi có cây song diệp đã được trổ hoa; thiếp cho bằng tay nào thì thiếp nói về hướng đó, thiếp không nói về hướng phía bên tay mà thiếp không cho; con đường ấy dẫn đến ngôi làng Yavamajjhaka, chàng hãy nhận biết lối đi đã được che giấu ấy.
2. Câu hỏi của Hoàng Hậu Amarā
Nhờ món bánh và cháo nấu nhừ,
Cùng cây song điệp trổ muôn hoa,
Bàn tay thiếp để ăn và chỉ,
Chẳng phải bàn tay thiếp bỏ qua,
Đó chính là đường đi thị trấn,
Con đường bí mật phải tìm ra.
(Gs. Phương Lan)
113. Saddahāsi sigālassa surāpītassa brāhmaṇa, sippikānaṃ sataṃ natthi kuto kaṃsasatā duve ”ti.
3. Sigālajātakaṃ.
113. Này Bà-la-môn, chớ tin vào con chó rừng đã uống rượu. Một trăm tiền vỏ sò còn không có, từ đâu mà có hai trăm đồng tiền vàng?
3. Bổn sanh Chó Rừng
Ông tin chó rừng say,
Hỡi Bà-la-môn ơi!
Trăm tiền ốc chả có,
Ðâu có hai trăm vàng?
114. Bahucintī appacintī ca ubho jāle abajjhare, mitacintī amocesi ubho tattha samāgatā ”ti.
4. Mitacintijātakaṃ.
114. Cả hai (con cá tên) Suy Nghĩ Nhiều và Suy Nghĩ Ít đã bị sa vào lưới. Con cá Suy Nghĩ Chừng Mực đã cứu thoát chúng; cả hai đã gặp nhau tại nơi ấy.
4. Bổn sanh Con Cá Suy Nghĩ Chừng Mực
“Nghĩ nhiều” và “Nghĩ ít”
Cả hai đều mắc lưới,
Chỉ có “Nghĩ đúng mức”
Giải thoát cho bọn chúng,
Cả ba đã gặp nhau,
Chính tại con sông này,
115. Yāyaññamanusāsati sayaṃ loluppacāriṇī, sāyaṃ vipakkhikā seti hatā cakkena sāḷikā ”ti.
5. Anusāsikajātakaṃ.
115. Con chim cái nào chỉ dạy kẻ khác, còn bản thân có hành vi tham lam, chính con chim cái này, với cặp cánh bị tổn thương, nằm dài, bị bánh xe cán chết.
5. Bổn sanh Con Chim Cái Chỉ Dạy
Ai khuyên răn kẻ khác,
Tự mình chạy theo tham,
Bị gãy cánh nằm xuống,
Bánh xe giết đời chim.
116. Atikaramakarācariya mayhampetaṃ na ruccati, catutthe laṅghayitvāna pañcamiyasmiṃ āvuto ”ti.
6. Dubbacajātakaṃ.
116. Thưa thầy, thầy đã làm công việc vượt quá khả năng; việc này không làm cho con thích thú. Sau khi vượt qua ngọn giáo thứ tư, người thầy đã bị đâm dính ở ngọn giáo thứ năm.
6. Bổn sanh Kẻ Khó Bảo
Thưa sư trưởng, vì thầy
Làm quá sức của thầy,
Thầy không ưa, không thích
Lời khuyên này của tôi
Bốn giáo, thầy múa qua,
Ngọn thứ năm đâm chết.
117. Accuggatā atibalatā ativelaṃ pabhāsitā, vācā hanati dummedhaṃ tittiraṃvātivassitan ”ti.
7. Tittirajātakaṃ.
117. Lời nói được thốt lên vang xa quá mức, có năng lực quá lớn, chiếm quá nhiều thời gian, giết chết kẻ ngu muội, tựa như tiếng kêu quá lớn giết chết con chim đa đa.
7. Bổn sanh Chim Đa Đa.
Lời quá thời cao mạnh
Ðưa chết cho người nói,
Chim đa đa mất mạng,
Vì ngu, hót quá lời.
118. Nācintayanto puriso visesamadhigacchati, cintitassa phalaṃ passa muttosmi vadhabandhanā ”ti.
8. Vaṭṭakajātakaṃ.
118. Con người không suy nghĩ, không đạt đến mục đích. Hãy nhìn xem kết quả của việc suy nghĩ, ta đã được thoát khỏi sự chết chóc và giam cầm.
8. Bổn sanh Chim Cút.
Không suy nghĩ, người này,
Không được lợi đặc biệt,
Hãy xem quả suy tư!
Ta thoát trói, thoát chết.
119. Amātāpitarisaṃvaddho anācariyakule vasaṃ, nāyaṃ kālaṃ akālaṃ vā abhijānāti kukkuṭo ”ti.
9. Akālarāvijātakaṃ.
119. Lớn lên không có mẹ và cha, không sống ở nhà của thầy dạy học, con gà trống này không biết rõ thời điểm hay không phải là thời điểm.
9. Bổn sanh Gà Gáy Phi Thời.
Không mẹ cha nuôi dưỡng,
Không thầy, dạy dỗ nó,
Con gà này không biết
Ðúng thời hay phi thời.
120. Abaddhā tattha bajjhanti yattha bālā pabhāsare, baddhāpi tattha muccanti yattha dhīrā pabhāsare ”ti.
10. Bandhanamokkhajātakaṃ.
120. Nơi nào những kẻ ngu phát biểu, nơi ấy những người không bị trói buộc (sẽ) bị trói buộc. Nơi nào các bậc sáng trí phát biểu, nơi ấy ngay cả những người đã bị trói buộc cũng được tự do.
10. Bổn sanh Thoát Khỏi Sự Trói Buộc
Chỗ nào kẻ ngu nói,
Chúng trói kẻ vô tội,
Chỗ nào bậc trí nói,
Cứu thoát kẻ bị trói.
Haṃsavaggo dvādasamo.
*****
Phẩm Thiên Nga là thứ mười hai.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Atha gadrabhasattu cakaṃsasataṃ bahucintisāsikāyātikara, ativelavisesamanācariyo ca dhīrāpahāsaratena dasa.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Giờ đến con lừa, bánh bột, và trăm đồng tiền vàng,suy nghĩ nhiều, con chim cái, công việc vượt quá khả năng,quá nhiều thời gian, mục đích, và không thầy dạy học,
với việc thốt lên của bậc sáng trí, là mười.
–ooOoo–
▪ 13. KUSANĀḶIVAGGO
▪ 13. PHẨM CỎ ỐNG KUSA
121. Kare sarikkho athavāpi seṭṭho nihīnako cāpi kareyya eko, kareyyuṃ te vyasane uttamatthaṃ yathā ahaṃ kusanāḷi rucāyan ”ti.
1. Kusanāḷijātakaṃ.
121. Người ngang bằng, hoặc là người tốt hơn, nên kết bạn, và thậm chí một người kém hơn, cũng nên kết bạn. Vào lúc bất hạnh, những người ấy có thể làm hết khả năng, giống như ta, thần cây cỏ ống Kusa, đã làm cho thần cây Rucā.
1. Bổn sanh Cỏ Ống Kusa
Hãy để cho tất cả
Bằng, hơn hay thua ta,
Làm hết sức của mình,
Trong thời hoạn nạn đến
Như ta được giúp đỡ
Nhờ thần cây cỏ lau!
122. Yasaṃ laddhāna dummedho anatthaṃ carati attano, attano ca paresañca hiṃsāya paṭipajjatī ”ti.
2. Dummedhajātakaṃ.
122. Kẻ ngu muội, sau khi đạt được danh vọng, thực hành điều vô ích cho bản thân, gây ra tai họa cho bản thân và những người khác.
2. Bổn sanh Kẻ Ngu Muội
Kẻ ngu được danh xưng,
Tự mình gây nguy hiểm,
Ðem hại đến cho mình,
Ðem hại cho người khác.
123. Asabbatthagāminiṃ vācaṃ bālo sabbattha bhāsati, nāyaṃ dadhiṃ vedi na naṅgalīsaṃ dadhimpayaṃ maññati naṅgalīsan ”ti.
3. Naṅgalīsajātakaṃ.
123. Kẻ ngu si nói lời nói không áp dụng được với mọi trường hợp trong tất cả các tình huống. Nó không biết sữa đông, không biết cái cán cày, nó nghĩ rằng sữa đông và sữa là cái cán cày.
3. Bổn sanh Cái Cán Cày
Kẻ ngu nói hạn chế,
Tại chỗ không hạn chế,
Nó không biết sữa đông,
Cũng không biết cán cày,
Nó nghĩ là sữa đông,
Giống như cái cán cày.
124. Vāyametheva puriso na nibbindeyya paṇḍito, vāyāmassa phalaṃ passa bhuttā ambā anītihan ”ti.
4. Ambajātakaṃ.
124. Con người cần phải tinh tấn, bậc sáng suốt không nên chán nản. Ngươi hãy nhìn xem tận mắt kết quả của sự tinh tấn: các quả xoài đã được thọ dụng (một cách thừa thãi).
4. Bổn sanh Các Quả Xoài
Này, người hãy tinh tấn,
Bậc hiền trí không nản,
Xem quả của tinh tấn,
Xoài được ăn thỏa thích.
125. Bahumpi so vikattheyya aññaṃ janapadaṃ gato, anvāgantvāna dūseyya bhuñja bhoge kaṭāhakā ”ti.
5. Kaṭāhakajātakaṃ.
125. Đi đến xứ sở khác, người ấy có thể khoác lác nhiều, sau khi quay trở về, có thể gây tổn hại. Này Kaṭāhaka, chàng hãy thọ dụng những phần ăn (dành cho chàng).
5. Bổn sanh Kaṭāhaka
Nó nói nhiều, đại ngôn,
Khi đến xứ sở lạ,
Vị ấy sẽ trở lui,
Và phá hoại tất cả,
Vậy Ka-tà-ha-ka,
Hãy ăn món này gấp!
126. Tathevekassa kalyāṇaṃ tathevekassa pāpakaṃ, tasmā sabbaṃ na kalyāṇaṃ sabbaṃ vāpi na pāpakan ”ti.
6. Asilakkhaṇajātakaṃ.
126. Cũng y như thế đối với một người là tốt đẹp; cũng y như thế đối với một người (khác) là xấu xa. Vì thế, mọi thứ không hẳn là tốt đẹp, hoặc mọi thứ cũng không hẳn là xấu xa.
6. Bổn sanh Tướng Trạng Của Cây Kiếm
Cũng đồng một sự việc,
Với người này là tốt,
Với người kia là xấu,
Không tốt cho tất cả,
Cũng không xấu tất cả.
127. Te desā tāni vatthūni ahañca vanagocaro, anuvicca kho taṃ gaṇheyyuṃ piba khīraṃ kalaṇḍukā ”ti.
7. Kalaṇḍukajātakaṃ.
127. Các dòng dõi ấy, các nền tảng ấy (của hai người), và ta là chim sống ở rừng (ta biết điều ấy). Đương nhiên, sau khi tìm ra được, họ sẽ bắt lấy ngươi. Này Kalaṇḍuka, ngươi hãy uống sữa.
7. Bổn sanh Kalaṇḍuka
Dòng họ, trú xứ anh,
Tuy là chim ở rừng,
Ta hiểu được sự thật,
Sẽ khiến người bắt anh,
Hỡi Ka-lan-du-ka,
Hãy uống sữa đi thôi!
128. Yo ve dhammaṃ dhajaṃ katvā nigūḷho pāpamācare, vissāsayitvā bhūtāni biḷāraṃ nāma taṃ vatan ”ti.
8. Biḷāravatajātakaṃ.
128. Kẻ nào lấy đạo đức làm vỏ bọc, giấu diếm, thực hành việc xấu xa, và đã làm cho các chúng sanh tin tưởng; sự hành trì ấy được gọi là giả dối.
8. Bổn sanh Sự Hành Trì Giả Dối
Ai yêu cờ Chánh pháp,
Bí mật làm điều ác,
Dụng ý để lường gạt
Các loài sinh vật khác,
Giới cấm kẻ như vậy
Ðược gọi hạnh con mèo.
129. Nāyaṃ sikhā puññahetu ghāsahetu ayaṃ sikhā, n’ aṅguṭṭhagaṇanaṃ yāti alante hotu aggikā ”ti.
9. Aggikajātakaṃ.
Cái búi tóc này không do nguyên nhân phước thiện, cái búi tóc này do nguyên nhân vật thực, việc đếm ngón tay không cần nữa, đối với ngươi đã là đủ rồi, này kẻ thờ lửa!
9. Bổn sanh Kẻ Thờ Lửa
Cái chỏm trên đầu này
Không do công đức tạo,
Cái chỏm trên đầu này
Do duyên cái bụng tạo,
Ðếm ngón tay làm gì?
Vừa rồi, kẻ thờ lửa!
130. Yathā vācā ca bhuñjassu yathābhuttañca vyāhara, ubhayaṃ te na sameti vācābhuttañca kosiye ”ti.
10. Kosiyajātakaṃ.
130. Lời nói (khai bệnh) như thế nào, thì nàng hãy ăn như thế ấy; và vật đã ăn vào như thế nào, thì nàng hãy nói rõ (về bệnh tình) như thế ấy. Cả hai việc, lời nói và vật đã ăn vào, đều không phù hợp với nàng, này Kosiyā.
10. Bổn sanh Kosiyā
Hãy ăn như đã nói,
hãy nói như đã ăn,
Ngươi không làm cả hai,
Cả nói và cả ăn,
Hỡi này Ko-si-ya.
Kusanāḷivaggo terasamo.
*****
Phẩm Cỏ Ống Kusa là thứ mười ba.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Kusanāḷisirivhayano ca yasaṃ dadhimambakaṭāhakapañcamako, atha pāpaka khīrabiḷāravataṃ sikhikosiyasavhayanena dasa.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Cỏ ống Kusa là tên gọi vinh quang, và danh vọng, sữa đông, các quả xoài, và Kaṭāhaka là thứ năm, rồi việc xấu xa, (hãy) uống sữa, và sự hành trì giả dối, với búi tóc, và cô nàng tên Kosiyā, là mười.
–ooOoo–
▪ 14. ASAMPADĀNAVAGGO
▪ 14. PHẨM KHÔNG TIẾP NHẬN
131. Asampadānen’ itarītarassa bālassa mittāni kalībhavanti, tasmā harāmi bhusaṃ aḍḍhamānaṃ mā me mitti jīyittha sassatāyan ”ti.
1. Asampadānajātakaṃ.
131. Do việc không tiếp nhận vật của người này hay của người khác, các bạn bè của kẻ ngu bị chia cắt; vì thế, tôi mang đi một nửa thùng trấu (nghĩ rằng): ‘Chớ để cho tình bạn của ta bị tiêu hoại, mong sao nó sẽ được trường tồn.’
1. Bổn sanh Không Tiếp Nhận
Nếu người này người kia
Không có cho chút gì.
Với kẻ ngu si, tình bạn
Ði đến chỗ tối đen
Do vậy ta vẫn nhận
Lượng được nửa phần trấu.
Ta không để tình bạn
Vì ta bị hủy diệt,
Ta muốn tình bạn này
Mãi mãi được trường cửu.
132. Kusalūpadese dhitiyā daḷhāya ca avatthitattā bhayabhīrutāya ca, na rakkhasīnaṃ vasamāgamimha
sa sotthibhāvo mahatā bhayena me ”ti.
2. Pañcagarukajātakaṃ.
132. Với sự can đảm và vững chãi theo lời chỉ dạy của các thiện nhân, với trạng thái đã được ổn định, và không sợ hãi hay khiếp đảm, ta đã không rơi vào sự khống chế của các nữ quỷ, trạng thái an ổn đối với nỗi sợ hãi lớn lao ấy đã có cho ta.
2. Bổn sanh Năm Điều Nghiêm Trọng
Nghe theo lời khuyên tốt,
Kiên trì, không lay động,
Tiếp tục con đường,
Không có gì sợ hãi.
Ta không muốn đi vào
Chỗ cám dỗ Dạ-xoa,
Nên ta được an toàn,
Khỏi sự sợ hãi lớn.
133. Khemaṃ yahiṃ tattha arī udīrito udakassa majjhe jalate ghatāsano, na ajja vāso mahiyā mahīruhe disā bhajavho saraṇajja no bhayan ”ti.
3. Ghatāsanajātakaṃ.
133. Tại nơi có sự an toàn, nơi ấy kẻ thù đã lên tiếng; ngọn lửa tự bốc cháy từ chính giữa của nước hồ. Hôm nay chỗ ngụ ở cây mọc trên đất không còn nữa. Các bạn hãy bay đi các phương, chốn nương nhờ hôm nay là sự sợ hãi của chúng ta.
3. Bổn sanh Ngọn Lửa
Nơi chốn được an ổn,
Tại đấy, rắn nổi lên,
Chính ở giữa lòng nước,
Lửa từ đấy cháy lên,
Nay không nên trú ở
Tại cây mọc trên đất,
Hãy bay tản các phương,
Hồ này rất đáng sợ.
134. Ye saññino tepi duggatā yepi asaññino tepi duggatā, etaṃ ubhayaṃ vivajjaya taṃ samāpattisukhaṃ anaṅgaṇan ”ti.4. Jhānasodhanajātakaṃ.
134. Những người (ở cõi) hữu tưởng, họ cũng đi khổ cảnh, ngay cả những người (ở cõi) vô tưởng, họ cũng đi khổ cảnh. Sau khi buông bỏ cả hai điều này, an lạc của sự chứng đạt ấy là không có ô nhiễm.
4. Bổn sanh Sự Trong Sạch Của Thiền
Những ai còn có tưởng,
Chúng cũng đi ác thú;
Những ai không có tưởng,
Chúng cũng đi ác thú,
Hãy từ bỏ cả hai,
Ðạt được lạc thiền chứng,
Không còn các uế nhiễm.
135. Candābhaṃ suriyābhañca yo ’dha paññāya gādhati, avitakkena jhānena hoti ābhassarūpago ”ti.
5. Candābhajātakaṃ.
135. Ở đây, người nào gắn chặt vào ánh sáng của mặt trăng và ánh sáng của mặt trời nhờ vào trí tuệ, với thiền không có tầm (nhị thiền), người ấy sanh về cõi Quang Âm Thiên.
5. Bổn sanh Ánh Sáng Của Mặt Trăng
Nguyệt quang và nhật quang,
Ai tu với trí tuệ
Với thiền không tầm này,
Ðược sanh Quang âm thiên.
136. Yaṃ laddhaṃ tena tuṭṭhabbaṃ atilobho hi pāpako, haṃsarājaṃ gahetvāna suvaṇṇā parihāyathā ”ti.
6. Suvaṇṇahaṃsajātakaṃ.
136. Vật nào đã được thọ nhận, nên hài lòng với vật đó; bởi vì tham quá lố là xấu xa. Sau khi bắt được thiên nga chúa, người (mẹ) đã mất hết vàng.
6. Bổn sanh Con Thiên Nga Vàng
Ðược gì, hãy biết đủ,
Quá tham là ác pháp,
Do bắt chúa ngỗng trời,
Bao nhiêu vàng tiêu hết.
137. Yattheko labhate babbu dutiyo tattha jāyati, tatiyo ca catuttho ca idaṃ te babbukā bilan ”ti.
7. Babbukajātakaṃ.
137. Ở nơi có một con mèo nhận lãnh (thức ăn), tại nơi ấy con mèo thứ hai xuất hiện, con thứ ba, rồi con thứ tư; bốn con mèo ấy (lao đến) hang chuột này (và bị tiêu vong).
7. Bổn sanh Con Mèo
Tại chỗ cho một mèo,
Mèo thứ hai hiện ra,
Rồi mèo thứ ba, bốn,
Tất cả con mèo chết,
Vì chạm hang gương này.
138. Kinte jaṭāhi dummedha kinte ajinasāṭiyā, abbhantaraṃ te gahanaṃ bāhiraṃ parimajjasī ”ti.
8. Godhajātakaṃ.
138. Này kẻ ngu muội, có ích gì với những búi tóc bện của ngươi? Có ích gì với y phục bằng da dê của ngươi? Ngươi đánh bóng bên ngoài, bên trong của ngươi là rừng rậm (ô nhiễm).
8. Bổn sanh Con Kỳ Đà.
Kẻ ngu có ích gì,
Bện tóc với da dê,
Nội tâm đầy phiền não,
Ngoài mặt đánh bóng suông?
139. Akkhi bhinnā paṭo naṭṭho sakhī gehe ca bhaṇḍanaṃ, ubhato paduṭṭhakammanto udakamhi thalamhi cā ”ti.
9. Ubhatobhaṭṭhajātakaṃ.
139. (Hai) con mắt bị tổn thương, cái áo choàng bị mất, và người vợ ở nhà gây cãi vã; việc làm bị hư hỏng ở cả hai nơi, ở trong nước và ở trên đất liền.
9. Bổn sanh Bị Suy Sụp Cả Hai Nơi.
Mắt mù, áo bị mất,
Cãi vã, vợ bị đánh,
Hai việc đều hư hỏng,
Dưới nước và trên cạn.
140. Niccaṃ ubbiggahadayā sabbalokavihesakā, tasmā tesaṃ vasā natthi kākānasmāka ñātīnan ”ti.
10. Kākajātakaṃ.
140. Những con quạ thân quyến của chúng tôi, có tâm bị kích động thường xuyên, là những kẻ gây phiền hà đến tất cả thế gian, vì thế không có lớp mỡ ở chúng.
10. Bổn sanh Con Quạ
Tâm thường bị chấn động,
Bị thế giới làm hại,
Do vậy không có mỡ,
Bà con quạ chúng tôi.
Asampadānavaggo cuddasamo.
*****
Phẩm Không Tiếp Nhận là thứ mười bốn.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Itarītararakkhasikhemiyo ca parosatapañhena ābhassaro puna, atha haṃsavaruttamababbujaṭaṃ paṭanaṭṭhakakākavarena dasa.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Của người này hay của người khác, các nữ quỷ, và sự an toàn, với câu hỏi của hơn một trăm người, thêm vào cõi Quang Âm Thiên, rồi chim thiên nga cao qúy tối thượng, con mèo, búi tóc bện, kẻ bị mất cái áo choàng, với chuyện con quạ, là mười.
–ooOoo–
▪ 15. KAKAṆṬAKAVAGGO
▪ 15. PHẨM CON TẮC KÈ
141. Na pāpajanasaṃsevī accantasukhamedhati, godhākulaṃ kakaṇṭo ’va kaliṃ pāpeti attānan ”ti.
1. Godhajātakaṃ.
141. Người có sự thân cận với kẻ ác không đạt được sự an lạc tột đỉnh, còn khiến cho bản thân lâm vào tai họa, tựa như con tắc kè hại gia tộc kỳ đà vậy.
1. Bổn sanh Con Kỳ Đà
Giao du với kẻ ác
Không đưa đến an lạc,
Do một con kỳ nhông,
Toàn gia đình cắc kè
Ðã rơi vào đại nạn.
142. Etaṃ hi te durājānaṃ yaṃ sesi matasāyikaṃ, yassa te kaḍḍhamānassa hatthā daṇḍo na muccatī ”ti.
2. Sigālajātakaṃ.
142. Chính việc ấy của ngươi là khó nhận biết được, là việc ngươi đã nằm dài như thế nằm của người đã chết. Nhưng do việc ngươi đang lôi kéo, nên chiếc gậy không rời khỏi cánh tay của ngươi.
2. Bổn sanh Con Chó Rừng
Như vậy, khó biết ngươi,
Khi ngươi nằm giả chết,
Khi ta kéo gậy ngươi,
Ngươi không thả chiếc gậy,
Do vậy ta biết được,
Nhà ngươi chưa thật chết!
143. Lasī ca te nipphalitā matthako ca vidāḷito, sabbā te phāsukā bhaggā ajja kho tvaṃ virocasī ”ti.
3. Virocanajātakaṃ.
143. Óc não của ngươi bị nát bấy, và đầu của ngươi bị bể tan, tất cả các xương sườn của ngươi bị bẻ gãy, hôm nay ngươi thật sự chói sáng.
3. Bổn sanh Sự Chiếu Sáng
Với óc não nát bấy,
Với đầu bị vỡ tan,
Với xương sườn gãy nát,
Nay ngươi đã mất đầu.
144. Bahumpetaṃ asaṅgi jātaveda yaṃ taṃ vāladhinā hi pūjayāma, maṃsārahassa natthajja maṃsaṃ naṅguṭṭhampi bhavaṃ paṭiggahātū ”ti.
4. Naṅguṭṭhajātakaṃ.
144. Này thần lửa ti tiện, chừng này cũng là nhiều, là việc chúng ta cúng dường ngài chỉ mỗi cái đuôi. Hôm nay không có thịt cho người đáng được thịt, xin ngài hãy thọ nhận chi mỗi cái đuôi bò.
4. Bổn sanh Cái Đuôi Bò
Ôi thần lửa sanh nhật,
Thần lửa không giá trị,
Ta chỉ cúng cái đuôi,
Hãy xem là nhiều vậy,
Các loại thịt xứng đáng
Hiện nay không có nữa,
Ngài hãy vui chấp nhận
Chỉ bộ phận cái đuôi!
145. Na tvaṃ rādha vijānāsi aḍḍharatte anāgate, avyāyataṃ vilapasi virattā kosiyāyane ”ti.
5. Rādhajātakaṃ.
145. Này Rādha, em không biết rõ về những kẻ còn chưa đến vào lúc nửa đêm. Em nói năng không suy xét, người vợ không còn luyến ái (với chồng).
5. Bổn sanh Rādha
Radha, em không biết
Nửa đêm mấy người đến?
Em nói không suy nghĩ.
Nữ Bà-la-môn ấy
Chỉ thiếu tình người vợ
Ðối với chồng của mình.
146. Api nu hanukā santā mukhañca parisussati, oramāma na pārema pūrateva mahodadhī ”ti.
6. Kākajātakaṃ.
146. Thậm chí quai hàm của chúng ta cũng bị mỏi mệt, và miệng trở nên khô khốc. Chúng ta dậm chân tại chỗ, không dứt điểm được; đại dương vẫn tràn đầy.
6. Bổn sanh Bầy Quạ
Cổ chúng ta mệt mỏi,
Miệng chúng ta khô cứng,
Cố tát cạn nước biển,
Biển lớn lại đầy tràn.
147. Na idaṃ dukkhaṃ aduṃ dukkhaṃ yaṃ maṃ tudati vāyaso, yaṃ sāmā puppharattena kattikaṃ nānubhossatī ”ti.
7. Puppharatajātakaṃ.
147. Việc này không có khổ, là việc con quạ mổ vào (mắt) ta; việc kia mới khổ, là việc vợ ta sẽ không tham dự lễ hội Kattika với vải choàng hoa đỏ.
7. Bổn sanh Vải Choàng Hoa Đỏ
Khổ này không phải khổ,
Vì cọc nhọn đâm ta,
Vì ta bị quạ mổ!
Chính điều này mới khổ:
Vì vợ ta không thể
Vui chơi ngày hội lớn
Với áo màu hồng đỏ!
148. Nāhaṃ punaṃ na ca punaṃ na cāpi apunappunaṃ, hatthibondiṃ pavekkhāmi tathā hi bhayatajjito ”ti.
8. Sigālajātakaṃ.
148. Không có lần nữa, không có lần khác nữa, thậm chí không có lần nào khác nữa khiến ta sẽ đi vào trong thân thể của con voi, bởi vì như thế ấy thì ta sẽ bị đe dọa bởi nỗi sợ hãi.
8. Bổn sanh Con Chó Rừng
Ta sẽ không làm nữa,
Ta không làm, làm nữa,
Ta thấy xác con voi,
Như vậy ta hoảng sợ.
149. Ekapaṇṇo ayaṃ rukkho na bhūmyā caturaṅgulo, phalena visakappena mahāyaṃ kiṃ bhavissatī ”ti.
9. Ekapaṇṇajātakaṃ.
149. Cây này có một lá, từ mặt đất không hơn bốn ngón tay. Với trái như là có vị của chất độc, cây này khi cao lớn sẽ làm được gì?
9. Bổn sanh Cây Có Một Lá
Cây này chỉ một lá,
Cách đất bốn đốt tay,
Lá nó giống thuốc độc,
Lớn lên sẽ làm gì?
150. Asantaṃ yo pagaṇhāti asantañcūpasevati, tameva ghāsaṃ kurute vyaggho sañjīvako yathā ”ti.
10. Sañjīvajātakaṃ.
150. Kẻ nào kết giao với người không tốt, và thân cận với người không tốt, chính kẻ ấy bị xem là vật thực, giống như con cọp và thanh niên Sañjīva.
10. Bổn sanh Sañjīva
Ai theo kẻ bất thiện,
Thân cận kẻ bất thiện,
Sẽ bị nó giết chết,
Như cọp giết Ji-va.
Kakaṇṭakavaggo paṇṇarasamo.
*****
Phẩm Con Tắc Kè là thứ mười lăm.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Sukhamedhatidaṇḍavaro ca puna lasivāladhipañcamarādhavaro, samahodadhikattikabondi puna caturaṅgulabyagghavarena dasa.
Uparimapaṇṇāsako.
Ekakanipāto niṭṭhito.
*****
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
(Không) đạt được sự an lạc, và thêm nữa là chuyện chiếc gậy, óc não, cái đuôi bò, và chuyện Rādha là thứ năm, với đại dương, lễ hội Kattika, và thân thể (của con voi) nữa, bốn ngón tay, với chuyện con cọp, là mười.
Năm mươi kệ ngôn cuối.
Nhóm Một Kệ Ngôn được chấm dứt.
*****
TATRA VAGGUDDĀNAṂ
Apaṇṇakaṃ sīlavaggakuruṅga kulāvakaṃ atthakāmena pañcamaṃ, āsiṃsoitthivaruṇaṃ apāyi. littavaggena terasa,
parosataṃ haṃsisarikkhaṃ asampadaṃkakaṇṭavaggo.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC CÁC PHẨM Ở NHÓM NÀY
Phẩm Không Lỗi Lầm, Giới, Sơn Dương, Tổ Chim Non, với Mong Mỏi Sự Tấn Hóa là thứ năm, Hy Vọng, Người Nữ, Cây Varuṇa, Đã Uống, với phẩm Đã Được Thoa Vào, chúng là mười, Hơn Một Trăm Người, Thiên Nga là tương tự, Không Tiếp Nhận, và phẩm Con Tắc Kè.
–ooOoo–
—-
Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda