Tiểu Bộ – Bổn Sanh I: Nhóm mười một kệ ngôn, Phẩm 1 – 5
1532. Tassa nāgassa vippavāsena virūḷhā sallakī ca kuṭajā ca, kuruvindakaravarā bhisasāmā nivāte pupphitā ca kaṇikārā.
1532. “Do sự vắng mặt của con voi ấy, các loại cây sallakī, kuṭajā, kuruvinda, trúc đào, và các cây thuộc họ sen súng được phát triển, còn các cây kaṇikāra ở nơi khuất gió được trổ hoa.
1. Dù cho Voi chúa phải đi xa,
Dược thảo, nhũ hương vẫn mọc ra,
Lúa cỏ, trúc đào, cùng súng trắng,
Kén xanh chỗ khuất vẫn đơm hoa.
1533. Kocideva suvaṇṇakāyūrā nāgarājaṃ bharanti piṇḍena, yattha rājā rājakumāro vā kavacamabhihessati asambhīto.
1533. Ở một nơi nào đó, những người đeo vòng vàng ở bắp tay chu cấp miếng ăn cho con voi chúa. Các vị vua hoặc các vị hoàng tử ngồi ở lưng voi sẽ không bị kinh sợ và sẽ đánh tan đoàn quân có áo giáp.”
2. Tượng vương hẳn đến tận phương nao
Sung túc nhờ bao kẻ tước cao,
Trang điểm ngọc vàng, vua chúa cỡi,
Oai hùng thắng địch thủ mang bào.
1534. Gaṇhāhi nāga kabaḷaṃ mā nāga kisako bhava, bahūni rājakiccāni yāni nāga karissasi.
1534. “Này voi, hãy nhận lấy nắm thức ăn. Này voi, chớ để gầy ốm. Này voi, có nhiều phận sự đối với đức vua mà ngươi sẽ phải làm.”
3. Nào ăn đi một miếng, Voi này,
Ðừng có buồn chi, chớ héo gầy,
Ðể phụng sự vua, còn lắm việc
Mà Voi sẽ đảm trách sau này.1
535. Sā nūna sā kapaṇikā andhā aparināyikā, khāṇuṃ pādena ghaṭṭeti giriṃ caṇḍoraṇaṃpati.
1535. “Bà ấy, quả thật là một bà lão đáng thương, mù lòa, không sáng suốt, thường cọ bàn chân vào gốc cây ở khu vực đối diện với núi Caṇḍoraṇa.”
4. Không, trên đỉnh núi Chiên-đồ-gia,
Khốn khổ bà kia, mắt lại lòa,
Dậm một chân vào gốc cổ thụ
Vì không Voi chúa, ấy con bà.
1536. Kā nu te sā mahānāga andhā aparināyikā, khāṇuṃ pādena ghaṭṭeti giriṃ caṇḍoraṇaṃpati.
1536. “Này voi chúa, bà lão mù lòa, không sáng suốt, thường cọ bàn chân vào gốc cây ở khu vực đối diện với núi Caṇḍoraṇa, bà ấy là gì đối với ngươi?”
5. Ai ở trên đồi Chiên-đồ-gia,
Nào ai khốn khổ, lại mù lòa?
Dậm chân vào một gốc cây nọ,
Vì chẳng chúa Voi, con của bà?
1537. Mātā me sā mahārāja andhā aparināyikā, khāṇuṃ pādena ghaṭṭeti giriṃ caṇḍoraṇaṃpati.
1537. “Tâu đại vương, bà lão mù lòa, không sáng suốt, thường cọ bàn chân vào gốc cây ở khu vực đối diện với núi Caṇḍoraṇa, bà ấy là mẹ của thần.”
6. Mẹ ta ở trên núi Chiên-đồ gia,
Khốn khổ mù lòa thật xót xa,
Dậm một chân vào gốc cổ thụ,
Bởi vì Voi chúa ấy là ta.
1538. Muñcathetaṃ mahānāgaṃ yo ’yaṃ bharati mātaraṃ, sametu mātarā nāgo saha sabbehi ñātihi.
1538. “Hãy thả con voi chúa này, nó phải nuôi dưỡng mẹ. Hãy để cho con voi hội họp với mẹ cùng tất cả thân quyến.”
7. Voi hùng phụng dưỡng mẫu thân mình,
Nên thả tự do, cứ mặc tình,
Thôi để Voi đi về với mẹ
Và cùng sum họp với gia đình.
1539. Mutto ca bandhanā nāgo kāsirājena pesito, muhuttaṃ vissamitvāna agamā yena pabbato.
1539. “Và con voi đã được thoát khỏi sự trói buộc, đã được đức vua xứ Kāsi phóng thích. Sau khi phục hồi sức lực, nó đã nhanh chóng đi đến ngọn núi.
8. Khỏi cảnh giam cầm được thoát thân,
Hết dây ràng buộc, chúa Voi rừng,
Vài lời khuyên nhủ cùng vua ấy,
Voi lại trở về chốn núi ngàn.
1540. Tato so naliniṃ gantvā sītaṃ kuñjarasevitaṃ, soṇḍāya udakamāhatvā mātaraṃ abhisiñcatha.
1540. Sau đó, nó đã đi đến hồ nước mát lạnh, nơi các con voi thường lai vãng. Nó đã dùng vòi mang nước lại rồi rưới lên con voi mẹ.”
9. Rồi xuống hồ kia mát lạnh trong,
Nơi này Voi vẫn tới bao lần,
Dùng vòi hút nước từ hồ ấy
Tung vẫy khắp mình của mẫu thân.
1541. Koyaṃ anariyo devo akālenapi vassati, gato me atrajo putto yo mayhaṃ paricārako.
1541. “Vị Trời không cao thượng này là vị nào mà lại đổ mưa sái mùa? Đứa con trai ruột của tôi, người phục vụ cho tôi đã ra đi.”
10. Ai đó đem mưa thật trái thời,
Thần nào độc ác quá, trời ơi!
Vì nay con trẻ đà đi vắng,
Con trẻ xưa thường phụng dưỡng tôi.
1542. Uṭṭhehi amma kiṃ sesi āgato tyāhamatrajo, muttomhi kāsirājena vedehena yasassinā.
1542. “Mẹ ơi, hãy đứng dậy. Việc gì mẹ lại nằm? Con là con trai của mẹ đã về đến. Con được thả ra nhờ vào đức vua xứ Kāsi có danh tiếng tên Veheha.”
11. Sao mãi nằm kia vậy, mẹ ơi!
Này đây con mẹ đã về rồi,
Ca-thi Ðại đế, ngài Thông tuệ,
Cho trẻ bình an được tái hồi.
1543. Ciraṃ jīvatu so rājā kāsīnaṃ raṭṭhavaddhano, yo me puttaṃ amocesi sadā vuddhāpacāyikan ”ti.
1. Mātuposakajātakaṃ – Bổn sanh Người Phụng Dưỡng Mẹ.
1543. “Cầu cho đức vua ấy sống lâu với việc phát triển vương quốc Kāsi. Ngài đã phóng thích đứa con trai của ta, đứa con trai luôn luôn có sự tôn kính bậc trưởng thượng.”
12. Vạn tuế trường tồn, đấng Ðại vương!
Cầu ngài đem lại nước hùng cường,
Tự do ngài trả cho con đó,
Với mẹ, con tròn vẹn kính thương!
1544. Suṇohi mayhaṃ vacanaṃ janinda atthena juṇhamhi idhānupatto, na brāhmaṇe addhike tiṭṭhamāne gantabbamāhu dipadāna seṭṭha.
1544. “Tâu vị chúa của loài người, xin bệ hạ hãy lắng nghe lời nói của tôi. Tôi đã tìm đến nơi này với mục đích gặp Juṇha. Tâu vị đứng đầu của loài hai chân, người đời đã nói rằng: ‘Khi vị Bà-la-môn là người đi đường xa đang đứng ở bên đường, thì không nên bỏ đi.’”
1. Tâu Ðại vương, nghe lão nói điều này
Chẳng phải là vô cớ lão về đây,
Ðời thường bảo: Mình không nên vượt quá
Người du sĩ đứng ngay trên đường sá.
1545. Suṇomi tiṭṭhāmi vadehi brahme yenāsi atthena idhānupatto, kaṃ vā tvamatthaṃ mayi patthayāno idhāgamā brahme tadiṅgha brūhi.
1545. “Này Bà-la-môn, trẫm nghe, và trẫm đứng lại, vậy ngài hãy nói. Vì mục đích gì mà ngài đã tìm đến nơi này? Hoặc trong khi ước nguyện điều gì ở trẫm, mà ngài đã đi đến nơi đây? Này Bà-la-môn, ngài hãy nói ra điều ấy đi.”
2. Ta đứng nghe, này Ðạo sĩ nói ngay,
Cớ sao ngài cất bước đến nơi đây?
Ngài ao ước một đặc ân nào đó,
Mà phải tìm, xin nói cho ta rõ.
1546. Dadāhi me gāmavarāni pañca dāsīsataṃ sattagavaṃ satāni, parosahassañca suvaṇṇanikkhe bhariyā ca me sādisī dve dadāhi.
1546. “Xin bệ hạ hãy ban cho tôi năm ngôi làng hạng nhất, một trăm nữ tỳ, bảy trăm con bò cái, và hơn một ngàn đồng tiền vàng. Và xin bệ hạ hãy ban cho tôi hai người vợ tương đương về dòng tộc.”
3. Xin cho lão năm ngôi làng thượng hạng,
Bảy trăm bò, tỳ nữ một trăm nàng,
Hơn một ngàn đồ trang sức bằng vàng,
Hai người vợ với ta cùng dòng dõi.
1547. Tapo nu te brāhmaṇa bhiṃsarūpo mantā nu te brāhmaṇa cittarūpā, yakkhā ca te assavā santi keciatthaṃ vā me abhijānāsi kattaṃ.
1547. “Này Bà-la-môn, phải chăng sự khắc khổ của ngài có hình thức khủng khiếp? Này Bà-la-môn, phải chăng chú thuật của ngài có hình thức đa dạng? Và có nhiều Dạ-xoa trung thành với ngài? Hay ngài biết chắc điều lợi ích gì đã được làm cho trẫm?”
4. Ðạo sĩ ơi, ngài có điều sám hối
Thật hãi hùng khi phải thổ lộ ra,
Ngài có nhiều thần chú hoặc đạo bùa,
Hay ma quỷ sẵn sàng tuân mệnh lệnh?
Hoặc thỉnh cầu vì hầu ta chân chính?
1548. Na me tapo atthi na cāpi mantā yakkhāpi me assavā natthi keci, atthampi te nābhijānāmi kattaṃ pubbe ca kho saṅgatimattamāsi.
1548. “Không có sự khắc khổ đối với tôi, và cũng không có chú thuật. Luôn cả các Dạ-xoa trung thành với tôi cũng không có . Tôi không biết chắc điều lợi ích gì đã được làm cho bệ hạ. Nhưng trước đây, bệ hạ đã có dịp gặp gỡ với tôi.”
5. Không ăn năn, chẳng thần chú, đạo bùa,
Không quỷ ma nào tuân lệnh của ta,
Không đòi thưởng vì công lao giúp đỡ,
Song trước kia chúng ta đà gặp gỡ,
Ðây chính là sự thật phải trình ra.
1549. Paṭhamaṃ imaṃ dassanaṃ jānato me na tābhijānāmi ito puratthā, akkhāhi me pucchito etamatthaṃ kadā kuhiṃ vā ahu saṅgamo no.
1549. “Theo như trẫm biết thì lần gặp này là lần đầu tiên. Trẫm không biết chắc đã có lần gặp trước đây. Được trẫm hỏi, xin ngài hãy nói về việc ấy. Sự gặp gỡ của chúng ta đã xảy ra khi nào, hay ở đâu?”
6. Trẫm không sao nhớ nổi, thời gian qua,
Rằng trẫm đã tương phùng ngài thuở nọ,
Trẫm van ngài nói điều này cho rõ
Khi gặp nhau, nơi chốn, thuở xưa xa?
1550. Gandhārarājassa puramhi ramme avasimhase takkasilāya deva, tatthandhakāramhi timissikāyaṃ aṃsena aṃsaṃ samaghaṭṭayimha.
1550. “Tâu bệ hạ, chúng ta đã sống ở Takkasilā, thành phố đáng yêu của đức vua Gandhāra. Tại nơi ấy, trong bóng tối dày đặc vào ban đêm, chúng ta đã va chạm nhau, vai sát vai.
7. Trong thành đô mỹ lệ chúa Gan-dhà,
Tâu Chúa thượng, Tak-ka là chốn ở,
Ðêm tối đen như mực kia, tại đó
Lão và ngài cùng vụt tới chạm vai,
1551. Te tattha ṭhatvāna ubho janinda sārāṇiyaṃ vītisārimha tattha, sāyeva no saṃgatimattamāsi tato na pacchā na pure ahosi.
1551. Tâu vị chúa của loài người, cả hai chúng ta đã đứng tại nơi ấy. Chúng ta đã trao đổi lời giao hẹn với nhau tại nơi ấy. Chính lúc ấy đã là dịp gặp gỡ của chúng ta, không có lần nào khác sau đó, trước đó cũng đã không có.”
8. Khi chúng ta đang đứng đó, thưa ngài,
Cuộc trò chuyện bắt đầu đầy thân thiện,
Chỉ lần đó chúng ta cùng diện kiến,
Trước chẳng hề và sau đó cũng không.
1552. Yadā kadāci manujesu brahme samāgamo sappurisena hoti,
na paṇḍitā saṅgatisanthavāni pubbe kataṃ vāpi vināsayanti.
1552. “Này Bà-la-môn, ở giữa loài người, vào bất cứ lúc nào, có được sự gặp gỡ với bậc thiện nhân, các vị sáng suốt không phủ nhận sự gặp gỡ (phút chốc) hay sự thân thiết (lâu dài), hoặc luôn cả việc ân nghĩa trước đây.
9. Khi trí nhân đã gặp, hỡi La-môn,
Thiện nhân giữa đời không nên để mặc
Tình bạn xưa nay cố nhân đi khuất,
Chẳng vì đâu, làm việc cũ chẳng quên!
1553. Bālā ca kho saṅgatisanthavāni pubbe kataṃ vāpi vināsayanti, bahumpi bālesu kataṃ vinassati tathā hi bālā akataññurūpā.
1553. Còn những kẻ ngu phủ nhận sự gặp gỡ (phút chốc) hay sự thân thiết (lâu dài), hoặc luôn cả việc ân nghĩa trước đây. Thậm chí nhiều việc đã được làm cho những kẻ ngu vẫn bị quên lãng, bởi vì những kẻ ngu có bản chất vô ơn như thế ấy.
10. Chính kẻ ngu chối bỏ việc xưa liền.
Và bỏ mặc tình người xưa chẳng nhớ
Những người ấy chúng có lần gặp gỡ;
Người ngu làm nhiều việc chẳng ra gì,
Chúng vong ân và chúng cứ quên đi.
1554. Dhīrā ca kho saṅgatisanthavāni pubbe kataṃ vāpi na nāsayanti, appampi dhīresu kataṃ na nassati tathā hi dhīrā sukataññurūpā.
1554. Và những người sáng trí không phủ nhận sự gặp gỡ (phút chốc) hay sự thân thiết (lâu dài), hoặc luôn cả việc ân nghĩa trước đây. Dầu ít việc đã được làm cho những người sáng trí cũng không bị quên lãng, bởi vì những người sáng trí có bản chất nhớ ơn tốt đẹp như thế ấy.
11. Song chánh nhân chẳng hề quên quá khứ,
Tình bằng hữu, người quen, luôn gắn bó,
Việc nhỏ nhoi do bằng hữu làm nên
Cũng chẳng hề bị từ chối, lãng quên,
Chánh nhân tận cuối đời ghi ơn bạn.
1555. Dadāmi te gāmavarāni pañca dāsīsataṃ sattagavaṃ satāni, parosahassañca suvaṇṇanikkhe bhariyā ca te sādisī dve dadāmi.
1555. Trẫm ban cho ngài năm ngôi làng hạng nhất, một trăm nữ tỳ, bảy trăm con bò cái, và hơn một ngàn đồng tiền vàng. Trẫm ban cho ngài hai người vợ tương đương về dòng tộc.”
12. Trẫm ban cố nhân năm làng thượng hạng,
Bảy trăm bò, nữ tỳ một trăm nàng,
Hơn một ngàn đồ trang sức bằng vàng,
Hai người vợ, với ngài cùng đẳng cấp.
2. Juṇhajātakaṃ – Bổn sanh Hoàng Tử Juṇha
1556. Evaṃ sataṃ hoti samecca rāja nakkhattarājāriva tārakānaṃ, āpūratī kāsipatī yathā ahaṃ tayā hi me saṅgamo ajja laddho ”ti.
1556. “Tâu bệ hạ, sau khi đi đến gặp gỡ những người tốt là như vậy. Tựa như mặt trăng, đức vua của các vì sao, được tròn đầy, tâu vị chúa tể của xứ Kāsi, tương tự như thế tôi được đầy đủ, bởi vì hôm nay cuộc gặp gỡ giữa tôi với bệ hạ đã được đạt đến.”
13. Ðại vương ôi, khi thiện nhân hòa hợp,
Như trăng rằm ta thấy giữa sao trời,
Như ta đây cũng vậy, Chúa công ôi,
Vì ngài đã giữ lời xưa giao ước.
1557. Yasokaro puññakarohamasmi sadatthuto samaṇabrāhmaṇānaṃ, maggāraho devamanussapūjito
dhammo ahaṃ dehi adhamma maggaṃ.
1557. “Ta là người tạo ra danh tiếng, là người làm việc phước thiện, luôn được các vị Sa-môn và Bà-la-môn khen ngợi. Được chư Thiên và nhân loại tôn vinh, ta xứng đáng với con đường. Này Adhamma (Phi Pháp), ta là Dhamma (Chánh Pháp); ngươi hãy nhường đường.”
1. Ta hành chánh hạnh ở trần gian,
Danh tiếng người đời được tặng ban,
Ðạo sĩ, hiền nhân, khen ngợi mãi,
Phần ta, đường Chánh, được tôn sùng,
Ðường ta là đó, ta chân chánh,
Tà pháp, vậy ngài hãy tránh đường.
1558. Adhammayānaṃ daḷhamāruhitvā asantasanto balavāhamasmi, sa kissa hetumhi tavajja dajjaṃ maggaṃ ahaṃ dhamma adinnapubbaṃ.
1558. “Sau khi đã leo lên chiếc xe tà pháp vững chãi, ta có sức mạnh, không run sợ. Này Dhamma (Chánh Pháp), vì nguyên nhân gì mà hôm nay, ta đây phải nhường cho ngươi con đường trước đây chưa được nhường cho ai?”
2-Trong chiếc hùng xa của pháp Tà,
Ngự trên ngôi báu ấy là ta,
Ðại hùng không kẻ làm kinh hãi,
Vì vậy ta không tự trước giờ
Nhường chỗ, sao nay đành nhượng bộ
Ðể cho Chánh pháp vượt xe qua?
1559. Dhammo have pāturahosi pubbe pacchā adhammo udapādi loke, jeṭṭho ca seṭṭho ca sanantano ca uyyāhi jeṭṭhassa kaniṭṭha maggā.
1559. “Thật vậy, chánh pháp đã xuất hiện trước, rồi sau đó phi pháp mới sanh khởi ở thế gian. Ta là đàn anh, lớn hơn, và già hơn. Này người trẻ tuổi, hãy đi ra khỏi con đường dành cho người lớn tuổi.”.
3. Chánh pháp đã bày tỏ trước tiên,
Là Thần ưu thắng, bậc cao niên,
Tà pháp trẻ hơn vì đẻ muộn,
Hậu sinh nhường bước, lệnh bề trên!
1560. Na yācanāya napi pāṭirūpā na arahati tehaṃ dadeyya maggaṃ, yuddhañca no hotu ubhinnamajja yuddhasmi yo jessati tassa maggo.
1560. “Không phải do cầu xin, cũng không phải do việc hợp lý lẽ, không phải ở sự xứng đáng mà ta có thể nhường đường cho ngươi. Hôm nay, hãy có trận đấu giữa hai chúng ta. Ai sẽ chiến thắng ở trận đấu thì con đường sẽ thuộc về người ấy.”
4. Dù ngài đức độ hoặc cầu xin,
Hoặc nếu công bình lẽ tự nhiên,
Ta quyết cũng không hề nhượng bộ,
Hôm nay ta dự đấu tranh liền,
Bất kỳ ai hễ giành ưu thắng,
Vị ấy được nhường chỗ trước tiên.
1561. Sabbā disā anuvisaṭohamasmi mahabbalo amitayaso atullo guṇehi sabbehi upetarūpo dhammo adhamma tvaṃ kathaṃ vijessasi.
1561. “Ta là Dhamma (Chánh Pháp) được nổi tiếng ở tất cả các phương, có sức mạnh vĩ đại, có danh tiếng không thể đo lường, không người sánh bằng, có dáng vóc thành tựu tất cả các đức tánh. Này Adhamma (Phi Pháp), ngươi sẽ chiến thắng bằng cách nào?”
5. Khắp cõi gần xa, ta nổi danh
Anh hùng vô địch, đại quang vinh,
Trong ta, hình thái này mang đủ
Tất cả công năng kết hợp thành,
Tà pháp này, ta là Chánh pháp,
Làm sao ngài chiến thắng phần mình?
1562. Lohena ve haññati jātarūpaṃ na jātarūpena hananti lohaṃ, sace adhammo haññati dhammamajja ayo suvaṇṇaṃ viya dassaneyyaṃ.
1562. “Thật ra, vàng bị đập nện bởi (búa) đồng thau, và người ta không đập nện đồng thau bằng (búa) vàng. Nếu hôm nay Adhamma (Phi Pháp) sẽ tiêu diệt Dhamma (Chánh Pháp), thì sắt có thể được xem như là vàng vậy.”
6. Nhờ sắt, mà vàng được đập ra,
Lấy vàng đập sắt, thấy bao giờ?
Nếu Tà đánh Chánh mà Tà thắng,
Sắt đẹp như vàng chẳng kém thua.
1563. Sace tuvaṃ yuddhabalo adhamma na tuyha vaddhā ca garū ca atthi, maggaṃ ca te dammi piyāppiyena vācā duruttānipi te khamāmi.
1563. “Này Adhamma (Phi Pháp), dầu cho ngươi có sức mạnh ở trận đấu, nhưng sự trưởng thượng và kính trọng vẫn không có cho ngươi, còn ta sẽ nhường đường cho ngươi cho dù thích hay không thích. Dẫu sao, ta cũng tha thứ cho ngươi về những lời đã nói sái quấy.”
7. Nếu ngài chiến đấu thật hùng cường,
Lời nói ngài dẫu chẳng thiện chơn,
Ta sẽ thứ tha lời ác ấy,
Và dù không muốn, phải nhường đường.
1564. Idañca sutvā vacanaṃ adhammo avaṃsiro patito uddhapādo, yuddhatthiko ce na labhāmi yuddhaṃ ettāvatā hoti hato adhammo.
1564. “Và sau khi nghe lời nói này, Adhamma (Phi Pháp) đã bị rơi xuống, đầu ở phía dưới, chân ở phía trên (trong khi than vãn rằng): ‘Là người mong muốn trận đấu, nhưng tôi không có được trận đấu.’ Adhamma (Phi Pháp) bị chết như thế ấy.
8. Lời ấy vừa nghe tự cõi cao,
Pháp Tà kia đã ngã lăn nhào,
Kinh hoàng số phận cho Tà pháp,
Dù muốn, ta không đánh trận nào.
1565. Khantibalo yuddhabalaṃ vijetvā hantvā adhammaṃ nihanitva bhummā, pāyāsi vitto abhiruyha sandanaṃ maggeneva atibalo saccanikkamo.
1565. Vị có sức mạnh của sự nhẫn nại đã chiến thắng kẻ có sức mạnh ở trận đấu, sau khi đã giết chết Adhamma (Phi Pháp) và vùi sâu trong lòng đất, vị có sức mạnh vượt trội, có sự nỗ lực về hạnh chân thật, đã vui vẻ bước lên cỗ xe kéo và đã ra đi bằng con đường ấy.
9. Vậy pháp Tà khiêu chiến bạo hung,
Bại vì Ðại sĩ lượng khoan dung,
Chết vì bị nuốt vào lòng đất,
Bậc Chánh chân an lạc, đại hùng,
Bảo vệ cho mình bằng chánh lý,
Ngự lên xa giá vội đằng vân.
1566. Mātāpitā samaṇabrāhmaṇā ca asammānitā yassa sake agāre, idheva nikkhippa sarīradehaṃ kāyassa bhedā nirayaṃ vajanti yathā adhammo patito avaṃsiro.
1566. Mẹ và cha, các vị Sa-môn và Bà-la-môn không được tôn kính ở ngôi ngôi nhà riêng của người nào, thì ngay ở nơi này, sau khi rời bỏ cơ thể thân xác, d0 sự hoại rã của thân, chúng di chuyển đến địa ngục, giống như Adhamma (Phi Pháp) đã bị rơi xuống, đầu ở phía dưới.
10. Ở nhà ai chẳng kính song thân,
Giáo sĩ, hiền nhân, lúc mạng chung,
Thân hoại, bật tung dây trói buộc,
Từ đây kẻ ở chốn phàm trần
Thẳng vào địa ngục ngay, nào khác
Tà pháp kia nhào xuống ngã lăn.
3. Dhammajātakaṃ – Bổn sanh Thiên Tử Dhamma
1567. Mātāpitā samaṇabrāhmaṇā ca, susammānitā yassa sake agāre, idheva nikkhippa sarīradehaṃ kāyassa bhedā sugatiṃ vajanti, yathāpi dhammo abhiruyha sandanan ”ti.
1567. Mẹ và cha, các vị Sa-môn và Bà-la-môn khéo được tôn kính ở ngôi nhà riêng của người nào, thì ngay ở nơi này, sau khi rời bỏ cơ thể thân xác, d0 sự hoại rã của thân, chúng di chuyển đến chốn an vui, giống như Dhamma (Chánh Pháp) đã bước lên cỗ xe kéo.”
11. Ở nhà ai kính trọng song thân,
Giáo sĩ, hiền nhân, lúc mạng chung,
Thân hoại, bật tung dây trói buộc,
Cõi Thiên thẳng tiến tự phàm trần,
Như ngài Chánh pháp trên xa giá
Ði đến cung trời của thiện nhân.
1568. Ekā nisinnā sucisaññatūru pāsādamāruyha aninditaṅgi, yācāmi taṃ kinnaranettacakkhu imekarattiṃ ubhayo vasema.
1568. “Hỡi nàng có dáng hình không bị chê bai, sau khi đã bước lên tòa lâu đài, nàng ngồi một mình, (y phục) tinh khiết, với hai bắp vế được khép lại. Hỡi nàng có cặp mắt tựa như mắt của loài nhân điểu, ta cầu xin nàng, hai chúng ta hãy sống chung một đêm này.”
1. Dung sắc nàng trong sáng, vẹn toàn,
Nàng ngồi lầu thượng, dáng cô đơn,
Diễm kiều, trông tựa như Thiên nữ,
Xin được đêm nay ở với nàng.
1569. Ukkiṇṇantara parikhaṃ daḷhamaṭṭālakoṭṭhakaṃ, rakkhitaṃ khaggahatthehi duppavesamidaṃ puraṃ.
1569. “Thành này khó xâm nhập, có hào được đào ở bên trong, có tháp canh và cổng thành vững chắc, được canh giữ bởi các vệ sĩ gươm cầm ở tay.
2. Thành này tường bọc, lũy đào sâu,
Việc đến gần đây khó biết bao,
Trong lúc tháp cao và lũy rộng,
Canh phòng đoàn kết với cung đao.
1570. Daharassa yudhino cāpi āgamo ca na vijjati, atha kena nu vaṇṇena saṅgamaṃ icchase mayā.
1570. Việc đi đến nơi này là không được phép đối với người trẻ tuổi và luôn cả binh lính. Vậy bởi lý do gì, chàng lại mong mỏi sự gặp gỡ với thiếp?”
3. Chẳng bầy niên thiếu, bậc anh hùng
Có thế vào đây được dễ dàng,
Hãy nói, việc gì là có sự
Cùng ta gặp gỡ chốn thâm cung?
1571. Yakkhohamasmi kalyāṇi āgatosmi tavantikaṃ, tvaṃ maṃ nandaya bhaddante puṇṇakaṃsaṃ dadāmi te.
1571. “Này mỹ nữ, ta là Dạ-xoa. Ta đã đi đến bên nàng. Này công nương, nàng hãy làm cho ta vui vẻ. Ta tặng cho nàng chiếc đĩa đầy (vàng).”
4. Ðại quý là Ta, hỡi tố nga,
Với nàng, ta xuất hiện bây giờ,
Ban ta ân huệ nàng, nương tử,
Ðây dĩa vàng, xin nhận của ta.
1572. Devañca yakkhaṃ atha vā manussaṃ na patthaye udayamaticcamaññaṃ, gaccheva tvaṃ yakkha mahānubhāva
mā cassu gantvā punarāvajittha.
1572. “Sau khi đức vua Udaya từ trần, thiếp không mong mỏi người nào khác, dầu là Thiên thần, Dạ-xoa, hay là loài người. Này vị Dạ-xoa có đại thần lực, ngài hãy đi ngay, và ngài chớ có ở đây. Sau khi đi rồi, ngài chớ quay lại nữa.”
5. Từ thuở Thiện Lai vĩnh biệt trần,
Ta không đòi, dẫu quý hay thần,
Hoặc người ở cạnh, này Thiên tử,
Ðừng đến nữa đây, chớ ở gần.
1573. Yā sā ratī uttamā kāmabhoginaṃ ratīsu sattā visamaṃ caranti, mā taṃ ratiṃ jīyi tuvaṃ sucimhite dadāmi te rūpiyaṃ kaṃsapūraṃ.
1573. “Sự khoái lạc nào là cùng tột đối với những người hưởng thụ dục lạc, và chúng sanh hành xử không giống nhau ở các khoái lạc, nàng chớ làm mai một sự khoái lạc ấy. Hỡi nàng có nụ cười làm vui lòng, ta tặng cho nàng chiếc đĩa bạc đầy.”
6. Cực lạc cùng nhau biết rõ rành,
Hoàn toàn trọn vẹn giữa đôi tình,
Khiến người đời phạm bao điều ác,
Ôi quý nương, nàng chớ vội khinh!
Chén bạc, hãy nhìn, ta kính tặng,
Hỡi nàng, cười mỉm giá khuynh thành.
1574. Nāriṃ naro nijjhapayaṃ dhanena ukkaṃsati yattha karoti chandaṃ, vipaccaṇīko tava devadhammo paccakkhato thokatarena esi.
1574. “Người nam, trong khi lấy lòng người nữ bằng tài sản, thì ca ngợi về điều nào tạo ra sự mong muốn ở người nữ; còn phương pháp ở chư Thiên của ngài thì ngược lại, điều rõ ràng là ngài đi đến với của cải ít hơn.”
7. Nam nhi mong tán tỉnh hồng quần,
Ðem tặng vàng kia cứ mãi tăng,
Cho đến khi nàng chìu thỏa ý,
Nhưng ta xét cách của Thiên thần
Nơi ngài khác hẳn: nay ngài đến,
Tặng vật xem ra cứ giảm dần.
1575. Āyuñca vaṇṇañca manussaloke nihīyati manujānaṃ sugatte, teneva vaṇṇena dhanampi tuyhaṃ nihīyati jiṇṇatarāsi ajja.
1575. “Hỡi cô nàng có cơ thể xinh xắn, tuổi thọ và sắc đẹp của loài người ở thế giới nhân loại bị giảm dần. Chính vì lý do đó, tài sản dành cho nàng cũng bị giảm dần; hôm nay, nàng già hơn.
8. Ôi mỹ nhân, xuân sắc tàn phai,
Hỡi nàng thục nữ giữa trần ai,
Hôm nay nàng phải già hơn trước,
Nên số vàng ta tặng giảm hoài.
1576. Evaṃ me pekkhamānassa rājaputti yasassini, hāyate vata te vaṇṇo ahorattānamaccaye.
1576. Hỡi nàng công chúa có danh tiếng, tương tự như vậy, trong khi tôi nhìn ngắm nàng. Quả thật sắc đẹp của nàng bị phai tàn, khi các ngày và đêm trôi qua.
9. Vậy thưa nàng nữ chúa huy hoàng,
Trước mắt ta đang ngưỡng mộ nàng,
Trong lúc ngày đêm qua thấm thoắt,
Sắc nàng tươi đẹp sẽ phai tàn.
1577. Iminā ca tvaṃ vayasā rājaputti sumedhase, brahmacariyaṃ careyyāsi bhiyyo vaṇṇavatī siyā.
1577. Hỡi nàng công chúa thông minh, với độ tuổi này, nếu nàng có thể thực hành Phạm hành, thì nàng có thể trở thành người có sắc đẹp hơn nữa.”
10. Song hỡi công nương trí tuyệt trần,
Nếu như nàng thuận ý bằng lòng,
Giữ gìn Thánh đạo và thanh tịnh,
Nàng sẽ luôn kiều diễm bội phần.
1578. Devā na jīranti yathā manussā gattesu tesaṃ valiyo na honti,
pucchāmi taṃ yakkha mahānubhāva kathannu devāna sarīradeho.
1578. “Chư Thiên không trở nên già giống như loài người. Ở các phần thân thể của họ không có các nếp nhăn. Thưa vị Dạ-xoa có đại thần lực, thiếp hỏi ngài, cơ thể thân xác của chư Thiên là như thế nào?”
11. Chư Thiên chẳng giống các người trần,
Da chẳng già, không thấy nếp nhăn,
Thiên chúng làm sao không thể xác?
Ðiều này, Ðại quý nói cho cùng.
1579. Devā na jīranti yathā manussā gattesu tesaṃ valiyo na honti, suve suve bhiyyatarova tesaṃ dibbo ca vaṇṇo vipulā ca bhogā.
1579. “Chư Thiên không trở nên già giống như loài người. Ở các phần thân thể của họ không có các nếp nhăn. Sắc đẹp thiên thần và của cải sung túc của họ càng nhiều hơn thêm nữa theo từng ngày một.”
12. Thiên chúng không như người thế gian,
Chẳng già, da chẳng thấy đường nhăn,
Mai đây và mãi về sau nữa,
Thiên lạc vô ngần, mỹ sắc tăng.
1580. Kiṃsūdha bhītā janatā anekā maggo ca nekāyatanaṃ pavutto, pucchāmi taṃ yakkha mahānubhāva kattha ṭhito paralokaṃ na bhāye.
1580. “Các hạng người ở nơi này sợ hãi điều gì? Và con đường nào có nhiều nơi chốn nương tựa đã được nói đến. Thưa vị Dạ-xoa có đại thần lực, thiếp hỏi ngài, đứng ở nơi nào thì không sợ hãi thế giới khác?”
13. Ðiều gì làm khiếp sợ quần sinh,
Xin hỏi ở đời, đấng hiển linh,
Làm sáng tỏ con đường thiện ấy,
Xin ngài giải thích thật phân minh
Làm sao đi hướng về Thiên giới,
Nơi ấy chẳng còn phải hãi kinh.
1581. Vācaṃ manañca paṇidhāya sammā kāyena pāpāni akubbamāno bavhannapānaṃ gharamāvasanto, saddho mudū saṃvibhāgī vadaññū saṅgāhako sakhilo saṇhavāco ettha ṭhito paralokaṃ na bhāye.
1581. “Người nào gìn giữ lời nói và ý nghĩ một cách đúng đắn, không làm các việc ác bằng thân, sống ở ngôi nhà có nhiều cơm ăn và nước uống, là người có niềm tin, mềm mỏng, có sự san sẻ, rộng lượng, là người hào phóng, nói năng tử tế, có lời nói mềm mỏng, người (có những đức tính như thế) đứng ở nơi này thì không sợ hãi thế giới khác.”
14. Ai khéo hộ trì khẩu, ý, căn,
Chăng ưa làm ác nghiệp về thân,
Trong nhà ta thấy nhiều lương thực,
Ban phát rộng lòng, tín chánh chân,
Hào phóng, ngọt ngào, đầy thiện ý,
Sẽ sinh thiên giới chẳng kinh hoàng.
1582. Anusāsasi maṃ yakkha yathā mātā yathā pitā, uḷāravaṇṇa pucchāmi ko nu tvamasi subrahā.
1582. “Thưa vị Dạ-xoa, ngài chỉ dạy thiếp giống như người mẹ, giống như người cha (chỉ dạy con cái). Hỡi vị có sắc đẹp nổi bật, thiếp xin hỏi ngài. Hỡi bậc vô cùng cao thượng, ngài là ai?”
15. Giống như bà mẹ, giống như cha,
Ðại lực thần đang giáo hóa ta,
Hỡi Ðại thần oai hùng mỹ diệu,
Ngài là ai đó, nói ngay ra.
1583. Udayohamasmi kalyāṇi saṅgaratthā idhāgato,
āmanta kho taṃ gacchāmi muttosmi tava saṅgarā.
1583. “Này mỹ nữ, ta là Udaya. Do đã có lời hứa hẹn nên ta đi đến nơi này. Sau khi đã nói với nàng thì ta ra đi. Ta đã tháo gở xong lời hứa hẹn với nàng.”
16. Ta chính Thiện Lai, hỡi mỹ nhân,
Vì lời ước hẹn, đến bên nàng,
Giờ đây đã nói, ta từ giã,
Lời hứa ngày xưa hết buộc ràng!
1584. Sace kho tvaṃ udayosi saṅgaratthā idhāgato, anusāsa maṃ rājaputta yathāssu puna saṅgamo.
1584. “Nếu ngài quả là Udaya, và ngài đi đến nơi này do đã có lời hứa hẹn. Thưa Thiên tử, ngài hãy chỉ dạy thiếp theo cách nào để có được sự gặp gỡ lại nữa.”
17. Nếu Ðại vương là chúa Thiện Lai,
Ðến đây vì nguyện ước, không sai,
Thì xin dạy thiếp, ôi Hoàng thượng,
Ðể sống cùng nhau mãi mãi hoài.
1585. Adhipatati vayo khaṇo tatheva ṭhānaṃ natthi dhuvaṃ cavanti sattā, parijīyati addhuvaṃ sarīraṃ udaye mā pamādaṃ carassu dhammaṃ.
1585. “Cuộc sống thoáng qua giống y như phút chốc. Không có sự tồn tại bền vững, các chúng sanh chết đi, cơ thể bị tàn tạ, không trường tồn. Này nàng Udayā, nàng chớ xao lãng, hãy thực hành thiện pháp.
18. Thoáng chốc, xuân thì vụt quá nhanh,
Ðời không bền vững, mọi loài sinh,
Chết rồi, sống lại đời sau nữa,
Thối nát, thân này thật mỏng manh.
Vậy chớ buông lung cùng phóng dật,
Tiến lên, vững bước, giữ tâm thành.
1586. Kasiṇā paṭhavī dhanassa pūrā ekasseva siyā anaññaveyyā, tañcāpi jahāti avītarāgoudaye mā pamādaṃ carassu dhammaṃ.
1586. Nếu toàn bộ trái đất được chứa đầy tài sản chỉ thuộc về một người, không phụ thuộc vào người nào khác, và ngay cả kẻ có tham ái chưa được xa lìa rồi cũng phải rời bỏ nó. Này nàng Udayā, nàng chớ xao lãng, hãy thực hành thiện pháp.
19. Nếu cả trần gian, mọi bạc vàng
Thuộc quyền cai trị một anh quân,
Thánh nhân còn vượt xa vua ấy
Trong cuộc thi đua giữa cõi trần,
Vậy chớ buông lung cùng phóng dật,
Tín tâm giữ vững, bước lên đàng.
1587. Mātā ca pitā ca bhātaro ca bhariyā yāpi dhanena hoti kītā, te cāpi jahanti aññamaññaṃ udaye mā pamādaṃ carassu dhammaṃ.
1587. Mẹ, cha, và anh em trai, luôn cả người vợ được mua về bằng tài sản, bọn họ rồi cũng lìa bỏ, lần lượt từng người một. Này nàng Udayā, nàng chớ xao lãng, hãy thực hành thiện pháp.
20. Song thân cùng quyến thuộc, anh em,
Và vợ (có tiền lại kết duyên),
Tất cả đều ra đi lũ lượt,
Kẻ này xa kẻ khác luân phiên,
Vậy đừng sống cuộc đời buông thả,
Giữ tín tâm bền vững, bước lên.
1588. Kāyo parabhojananti ñatvā saṃsāre sugatī ca duggatī ca, ittaravāsoti jāniyā udaye mā pamādaṃ carassu dhammaṃ.
1588. Sau khi biết rằng thân này là bữa ăn cho các chúng sanh khác, nhàn cảnh và khổ cảnh trong sự luân hồi có cuộc sống ngắn ngủi do sự mất mát, này nàng Udayā, nàng chớ xao lãng, hãy thực hành thiện pháp.”
21. Thân kia, hãy nhớ, sẽ làm thành
Thực phẩm cho nhiều loại chúng sinh,
Hoan lạc cũng như niềm khổ não
Chỉ là giờ khắc thoáng trôi nhanh,
Ðời này nối tiếp đời sau mãi,
Vậy chớ buông lung, giữ tín thành.
4. Udayajātakaṃ – Bổn sanh Đức Vua Udaya.
1589. Sādhu bhāsatayaṃ yakkho appaṃ maccāna jīvitaṃ,
kasirañca parittañca tañca dukkhena saṃyutaṃ, sāhaṃ ekā pabbajissāmi hitvā kāsiṃ surundhanan ”ti.
1589. “Vị Dạ-xoa này nói khéo léo. Đời sống của loài người là ít ỏi, khó khăn, và nhỏ nhoi; điều ấy là gắn liền với khổ đau. Thiếp đây, một mình, sẽ xuất gia, sau khi từ bỏ xứ sở Kāsi và thành phố Surundhana.”
22. Thiên thần này nói ngọt ngào,
Thế nhân thấy rõ ngắn sao cuộc đời,
Ðời buồn, ngắn ngủi thế thôi,
Ði theo đời sống, không rời sầu bi.
Giã từ trần thế, ta đi,
Từ kinh đô xứ Ca-thi lên đàng.
1590. Mitto mittassa pānīyaṃ adinnaṃ paribhuñjisaṃ, tena pacchā vijigucchiṃ taṃ pāpaṃ pakataṃ mayā, mā puna akaraṃ pāpaṃ tasmā pabbajito ahaṃ.
1590. “Là bạn bè, mà tôi đã thọ dụng nước uống của người bạn theo lối trộm cắp; vì thế, về sau này tôi đã ghê tởm việc ác ấy do tôi đã gây ra. (Nghĩ rằng:) ‘Ta chớ có làm việc ác nữa;’ do đó, tôi đã xuất gia.”
1. Ngụm nước kia là của bạn mình,
Ta đà uống trộm, dẫu thân tình,
Chán chê lầm lỗi ta vừa phạm,
Phát nguyện về sau sẽ trở thành
Ẩn sĩ, giã từ đời thế tục,
Vì e tái phạm tội phần mình.
1591. Paradārañca disvāna chando me adapajjatha, tena pacchā vijigucchiṃ taṃ pāpaṃ pakataṃ mayā, mā puna akaraṃ pāpaṃ tasmā pabbajito ahaṃ.
1591. “Sau khi nhìn thấy vợ của người khác, dục vọng của tôi đã sanh khởi; vì thế, về sau này tôi đã ghê tởm việc ác ấy do tôi đã gây ra. (Nghĩ rằng:) ‘Ta chớ có làm việc ác nữa;’ do đó, tôi đã xuất gia.”
2. Vợ của người kia, lỡ liếc nhìn,
Trong lòng ta dục vọng bừng lên,
Chán chê lầm lỗi ta vừa phạm,
Ta quyết về sau tự phát nguyền
Từ giã thế gian làm ẩn sĩ,
Vì e tái phạm lỗi lầm trên.
1592. Pitaramme mahārāja corā agaṇhuṃ kānane, tesāhaṃ pucchito jānaṃ aññathā naṃ viyākariṃ.
1592. “Tâu đại vương, bọn cướp ở trong rừng đã bắt giữ cha của tôi. Tôi đã bị bọn chúng hỏi, trong khi tôi biết, tôi đã trả lời về cha tôi theo cách khác.
3. Trộm cướp trong rừng bắt phụ thân,
Ta đành nói với bọn kia rằng:
“Người này chẳng phải là thân phụ”,
1593. Tena pacchā vijigucchiṃ taṃ pāpaṃ pakataṃ mayā,
mā puna akaraṃ pāpaṃ tasmā pabbajito ahaṃ.
1593. Vì thế, về sau này tôi đã ghê tởm việc ác ấy do tôi đã gây ra. (Nghĩ rằng:) ‘Ta chớ có làm việc ác nữa;’ do đó, tôi đã xuất gia.”
Ta biết ngay là nói dối gian,
Chán ghét lỗi lầm ta phạm phải,
Về sau ta ước nguyện tu thân.. (như trên)
1594. Pāṇātipātamakaruṃ somayāge upaṭṭhite, tesāhaṃ samanuññāsiṃ tena pacchā vijigucchiṃ, taṃ pāpaṃ pakataṃ mayā mā puna akaraṃ pāpaṃ, tasmā pabbajito ahaṃ.
1594. “Họ đã gây nên việc giết hại mạng sống khi cuộc tế lễ Soma đã đến gần. Tôi đã cho phép họ; vì thế, về sau này tôi đã ghê tởm việc ác ấy do tôi đã gây ra. (Nghĩ rằng:) ‘Ta chớ có làm việc ác nữa;’ do đó, tôi đã xuất gia.”
4. Người làm tửu hội sát sinh linh,
Chẳng phải là không thuận ý mình,
Chán ghét lỗi lầm ta đã phạm..
Về sau ta đã phát tâm thành.. (như trên)
1595. Surāmerayamadhukā ye janā paṭhamāsu no, bahunnate anatthāya majjapānamakappayuṃ, tesāhaṃ samanuññāsiṃ tena pacchā vijigucchiṃ, taṃ pāpaṃ pakataṃ mayā mā puna akaraṃ pāpaṃ, tasmā pabbajito ahaṃ.
1595. “Những người dân ở trong làng của chúng tôi trước đây đã cho rằng rượu và chất lên men là mật ngọt. Bọn họ đã sắp đặt nước uống có chất say không vì sự lợi ích cho nhiều người. Tôi đã cho phép họ; vì thế, về sau này tôi đã ghê tởm việc ác ấy do tôi đã gây ra. (Nghĩ rằng:) ‘Ta chớ có làm việc ác nữa;’ do đó, tôi đã xuất gia.”
5. Cả bọn người kia một thuở xưa,
Cùng nhau chè chén thật say sưa,
Ðánh nhau gây sự nhiều người khổ,
Chẳng phải là không thuận ý ta.
Chán ghét lỗi lầm ta đã phạm,
Về sau ta ước nguyện ly gia,
Giã từ thế tục, làm tu sĩ,
Vị sợ ta còn phạm lỗi xưa.
1596. Dhīratthu subahū kāme duggandhe bahukaṇṭake, ye ahaṃ patisevanto na labhiṃ tādisaṃ sukhaṃ.
1596. “Thật xấu hổ thay, trong khi đeo đuổi quá nhiều các dục, với các mùi hương tồi tệ và có nhiều gai nhọn, trẫm đã không đạt được an lạc như thế ấy.”
6. Ta quyết ly tham, diệt dục tham,
Bốn bề vô vị, tựa gai đâm!
Chẳng bao giờ nữa, dù từ trước
Ta đã đi theo chuyện lỗi lầm,
Lạc thú như vầy ta đã gặp,
Ðây là lạc thú của tham tâm.
1597. Mahassādā sukhā kāmā natthi kāmaparaṃ sukhaṃ,
ye kāme patisevanti saggaṃ te upapajjare.
1597. “Các dục là hạnh phúc, có khoái lạc lớn lao, không có hạnh phúc nào sánh bằng dục. Những người nào đeo đuổi các dục, những người ấy sanh về cõi Trời.”
7. Cựu lạc dịu êm thật khó lường,
Thú nào hơn được thú yêu thương,
Ai theo lạc thú này sau đạt
Hạnh phúc trên cao cõi ngọc đường!
1598. Appassādā dukhā kāmā natthi kāmāparaṃ dukhaṃ, ye kāme patisevanti nirayaṃ te upapajjare.
1598. “Các dục là khổ đau, có khoái lạc ít ỏi, không có khổ đau nào sánh bằng dục. Những người nào đeo đuổi các dục, những người ấy sanh về địa ngục.
8. Tham dục hôi tanh, thật đáng nhờm,
Chẳng còn khổ não khốc tàn hơn,
Ai theo ác dục này sau phải
Gặt lấy sầu bị địa ngục môn.
1599. Asī yathā sunisito nettiṃsova supāyiko, sattīva urasī khitto kāmā dukkhatarā tato.
1599. Giống như thanh kiếm khéo được mài sắc cạnh, tựa như cây gươm là vật dễ làm đổ máu, ví như cây thương đã đâm vào lồng ngực, các dục còn khổ đau hơn thế nữa.
9. Thèm muốn khát khao mãi chẳng nguôi,
Còn hơn kiếm sắc khéo tay mài,
Hơn dao đâm suốt vào lồng ngực,
Tham dục càng nên phỉ nhổ hoài.
1600. Aṅgārānaṃva jalitaṃ kāsuṃ sādhikaporisaṃ, phālaṃva divasaṃ tattaṃ kāmā dukkhatarā tato.
1600. Tựa như hố than sâu quá thân người đã được đốt cháy, tựa như lưỡi cày đã được đốt nóng trọn ngày, các dục còn khổ đau hơn thế nữa.
10. Hố kia sâu đến cỡ thân người,
Than củi kia đang cháy đỏ tươi,
Cái lưỡi cày nung ngoài nắng gắt,
Dục tham còn độc hại hơn thôi.
1601. Visaṃ yathā halāhalaṃ telamukkaṭṭhitaṃ yathā, tambaloha vilīnaṃva kāmā dukkhatarā tato ”ti.
5. Pānīyajātakaṃ – Bổn sanh Nước Uống Được
1601. Giống như thuốc độc cực mạnh, giống như dầu đã được đun sôi, tựa như đồng đỏ đã được nung chảy, các dục còn khổ đau hơn thế nữa.”
11. Thuốc độc nào tàn hại tối đa,
Dầu nào nguy hiểm với thân ta,
Rỉ nào bám chặt đồng hư hoại,
Tham dục còn hơn chúng nữa mà.
1602. Mittāmaccaparibbūḷhaṃ ahaṃ vande rathesabhaṃ, pabbajissaṃ mahārāja taṃ devo anumaññatu.
1602. “Con xin đảnh lễ đấng quân vương được tháp tùng bởi các thân hữu và các quan đại thần. Tâu đại vương, con sẽ xuất gia, xin bệ hạ chấp thuận điều ấy.”
1. Con xin đảnh lễ đấng quân vương,
Giữa ngự quan, bằng hữu, đại thần,
Hoàng thượng, con mong rời thế tục,
Xin hoàng thượng chẳng chối từ con.
1603. Sace te ūnaṃ kāmehi ahaṃ paripūrayāmi te, yo taṃ hiṃsati vāremi mā pabbaji yudhañjaya.
1603. “Nếu có sự thiếu thốn cho con về các dục, trẫm bổ sung đầy đủ cho con. Người nào hãm hại con, trẫm ngăn chặn. Này Yudhañjaya, con chớ xuất gia.”
2. Con có mơ gì, hỡi Dũ-vân,
Cha ban tròn vẹn mọi cầu mong,
Nếu ai làm hại, cha che chở,
Con chớ làm tu sĩ ẩn thân.
1604. Na catthi ūnaṃ kāmehi hiṃsitā me na vijjati, dīpañca kātum icchāmi yaṃ jarā nābhikīrati.
1604. “Không có việc thiếu thốn về các dục đối với con, người hãm hại con không có. Nhưng con muốn tạo ra hòn đảo để tuổi già không hoảng loạn.”
3. Chẳng có ai làm hại đến con,
Ước mơ con đạt được vuông tròn,
Song con muốn kiếm nơi an trú,
Mà tuổi già không phá mỏi mòn.
1605. Putto vā pitaraṃ yāce pitā vā puttamorasaṃ, negamo yācate tāta mā pabbaji yudhañjaya.
1605. Người con trai cầu xin người cha, rồi người cha yêu cầu người con trai ruột rằng: “Con thương, cư dân trong thành phố cầu xin con rằng: ‘Thưa Yudhañjaya, xin ngài chớ xuất gia.”
4. Thái tử tâu vầy với phụ vương,
Vua cha liền phán bảo cùng con:
“Ðừng rời thế tục, này vương tử,
Dân chúng kinh thành thảy khóc thương”.
1606. Mā maṃ tāta nivāresi pabbajantaṃ rathesabha, māhaṃ kāmehi sammatto jarāya vasamanvagu.
1606. “Cha thương, xin cha chớ ngăn cản con xuất gia. Tâu quân vương, xin chớ để con bị đắm say các dục và rơi vào quyền lực của sự già.”
5. Ðại đế, đừng làm trẻ phải xa,
Cuộc đời không tục lụy phù hoa,
Con e say đắm nhiều tham dục
Sẽ hóa mồi ngon của tuổi già.
1607. Ahaṃ taṃ tāta yācāmi ahaṃ putta nivāraye, cirantaṃ daṭṭhumicchāmi mā pabbaji yudhañjaya.
1607. “Con thương, mẹ cầu xin con. Này con trai, mẹ cản ngăn con. Mẹ muốn nhìn thấy con mãi mãi. Này Yudhañjaya, con chớ xuất gia.”
6. Mẹ van con đó, hỡi con thân,
Và mẹ mong con phải ở gần,
Mẹ muốn gặp con hoài, thái tử,
Con đừng rời bỏ chốn phàm trần.
1608. Ussāvova tiṇaggamhi suriyassuggamanaṃ pati, evamāyu manussānaṃ mā maṃ amma nivāraye.
1608. “Ví như hạt sương ở đầu cọng cỏ rơi xuống khi mặt trời mọc lên, tuổi thọ của loài người là tương tự. Thưa mẹ, xin mẹ chớ ngăn cản con.
7. Như đầu ngọn cỏ đọng hơi sương,
Khi mặt trời lên rực ánh dương,
Cũng vậy là đời người thế tục,
Xin đừng cản bước, mẹ hiền thương.
1609. Taramāno imaṃ yānaṃ āropetu rathesabha, mā me mātā tarantassa antarāyakarā ahu.
1609. Trong khi con ra đi, tâu quân vương, xin cha hãy cho người nâng chiếc kiệu của mẹ lên. Xin chớ để mẹ là người tạo ra sự chướng ngại cho con trong khi con ra đi.”
8. Bảo người khiêng kiệu, hãy cùng nâng!
Ðừng để mẹ già cứ cản ngăn
Con trẻ muốn đi vào Thánh đạo,
Xa đời sinh diệt, tấu Minh quân!
1610. Abhidhāvatha bhaddante suññaṃ hessati rammakaṃ, yudhañjayo anuññāto sabbadattena rājinā.
1610. “Các ngươi hãy đi nhanh. Chúc con may mắn! Thành Rammaka sẽ trở nên trống vắng. Yudhañjaya đã được đức vua Sabbadatta cho phép.
9. Nhanh lên, cầu hạnh phúc, con ôi!
Ta chắc Ram-ma trống vắng thôi,
Ðại đế Sab-ba vừa chấp thuận,
Dũ-vân thái tử xuất gia rồi.
1611. Yohu seṭṭho sahassassa yuvā kañcanasannibho, soyaṃ kumāro pabbajito kāsāyavasano balī.
1611. Người nào, đã là chàng trai trẻ đứng đầu trong số một ngàn người, tương tự như là vàng, người ấy, vị hoàng tử dũng mãnh này, đã xuất gia, khoác y phục màu ca-sa.”
10. Thái tử, đại huynh giữa cả ngàn,
Hoàng nhi trông dáng thật như vàng,
Từ đây vương tử oai hùng đã
Ðắp chiếc y vàng bỏ thế gian.
6. Yudhañjayajātakaṃ – Bổn sanh Thái Tử Yudhañjaya.
1612. Ubho kumārā pabbajitā yudhañjayo yudhiṭṭhilo, pahāya mātāpitaro saṅkaṃ chetvāna maccuno ”ti.
1612. “Cả hai vị hoàng tử Yudhañjaya và Yudhiṭṭhila đã xuất gia, sau khi lìa bỏ mẹ cha, sau khi đã cắt đứt sợi dây xích của Thần Chết.”
11. Vương tử Dũ-thi với Dũ-vân,
Sống đời thanh tịnh của hiền nhân,
Giã từ vương phụ và vương mẫu,
Chặt đứt làm đôi xích tử thần.
1613. Etha lakkhaṇa sītā ca ubho otarathodakaṃ, evāyaṃ bharato āha rājā dasaratho mato.
1613. “Này Lakkhaṇa và Sītā, hai em hãy đến. Cả hai hãy lội xuống nước. Bharata này đã nói như vầy: ‘Phụ vương Dasaratha đã băng hà.’”
1. Lak-kha hiền đệ, lẫn Si-tà,
Bước xuống ao kia cả đấy mà.Vương tử Bha-ra vừa nói rõ
Da-sa đại đế đã băng hà.
1614. Kena rāmappabhāvena socitabbaṃ na socasi, pitaraṃ kālakataṃ sutvā na taṃ pasahate dukhaṃ.
1614. “Thưa anh Rāma, do năng lực gì mà anh không sầu muộn về việc đáng bị sầu muộn? Sau khi nghe tin cha mất, khổ đau không chế ngự được anh.”
2. Cho biết, Rà-ma, bởi lực gì,
Gặp buồn, huynh lại chẳng sầu bi?
Lòng huynh sầu muộn không tràn ngập,
Dù được tin vương phụ mất đi!1615. Yaṃ na sakkā pāletuṃ posena lapatā bahu, sa kissa viññū medhāvī attānamupatāpaye.
1615. “Vật mà con người, trong khi khóc lóc thật nhiều, mà vẫn không thể bảo tồn được, vậy thì vị có sự hiểu biết, thông minh, tại sao lại bực bội bản thân?
3. Khi chẳng làm sao giữ vật nào,
Dù cho người ấy có kêu gào,
Vậy nên người trí đầy thông tuệ
Phải tự hành mình bởi cớ sao?
1616. Daharā ca hi ye vuddhā ye bālā ye ca paṇḍitā, aḍḍhā ceva daḷiddā ca sabbe maccuparāyaṇā.
1616. Bởi vì những đứa trẻ con và những người lớn tuổi, những kẻ ngu si và những vị sáng suốt, những người giàu sang luôn cả những người nghèo khó, tất cả đều có sự chết là nơi cuối cùng.
4. Các đám thanh niên, kẻ trưởng thành,
Người ngu cùng với bậc thông minh,
Giàu, nghèo, kết cuộc đều cầm chắc,
Phải chết từng người giữa chúng sinh.
1617. Phalānamiva pakkānaṃ niccaṃ papatanā bhayaṃ, evaṃ jātāna maccānaṃ niccaṃ maraṇato bhayaṃ.
1617. Giống như đối với những trái cây đã chín, hiểm họa do việc rơi rụng là thường xuyên, tương tự như vậy, đối với những con người đã được sanh ra, hiểm họa về cái chết là thường xuyên.
5. Như ta đứng trước quả cây muồi,
Hay phát sinh niềm sợ quả rơi,
Cũng vậy phát sinh lòng sợ chết,
Với phàm nhân ở khắp muôn người.
1618. Sāyameke na dissanti pāto diṭṭhā bahujjanā, pāto eke na dissanti sāyaṃ diṭṭhā bahujjanā.
1618. Nhiều người được nhìn thấy vào buổi sáng, thì một số không còn được nhìn thấy vào buổi tối. Nhiều người được nhìn thấy vào buổi tối, thì một số không còn được nhìn thấy vào sáng (hôm sau).
6. Nhiều kẻ vừa trông thấy buổi mai,
Có khi chiều tối đã lìa đời,
Và người được thấy khi chiều xuống,
Vừa mới sáng mai đã mất rồi.
1619. Paridevayamāno ce kañcidatthaṃ udabbahe, sammūḷho hiṃsamattānaṃ kayirā cetaṃ vicakkhaṇo.
1619. Nếu trong khi than vãn, trong khi hành hạ bản thân, kẻ bị mê muội có thể tạo ra việc lợi ích nào đó, thì người khôn khéo cũng nên làm điều ấy.
7. Nếu người ngu dại hoặc cuồng điên,
Phúc lạc đổ dồn đến tự nhiên
Khi nó tự hành bằng nước mắt,
Bậc hiền làm giống kẻ kia liền.
1620. Kiso vivaṇṇo bhavati hiṃsamattānamattanā, na tena petā pālenti niratthā paridevanā.
1620. Trong khi tự mình hãm hại mình, (người này) trở nên gầy ốm, xuống sắc, những người đã quá vãng không được trợ giúp do việc làm ấy; sự than vãn là không có lợi ích.
8. Cách này đây nó tự hành mình,
Kẻ ấy gầy mòn lại tái xanh,
Nước mắt chẳng làm gì ích lợi,
Chẳng làm người chết được hồi sinh.
1621. Yathāsaraṇamādittaṃ vārinā parinibbaye, evampi dhīro sutavā medhāvī paṇḍito naro, khippamuppatitaṃ sokaṃ vāto tūlaṃva dhaṃsaye.
1621. Giống như người có thể dùng nước dập tắt chỗ trú ngụ bị đốt cháy, cũng tương tự như thế, người sáng trí, có kiến thức, thông minh, sáng suốt, có thể mau chóng xua tan sự sầu muộn đã được sanh khởi, tựa như làn gió thổi bay sợi bông gòn.
9. Như nhà cháy rực lửa đang hồng,
Ðược dập tắt liền với nước sông,
Người mạnh, người hiền, người có trí,
Những người hiểu giáo lý tinh thông,
Nỗi buồn đem rắc như bông vải,
Khi có cuồng phong thổi bão bùng.
1622. Ekova macco acceti ekova jāyate kule, saññoga paramātveva sambhogā sabbapāṇinaṃ.
1622. Khi một người chết đi, liền có một người khác sanh ra trong gia tộc. Theo ý nghĩa tuyệt đối của sự liên kết với nhau, có sự thọ hưởng chung giữa các chúng sanh với nhau.
10. Một khi sinh vật phải lìa trần,
Một kẻ khác liền được thọ thân,
Kết hợp với nhiều dây trói buộc,
Có cùng đặc tính một nguồn căn,
Phước phần mỗi kẻ đều tùy thuộc
Vào những dây liên hệ buộc ràng.
1623. Tasmā hi dhīrassa bahussutassa sampassato lokamimaṃ parañca, aññāya dhammaṃ hadayaṃ manañca sokā mahantāpi na tāpayanti.
1623. Chính vì thế, đối với vị thông minh, có nhiều kiến thức, trong khi xem xét một cách đúng đắn về đời này và đời sau, sau khi hiểu thông quy luật, thì các nỗi sầu muộn mặc dầu lớn lao, cũng không làm cho tâm và ý của vị ấy bị bực bội.
11. Người mạnh, tinh thông lý nhiệm mầu,
Quán sát đời này lẫn kiếp sau,
Hiểu bản chất này chung của chúng,
Cho nên chẳng bị nỗi buồn rầu,
Khiến cho lòng trí mình dao động,
Dù có khổ đau đến độ nào.
1624. Sohaṃ dassañca bhokkhañca bharissāmi ca ñātake, sesaṃ sampālayissāmi kiccametaṃ vijānato.
1624. Ta đây sẽ ban phát, sẽ nuôi dưỡng, và sẽ bảo bọc các thân quyến, ta sẽ bảo vệ số còn lại; việc này là phận sự của người có nhận thức.”
12. Vậy ta nên cống hiến song thân,
Phụng dưỡng các ngài phẩm vật dâng,
Ta sẽ bảo tồn di tích cũ,
Ấy là hành động của hiền nhân.
7. Dasarathajātakaṃ – Bổn sanh Đại Vương Dasaratha
1625. Dasa vassasahassāni saṭṭhivassasatāni ca, kambugīvo mahābāhu rāmo rajjamakārayī ”ti.
1625. Đức vua Rāma, với cổ có ba ngấn (tướng may mắn) và cánh tay to lớn, đã trị vì vương quốc mười sáu ngàn năm.”
Trăm năm nhân với sáu mươi lần,
Một vạn năm thêm, chuyện kể rằng
Dũng sĩ Rà-ma lên ngự trị,
Cổ ngài ba ngấn, hạnh phúc tràn
1626. Jānanto no mahārāja tava sīlaṃ janādhipo, ime kumāre pūjento na taṃ kenaci maññatha.
1626. “Tâu đại vương, phải chăng vua cha biết về giới hạnh của đại vương, (bởi vì) trong khi tôn vinh các vị hoàng tử này, vua cha đã không nghĩ đến đại vương với bất cứ món quà gì?
1. Quả xưa thánh thượng đã tinh tường,
Bản chất tính tình của đại vương,
Ân đã ban nhiều vương tử khác,
Ðại vương lại chẳng được ban phần.
1627. Tiṭṭhante no mahārāje ādu deve divaṃgate, ñātī naṃ samanumaññiṃsu sampassaṃ atthamattano.
1627. Tâu đại vương, phải chăng trong khi vua cha đang còn tại tiền hay khi đã quy tiên, trong khi xem xét lợi ích của bản thân, (vua cha biết rằng) các thân quyến đã chấp thuận đại vương?
2. Chính là vương phụ lúc sinh thời,
Hay lúc thành tiên, đến cõi trời,
Vì thấy lợi nhiều cho quốc độ,
Nên vương tộc đã thuận theo lời.
1628. Kena saṃvaravattena sañjāte adhitiṭṭhasi, kena taṃ nātivattanti ñātisaṅghā samāgatā.
1628. Này Saṃvara, với giới hạnh gì mà đại vương được đứng trên các hoàng tử sanh cùng gia tộc? Vì sao toàn thể thân quyến đã tụ hội lại mà không phản đối đại vương?”
3. Hãy nói lực gì, Sam-va-ra,
Ðại vương vượt hẳn cả hoàng gia,
Sao vương huynh lại không đoàn kết,
Ðể chiếm ngôi cao của đệ à?
1629. Na rājaputta usuyyāmi samaṇānaṃ mahesinaṃ, sakkaccaṃ te namassāmi pāde vandāmi tādinaṃ.
1629. “Thưa hoàng huynh, trẫm không ganh tỵ với các Sa-môn, với các bậc đại ẩn sĩ. Trẫm trân trọng cúi chào các vị ấy. Trẫm đảnh lễ hai bàn chân của các bậc có đức hạnh như thế ấy.
4. Ta chẳng bao giờ miễn cưỡng dâng
Những gì xứng với đại hiền nhân,
Sẵn sàng ban tặng đầy trân trọng,
Ðảnh lễ, ta quỳ xuống dưới chân.
1630. Te maṃ dhammaguṇe yuttaṃ sussūsamanusuyyakaṃ, samaṇā samanusāsanti isī dhammaguṇe ratā.
1630. (Sau khi biết) trẫm là người gắn liền với công lý và đạo đức, có sự mong muốn lắng nghe và là người không ganh tỵ, các vị Sa-môn ấy chỉ dạy cho trẫm; các bậc ẩn sĩ ưa chuộng công lý và đạo đức.
5. Ta chẳng tỵ hiềm, muốn học luôn
Mọi điều đức hạnh hợp công bằng,
Các hiền nhân dạy điều lương thiện
Trong ấy các ngài thấy lạc hoan.
1631. Tesāhaṃ vacanaṃ sutvā samaṇānaṃ mahesinaṃ, na kiñci atimaññāmi dhamme me nirato mano.
1631. Sau khi lắng nghe lời nói của các vị Sa-môn và các bậc đại ẩn sĩ, trẫm không xem thường bất cứ điều gì; tâm ý của trẫm thích thú ở lời giảng dạy.
6. Ta vẫn thường nghe sự bảo ban
Của nhiều bậc trí, đại hiền nhân,
Tâm hồn ta hướng về lương thiện,
Ta chẳng coi thường lời dạy răn.
1632. Hatthāruhā aṇīkaṭṭhā rathikā pattikārikā, tesaṃ nappaṭibandhāmi nibaddhaṃ bhattavetanaṃ.
1632. Các viên quản tượng, các ngự lâm quân, các dũng sĩ chiến xa, và các bộ binh, trẫm không bạc đãi họ; thực phẩm và lương bổng được cấp đều đặn.
7. Voi chiến cùng nhiều đạo mã xa,
Bộ binh và vệ sĩ vương gia,
Ta không hề bớt phần công nhật,
Mà trả tiền lương đủ mọi nhà.
1633. Mahāmattā ca me atthi mantino paricārakā, bārāṇasiṃ voharanti bahumaṃsa surodakaṃ.
1633. Và trẫm có các quan đại thần, các vị cố vấn, và các người hầu cận. Người ta đồn rằng thành Bārāṇasī là có nhiều thịt, rượu, và nước.
8. Quý tộc danh gia vẫn đến hầu,
Quân sư tài trí thật là cao,
Họ thường khen ngợi rằng lương thực,
Quả thật Ba-la-nại rất giàu.
1634. Athopi vāṇijā phītā nānā raṭṭhehi āgatā, tesu me vihitā rakkhā evaṃ jānāhuposatha.
1634. Rồi các thương buôn giàu có từ nhiều quốc độ khác nhau cũng đã đi đến. Các sự bảo vệ đã được trẫm bố trí cho họ. Này hoàng huynh Uposatha, xin hoàng huynh hãy nhận biết như thế.”
9. Thịnh vượng như vậy, các lái buôn,
Từ nhiều quốc độ tới lui luôn,
Ta che chở chúng – Này vương tử,
Sự thật, hiền huynh đã tỏ tường.
1635. Dhammena kira ñātīnaṃ rajjaṃ kārehi saṃvara, medhāvī paṇḍito cāpi athopi ñātīnaṃ hito.
1635. “Này Saṃvara, nói theo sự công bằng đối với các thân quyến, thì phải để em cai trị vương quốc. Em thông minh, sáng suốt, và còn là người có lợi ích cho các thân quyến nữa.
10. Ðạo đức vượt hơn gia tộc mình,
Và em cai trị thật công bình,
Sam-va tài trí càng cao trọng,
Phục lạc ban đều các đại huynh.
8. Saṃvarajātakaṃ – Bổn sanh Đức Vua Saṃvara
1636. Taṃ taṃ ñāti paribbūḷhaṃ nānāratanamocitaṃ, amittā nappasahanti indaṃva asurādhipo ”ti.
1636. Với các đức tánh ấy, em được tùy tùng bởi các thân quyến, được tích lũy nhiều loại châu báu, các kẻ thủ không chế ngự được em, tựa như chúa tể của loài A-tu-la không chế ngự được vị thần Inda.”
11. Vương huynh rày bảo vệ kho tàng,
Vương đệ sau này sẽ vạn an,
Tránh khỏi quân thù như Ðế Thích
Mình vàng tránh các La-hầu-vương.
1637. Ummujjanti nimujjanti manussā khuranāsikā, suppārakaṃ taṃ pucchāma samuddo katamo ayaṃ.
1637. “Những con người có mũi như dao cạo nổi lên, lặn xuống. Chúng tôi hỏi Suppāraka về điều ấy rằng: ‘Biển này là biển nào?’”
1. Ðám người kia mũi nhọn như dao,
Vừa nhảy lên cao, lại lộn nhào,
Hãy nói, Sup-pà, cho chúng bạn,
Biển này được biết với tên nào?
1638. Bharukacchā payātānaṃ vāṇijānaṃ dhanesinaṃ, nāvāya vippanaṭṭhāya khuramālīti vuccati.
1638. “Con tàu của các thương buôn tầm cầu tài sản xuất phát từ bến Bharukaccha đã bị lạc hướng, và đi đến vùng biển gọi là Khuramālī (Biển Dao Cạo).”
2. Này các thương nhân cảng Bhar-ka,
Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
Ðây là biển cá Khu-ra đó,
Thuyền của các người đã lạc qua.
1639. Yathā aggiva suriyo va samuddo patidissati, suppārakaṃ taṃ pucchāma samuddo katamo ayaṃ.
1639. “Biển cả được thấy giống như là ngọn lửa, tương tự như mặt trời. Chúng tôi hỏi Suppāraka về điều ấy rằng: ‘Biển này là biển nào?’”
3. Kìa đại dương như ngọn lửa hồng,
Như vầng nhật chiếu, bạn cùng trông,
Sup-pa, xin nói cho bè bạn,
Tên gọi là gì chốn đại dương?
1640. Bharukacchā payātānaṃ vāṇijānaṃ dhanesinaṃ, nāvāya vippanaṭṭhāya aggimālīti vuccati.
1640. “Con tàu của các thương buôn tầm cầu tài sản xuất phát từ bến Bharukaccha đã bị lạc hướng, và đi đến vùng biển gọi là Aggimālī (Biển Lửa).”
4. Này các thương nhân ở Bhar-ka,
Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
Ðây là biển cả Ag-gi đó,
Thuyền của các người đã lạc qua.
1641. Yathā dadhiṃva khīraṃva samuddo patidissati, suppārakaṃ taṃ pucchāma samuddo katamo ayaṃ.
1641. “Biển cả được thấy giống như là sữa chua, tương tự như sữa tươi. Chúng tôi hỏi Suppāraka về điều ấy rằng: ‘Biển này là biển nào?’”
5. Kìa biển trắng phau giống sữa tươi,
Trắng như nhìn vũng sữa đông rồi,
Sup-pà, xin nói cùng bè bạn,
Tên gọi là gì của biển khơi?
1642. Bharukacchā payātānaṃ vāṇijānaṃ dhanesinaṃ, nāvāya vippanaṭṭhāya dadhimālīti vuccati.
1642. “Con tàu của các thương buôn tầm cầu tài sản xuất phát từ bến Bharukaccha đã bị lạc hướng, và đi đến vùng biển gọi là Dadhimālī (Biển Sữa Chua).”
6. Này các thương nhân ở Bhar-ka,
Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
Ðây là biển cả Da-dhi đó,
Thuyền của các người đã lạc qua.
1643. Yathā kusova sassova samuddo patidissati, suppārakaṃ taṃ pucchāma samuddo katamo ayaṃ.
1643. “Biển cả được thấy giống như là trảng cỏ kusa, tương tự như bãi ngô. Chúng tôi hỏi Suppāraka về điều ấy rằng: ‘Biển này là biển nào?’”
7. Kìa, biển xanh như cỏ cát tường,
Tưởng như nhìn đám lúa nàng hương,
Sup-pà, hãy nói cho bè bạn,
Tên gọi là gì của đại dương?
1644. Bharukacchā payātānaṃ vāṇijānaṃ dhanesinaṃ, nāvāya vippanaṭṭhāya kusamālīti vuccati.
1644. “Con tàu của các thương buôn tầm cầu tài sản xuất phát từ bến Bharukaccha đã bị lạc hướng, và đi đến vùng biển gọi là Kusamālī (Biển Cỏ Kusa).”
8. Này các thương nhân xứ Bhar-ka,
Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
Ðại dương đây chính Ku-sa đó,
Thuyền của các người đã lạc qua.
1645. Yathā naḷova velūva samuddo patidissati, suppārakaṃ taṃ pucchāma samuddo katamo ayaṃ.
1645. “Biển cả được thấy giống như là bãi sậy, tương tự như rừng tre. Chúng tôi hỏi Suppāraka về điều ấy rằng: ‘Biển này là biển nào?’”
9. Kìa đại dương như một khóm lau,
Khác nào ta thấy rặng tre đâu,
Sup-pà, hãy nói cho bè bạn,
Biển cả này tên gọi thế nào?
1646. Bharukacchā payātānaṃ vāṇijānaṃ dhanesinaṃ, nāvāya vippanaṭṭhāya naḷamālīti vuccati.
1646. “Con tàu của các thương buôn tầm cầu tài sản xuất phát từ bến Bharukaccha đã bị lạc hướng, và đi đến vùng biển gọi là Naḷamālī (Biển Cây Sậy).”
10. Này các thương nhân xứ Bhar-ka,
Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
Biển này tên gọi Na-la đó,
Thuyền của các người đã lạc qua.
1647. Mahābhayo bhiṃsanako samuddo suyyatamānuso, yathā sobbho papātova samuddo patidissati, suppārakaṃ taṃ pucchāma samuddo katamo ayaṃ.
1647. “Có âm thanh với sự sợ hãi khủng khiếp, làm cho kinh hoàng, được nghe như là của phi nhân. Biển cả được thấy giống như là cái hố nước, tương tự như vực thẳm. Chúng tôi hỏi Suppāraka về điều ấy rằng: ‘Biển này là biển nào?’”
11. Này nghe tiếng thét thật kinh hoàng,
Từ biển cả kia thật dị thường!
Hố thẳm, hãy nhìn nhiều đợt sóng
Dâng lên dốc đứng tựa sườn non,
Sup-pà, hãy nói cho bè bạn,
Ðây gọi tên gì của đại dương?
1648. Bharukacchā payātānaṃ vāṇijānaṃ dhanesinaṃ, nāvāya vippanaṭṭhāya vaḷavāmukhīti vuccati.
1648. “Con tàu của các thương buôn tầm cầu tài sản xuất phát từ bến Bharukaccha đã bị lạc hướng, và đi đến vùng biển gọi là Vaḷavāmukhī (Biển Mỏm Ngựa Cái).”
12. Này các thương nhân xứ Bhar-ka,
Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
Va-la-bhà đại dương này đó,
Thuyền của các người đã lạc qua.
9. Suppārakajātakaṃ – Bổn sanh Vị Suppāraka
1649. Yato sarāmi attānaṃ yato pattosmi viññutaṃ, nābhijānāmi sañcicca ekapāṇampi hiṃsitaṃ, etena saccavajjena sotthiṃ nāvā nivattatū ”ti.
1649. Từ khi tôi nhớ về bản thân, từ khi tôi đạt được sự hiểu biết, tôi biết chắc rằng không một sinh mạng nào đã bị tôi hãm hại một cách cố tình; do lời nói chân thật này, mong rằng chiếc tàu hãy quay trở về một cách an toàn.”
13. Từ khi ta nhớ rõ về thân,
Trí tuệ đầu tiên phát khởi dần,
Không một người nào ta sát hại,
Là điều ta đã biết tinh tường,
Nều lời cầu nguyện này chân chánh,
Mong ước thuyền về chốn vạn an.
TASSUDDĀNAṂ
Siri mātusuposaka nāgavaro puna juṇha adhammamudayavaro, atha pāṇīyudhañjayako ca dasa ratha saṃvara pāragatena navā ”ti.
Ekādasakanipāto niṭṭhito.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Chuyện con voi vinh quang là người phụng dưỡng mẹ, thêm chuyện hoàng tử Juṇha, kẻ Adhamma (Phi Pháp), đức vua Udaya, rồi nước uống được, thái tử Yudhañjaya, và đại vương Dasaratha, đức vua Saṃvara, với vị đã đi đến bờ kia, là chín.
Nhóm Mười Một Kệ Ngôn được chấm dứt.
–ooOoo–
—-
Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda