TIỂU BỘ
BỔN SANH II: NHÓM BỐN MƯƠI KỆ NGÔN – BÀI 1-3
▪ 1. TESAKUṆAJĀTAKAṂ – BỔN SANH BA CON CHIM
521. Chuyện ba con chim (Tiền thân Tesakuna)
3081. Vessantaraṃ taṃ pucchāmi sakuṇā bhaddamatthu te, rajjaṃ kāretukāmena kiṃsu kiccaṃ kataṃ varaṃ.
3081. “Này chim, chúc điều tốt lành đến chim. Trẫm hỏi chim Vessantara, với ý muốn trị vì vương quốc, phận sự nào được thực hiện là tốt nhất?”
1. Điều nầy cha muốn hỏi Ves-san,
Cầu chúc cho con yêu được lạc an:
Với một vị vua mong trị nước,
Sống sao tốt đẹp nhất trần gian?
3082. Cirassaṃ vata maṃ tāto kaṃso bārāṇasiggaho, pamatto appamattampi pitā puttaṃ acodayi.
3082. “Quả thật, cha Kaṃsa thân yêu, người cai trị thành Bārāṇasī, lâu nay bị xao lãng, đã quở trách con, đứa con trai không bị xao lãng.
2. Kam-sa, chúa tể xứ Kà-si,
Phóng dật buông lung đã lắm khi,
Thúc dục con, dù đầy nhiệt huyết,
Phải luôn tỏ nhiệt huyết tràn trề.
3083. Paṭhameneva vitathaṃ kodhaṃ hāsaṃ nivāraye, tato kiccāni kāreyya taṃ vataṃ āhu khattiya.
3083. Tâu vị Sát-đế-lỵ, trước tiên nên ngăn chặn sự không chân thật, sự giận dữ, sự cười giỡn. Sau đó, nên làm các việc cần phải làm; người xưa đã nói việc ấy là bổn phận.
3. Trước hết vị vua phải vứt đi,
Mọi điều giả dối, giận, khinh khi,
Phải làm những việc cần hành động,
Nếu chẳng làm xong, sẽ lỗi thề.
3084. Yaṃ tvaṃ tāta tape kammaṃ pubbe katamasaṃsayaṃ, ratto duṭṭho ca yaṃ kayirā na taṃ kayirā tato puna.
3084. Cha thân, hành động khổ hạnh nào đã được làm trước đây theo thông lệ, là việc mà cha có thể làm khi bị luyến ái và sân hận; từ đây, không nên làm việc ấy nữa.
4. Nếu trước kia đi lạc hướng tà,
Vì tham sân hướng dẫn đường vua,
Rõ ràng phải sống ăn năn tội,
Luyện tập để đừng phạm lỗi xưa.
3085. Khattiyassa pamattassa raṭṭhasmiṃ raṭṭhavaḍḍhana, sabbe bhogā vinassanti rañño taṃ vuccate aghaṃ.
3085. Tâu bậc làm hưng thịnh đất nước, tất cả của cải ở đất nước của vị Sát-đế-lỵ đã bị xao lãng đều bị tiêu tan; việc ấy gọi là sự bất hạnh của vị vua.
5. Khi vua trị nước quá buông lung,
Đối với thanh danh, chẳng thật chân,
Mọi sự phồn vinh đều biến mất,
Chỉ còn ô nhục với hôn quân.
3086. Sirī ca tāta lakkhī ca pucchitā etadabravuṃ, uṭṭhānaviriye pose ramāhaṃ anusūyake.
3086. Cha thân, nữ thần Sirī và nữ thần Lakkhī, khi được hỏi, đã nói điều này: ‘Ta ưa thích những người sốt sắng, tinh tấn, không đố kỵ.’
6. Thần nữ Cát tường với Vận may,
Khi con hỏi, đã đáp như vầy:
“Chúng ta thích hạng người can đảm,
Nghị lực, thoát ly tật đố này”.
3087. Usūyake dūhadaye purise kammadūsake, kālakaṇṇī mahārāja ramatī cakkabhañjanī.
3087. Tâu đại vương, nữ thần Kālakaṇṇī, vị thần phá hoại vận may, ưa thích những kẻ đố kỵ, có tâm xấu xa, những kẻ phá hoại công việc.
7. Rủi ro luôn phá hoại phồn vinh,
Thích những người làm các ác hành,
Những kẻ nhẫn tâm đầy độc ác,
Trong tâm ganh tỵ cứ dần sinh.
3088. So tvaṃ sabbesu suhadayo sabbesaṃ rakkhito bhava, alakkhiṃ nuda mahārāja lakkhyā bhava nivesanaṃ.
3088. Tâu đại vương, cha đây hãy có tâm tốt lành đối với tất cả, hãy bảo vệ tất cả, hãy xua đuổi nữ thần Alakkhī, hãy là chỗ trú của nữ thần Lakkhī.
8. Thân thiết mọi người, tấu Đại vương,
Để cho mọi sự được an toàn,
Tránh xa Vận rủi, song làm chỗ,
An trú Vận may thật vững vàng.
3089. Salakkhī dhitisampanno puriso hi mahaggato, amittānaṃ kāsipati mūlaṃ aggañca chindati.
3089. Bởi vì, là người có sự may mắn, đầy đủ sự dũng cảm, đi đến sự lớn mạnh, vị chúa của xứ Kāsi chặt đứt cả gốc lẫn ngọn của các kẻ thù.
9. Con người tốt số lại can trường,
Ngự trị Kà-si, chính phụ vương,
Tiêu diệt địch quân từ gốc ngọn,
Hiển nhiên sẽ đạt đại vinh quang.
3090. Sakkopi hi bhūtapati uṭṭhāne nappamajjati, sakalyāṇe dhitiṃ katvā uṭṭhāne kurute mano.
3090. Bởi vì, ngay cả Thiên Chủ Sakka, vị chúa của các sanh linh, không xao lãng trong việc sốt sắng, sau khi tạo ra sự dũng cảm trong việc phước thiện, ngài thực hiện sự sốt sắng ở tâm.
10. Thiên chủ Ska-ka mãi ngắm trông,
Tấm lòng can đảm ở phàm nhân,
Vì ngài giữ vững lòng can đảm,
Nhận thức đó là chính thiện lương.
3091. Gandhabbā pitaro devā sajīvā honti tādino, uṭṭhahato appamajjato anutiṭṭhanti devatā.
3091. Các vị Càn-thát-bà, các vị Phạm Thiên, chư Thiên có cuộc sống là như thế ấy. Chư Thiên ngự kế cận các vị sốt sắng, không xao lãng.
11. Thác-bà, Thiên chúng lẫn loài người.
Ca ngợi minh quân ấy hết lời,
Các bậc thần linh đều ủng hộ
Tán dương nhiệt huyết lẫn anh tài.
3092. So appamatto akuddho tāta kiccāni kāraya, vāyamassu ca kiccesu nālaso vindate sukhaṃ.
3092. Cha thân, cha đây hãy ra lệnh làm các việc cần phải làm, không được xao lãng, không nóng giận, và hãy nỗ lực trong các phận sự. Người biếng nhác không tìm thấy hạnh phúc.
12. Nỗ lực làm bao việc chánh chân,
Dù ai phỉ báng, chẳng buông lung,
Chuyên tâm tinh tấn làm điều thiện,
Phóng dật chẳng mong đạt phước phần.
3093. Tattheva te vattapadā esāva anusāsanī, alaṃ mitte sukhāpetuṃ amittānaṃ dukhāya ca.
3093. Ngay trong trường hợp ấy, các phần công việc của bệ hạ chính là các lời khuyên bảo ấy; chúng là vừa đủ để đem lại hạnh phúc cho các bạn bè và gây khó khăn cho các kẻ thù.”
13. Đây là phận sự của quân vương,
Dạy bảo phụ vương bước đúng đường,
Đủ đạt phước phần cho thiện hữu
Hoặc mang sầu não đến cừu nhân.
3094. Sakhī tuvaṃ kuṇḍalinī maññasi khattabandhunī, rajjaṃ kāretu kāmena kiṃsu kiccaṃ kataṃ varaṃ.
3094. “Này chim Kuṇḍalinī, con là thân nhân. Này nữ thân quyến của dòng Sát-đế-lỵ, con nghĩ thế nào (về câu hỏi), với ý muốn trị vì vương quốc, phận sự nào được thực hiện là tốt nhất?”
14. Kun-da-li, ái điểu hoàng gia,
Con hãy đáp câu hỏi của cha:
Kẻ muốn lên ngôi vua trị nước,
Sống sao tốt nhất cõi người ta?
3095. Dveva tāta padakāni yattha sabbaṃ patiṭṭhitaṃ, aladdhassa ca yo lābho laddhassa anurakkhanā.
3095. “Cha thân, có hai nguyên nhân chính, căn cứ vào đó, mọi thứ được thiết lập: Đạt được cái chưa đạt được, và bảo vệ cái đã đạt được.
15. Vấn đề được đặt, hỡi thân bằng,
Trong cặp phương châm thật rõ ràng:
Gìn giữ những gì ta phải đạt,
Tránh xa những việc chẳng nên làm.
3096. Amacce tāta jānāhi dhīre atthassa kovide, anakkhākitave tāta asoṇḍe avināsake.
3096. Cha thân, cha hãy nhận biết các quan đại thần (nào là) sáng trí và rành rẽ về mục đích, không cờ bạc, không gian lận, không nghiện ngập, không phung phí.
16. Quốc sư hãy chọn các hiền nhân,
Thấy lợi ích vua thật rõ ràng,
Không phóng đãng và không phí phạm,
Thoát ly cờ bạc, rượu say nồng.
3097. Yo ca taṃ tāta rakkheyya dhanaṃ yañceva te siyā, sūtova rathaṃ saṅgaṇhe so te kiccāni kāraye.
3097. Cha thân, người này có thể gìn giữ tài sản thuộc về cha, tựa như người đánh xe có thể chăm sóc cỗ xe, người ấy có thể thực hiện các việc cần phải làm của cha.
17. Người vậy hộ phòng vua chánh chân,
Nhiệt tình bảo vệ các kho tàng,
Như người điều ngự vương xa ấy,
Lèo lái giang sơn đến phú cường.
3098. Susaṅgahītantajano sayaṃ vittaṃ avekkhiya, nidhiñca iṇadānañca na kare parapattiyā.
3098. Với nhân sự nội bộ khéo được chăm sóc, nên đích thân xem xét tài sản, của cải cất giấu, nợ nần, và vật biếu xén. Không nên làm các công việc đem lại thu nhập cho kẻ khác.
18. Luôn trị thần dân thật khéo khôn,
Giữ gìn đúng đắn các kho lương,
Đừng giao kẻ khác cho vay mượn,
Phải tự mình làm đúng kỷ cương.
3099. Sayaṃ āyaṃ vayaṃ jaññā sayaṃ jaññā katākataṃ, niggaṇhe niggahārahaṃ paggaṇhe paggahārahaṃ.
3099. Nên đích thân biết về thu thập và chi tiêu, nên đích thân biết về việc đã làm hay chưa làm, nên khiển trách kẻ đáng bị khiển trách, nên cất nhắc người đáng được cất nhắc.
19. Những ích lợi hay việc hại mình,
Đại vương phải biết thật phân minh,
Phải chê trách kẻ mang lầm lỗi,
Khen thưởng những người thật xứng danh.
3100. Sayaṃ jānapadaṃ atthaṃ anusāsa rathesabha, mā te adhammikā yuttā dhanaṃ raṭṭhañca nāsayuṃ.
3100. Tâu đấng thủ lãnh xa binh, ngài nên tự mình chỉ dạy dân chúng về mục đích. Chớ để những viên chức phi pháp hủy hoại tài sản và đất nước của ngài.
20. Và chính bản thân, tấu Đại vương,
Dạy thần dân mọi nẻo hiền lương,
Kẻo e quốc độ cùng tài sản,
Phải hóa mồi quan lại ác gian.
3101. Mā ca vegena kiccāni kāresi kārayesi vā, vegasā hi kataṃ kammaṃ mando pacchānutappati.
3101. Và ngài chớ thực hiện hoặc cho người thực hiện các phận sự một cách vội vã, bởi vì đối với công việc được làm một cách vội vã, sau này kẻ đần độn sẽ hối hận.
21. Canh phòng hành động của vua quan,
Cẩn thận, đừng nên quá vội vàng,
Vì kẻ ngu làm không nghĩ ngợi,
Về sau chắc chắn sống ăn năn.
3102. Mā te adhisare mucca subāḷhamadhikopitaṃ, kodhasā hi bahū phītā kulā akulataṃ gatā.
3102. Chớ để tự do cho việc phạm tội của ngài, khi tâm bị nổi giận vô cùng mãnh liệt, bởi vì do giận dữ, nhiều gia đình đông đúc đã đi đến tình trạng (tan nát) không còn gia đình.
22. Ta chẳng bao giờ được hận sân,
Vì chưng sân hận vỡ tràn lan,
Liền đem nguy hại cho vua chúa,
Đánh bại người kiêu mạn nhất trần.
3103. Mā tāta issaromhīti anatthāya patārayi, itthīnaṃ purisānañca mā te āsi dukhudrayo.
3103. Cha thân, (biết rằng): ‘Ta là vị chúa tể,’ chớ dẫn dắt dân chúng vào sự thối đọa. Chớ để hậu quả khổ đau đến với những người nữ và những người nam của ngài.
23. Phải biết chắc rằng bậc Đại vương,
Đừng đưa dân chúng bước sai đường,
E rằng tất cả người nam nữ,
Sa đọa vào trong biển khổ buồn.
3104. Apetalomahaṃsassa rañño kāmānusārino, sabbe bhogā vinassanti rañño taṃ vuccate aghaṃ.
3104. Đối với vị vua đeo đuổi ngũ dục, không còn sợ hãi sự chê trách, tất cả của cải đều bị tiêu tan; việc ấy gọi là sự bất hạnh của vị vua.
24. Khi vua dứt bỏ mọi lo toan,
Dục lạc là nguồn sống bản thân,
Tài sản, kho tàng đều mất hết,
Chỉ còn ô nhục với hôn quân.
3105. Tattheva te vattapadā esāva anusāsanī, dakkhassudāni puññakaro asoṇḍo avināsako, sīlavassu mahārāja dussīlo vinipātiko.
3105. Ngay trong trường hợp ấy, các phần công việc của bệ hạ chính là các lời khuyên bảo ấy. Giờ đây, bệ hạ hãy là người khôn ngoan, người làm việc phước thiện, không nghiện ngập, không phung phí. Tâu đại vương, ngài hãy là người có giới hạnh, (bởi vì) kẻ có giới hạnh tồi là kẻ sẽ bị đọa vào địa ngục.
25. Đây là nhiệm vụ của quân vương
Chỉ dạy phụ vương bước đúng đường,
Thực hiện chuyên tâm toàn thiện nghiệp,
Chống điều quá độ, thói hoang toàng,
Hộ phòng giới hạnh, vì lầm lỗi
Luôn dẫn đến đau khổ đoạn trường.
3106. Apucchimhā kosiyagottaṃ kuṇḍaliniṃ tatheva ca, tvaṃ dāni vadehi jambuka balānaṃ balamuttamaṃ.
3106. “Chúng ta đã hỏi chim thuộc dòng họ Kosiya (chim Vessantara) và chim Kuṇḍalinī y như vậy. Này chim Jambuka, giờ đây con hãy nói về sức mạnh tối cao trong số các sức mạnh.”
26. Chúng ta đã hỏi đủ hoàng huynh,
Công chúa Kun-da-li đẹp xinh,
Đến lượt Jam-bu-ka hãy nói,
Cho cha biết lực tối cao minh.
3107. Balaṃ pañcavidhaṃ loke purisasmiṃ mahaggate, tattha bāhubalannāma carimaṃ vuccate balaṃ.
3107. “Có năm loại sức mạnh ở con người đã trở nên vĩ đại trên thế gian; trong số đó, cái gọi là sức mạnh của cánh tay được cho là sức mạnh sau cùng.
27. Giữa bao người vĩ đại trên trần,
Năm lực này, ta thấy rõ ràng:
Sức mạnh tứ chi là thấp nhất,
3108. Bhogabalañca dīghāvu dutiyaṃ vuccate balaṃ, amaccabalañca dīghāvu tatiyaṃ vuccate balaṃ.
3108. Thưa tiền bối, sức mạnh về của cải được cho là sức mạnh thứ nhì.[1] Thưa tiền bối, sức mạnh của người cố vấn được cho là sức mạnh thứ ba.
[1] Sự sắp xếp ở đây là theo thứ tự từ thấp lên cao, trí tuệ được xếp vào vị trí thứ năm, tức là vị trí cao nhất (ND).
Kế là quyền lực của kim ngân.
28. Thứ ba là lực của lời khuyên,
3109. Abhijaccabalañceva taṃ catutthaṃ asaṃsayaṃ, yāni etāni sabbāni adhigaṇhāti paṇḍito.
3109. Và sức mạnh của dòng dõi, cái ấy là thứ tư, không có nghi ngờ. Bậc sáng suốt làm chủ tất cả các sức mạnh ấy.
Giai cấp hiển nhiên đệ tứ quyền,
Tất cả điều này, người có trí,
Sẽ đều công bố thật đương nhiên.
3110. Taṃ balānaṃ balaseṭṭhaṃ aggaṃ paññābalaṃ varaṃ, paññābalenupatthaddho atthaṃ vindati paṇḍito.
3110. Trong số các sức mạnh, sức mạnh đứng đầu, cao cả, cao quý ấy là sức mạnh của trí tuệ. Được nâng đỡ bởi sức mạnh của trí tuệ, bậc sáng suốt tìm được sự tiến thân.
29. Lực tối ưu trong các lực này,
Khả năng trí tuệ chính là đây,
Nhờ vào uy lực này, người trí,
Thành tựu phần mình tốt đẹp thay.
3111. Api ce labhati mando phītaṃ dharaṇimuttamaṃ, akāmassa pasayha vā añño taṃ paṭipajjati.
3111. Thậm chí, nếu kẻ đần độn đạt được trái đất quý báu, phồn thịnh, thì kẻ khác cũng sẽ dùng vũ lực đoạt lấy phần đất của kẻ không có mong muốn.
30. Ví thử quốc gia đại phú cường,
Rơi vào tay của một ngu nhân,
Một người khác sẽ dùng cường bạo,
Chiếm nước, gây bao nỗi oán hờn.
3112. Abhijātopi ce hoti rajjaṃ laddhāna khattiyo, duppañño hi kāsipati sabbenapi na jīvati.
3112. Dầu cho vị Sát-đế-lỵ được sanh ra cao quý, sau khi đạt được vương quốc, chính vì có trí tuệ tồi, vị chúa của xứ Kāsi không thể sinh tồn với toàn thể vương quốc ấy.
31. Dù quân vương quý tộc cao sang,
Phận sự chính là ngự trị dân,
Vua ấy quả là rất khó sống,
Nếu vua chứng tỏ trí ngu đần.
3113. Paññā sutaṃ vinicchinī paññā kittisilokavaḍḍhanī, paññāsahito naro idha api dukkhepi sukhāni vindati.
3113. Trí tuệ có sự suy xét điều đã được nghe. Trí tuệ có sự làm tăng trưởng danh thơm tiếng tốt. Ở đây, người được đầy đủ trí tuệ tìm thấy các sự an lạc, thậm chí ngay cả trong khổ đau.
32. Trí tuệ xét xem các việc làm,
Làm cho danh vọng mãi tăng dần,
Người nào trí tuệ đầy thông thái,
Vẫn thấy vui dù gặp khổ buồn.
3114. Paññañca kho asussūsaṃ na koci adhigacchati, bahussutaṃ anāgamma dhammaṭṭhaṃ avinibbhujaṃ.
3114. Thật vậy, người không mong muốn lắng nghe, không đến gần vị có kiến thức rộng (đa văn), không chia chẽ ý nghĩa của các pháp, không người nào đạt đến trí tuệ.
33. Không ai sống phóng dật buông lung,
Lại có thể nào đạt trí thông,
Nhưng phải theo lời khuyên bậc trí,
Nếu không, sẽ mãi mãi ngu đần.
3115. Yo ca dhammavibhāgaññū kāluṭṭhāyī atandito, anuṭṭhahati kālena tamphalaṃ tassa ijjhati.
3115. Và người nào biết phân loại các pháp, có sự thức dậy sớm, không biếng nhác, tiến hành công việc theo thời biểu, kết quả của công việc được thành tựu đến vị ấy.
34. Ai dậy sớm, luôn giữ đúng thời,
Chuyên tâm không mỏi mệt, vui tươi,
Làm bao phận sự đang mời gọi,
Chắc chắn thành công ở giữa đời.
3116. Anāyatana sīlassa anāyatanasevino, na nibbindiyakārissa sammadattho vipaccati.
3116. Đối với kẻ có bản tánh không nỗ lực, thân cận với kẻ không nỗ lực, có hành động một cách chán nản, mục đích không được kết trái một cách đúng đắn (cho kẻ ấy).
35. Ai hướng tâm vào việc tổn thương,
Hoặc hành động với trí buông lung,
Việc gì kẻ ấy hòng theo đuổi,
Cũng chẳng thể nào đạt ước mong.
3117. Ajjhattañca payuttassa tathāyatanasevino, anibbindiyakārissa sammadattho vipaccati.
3117. Và đối với người đã gắn bó với (sự tu tập của) bản thân, thân cận với người nỗ lực như thế ấy, có hành động không chán nản, mục đích được kết trái một cách đúng đắn (cho người ấy).
36. Song ai không mỏi mệt, chuyên cần,
Theo đuổi đường đời thật chánh chân,
Chắc chắn sẽ đạt thành trọn vẹn,
Bất kỳ công việc họ đang làm.
3118. Yogappayogasaṅkhātaṃ sambhatassānurakkhanaṃ, tāni tvaṃ tāta sevassu mā akammāya randhayi, akammunā ca dummedho naḷāgāraṃva sīdati.
3118. Cha thân, cha hãy thực hành hai việc ấy: việc gọi là gắn bó và thực hành, việc bảo vệ tài sản đã được tích lũy. Chớ để tiêu hoại do không hoạt động, bởi vì kẻ ngu do không hoạt động tựa như căn nhà bằng sậy bị sụp đổ.
37-38. Hộ phòng bảo vệ các kho tàng,
Là tạo nguồn tài lợi lớn dần,
Đây chính những điều con ước muốn,
Phụ vương hãy tạc dạ ghi lòng;
Vì do ác nghiệp, người ngu trí,
Cũng giống như nhà lau sậy rỗng không,
Sụp đổ tan tành trong chốc lát,
Đằng sau để lại cảnh tiêu vong.
3119. Dhammaṃ cara mahārāja mātāpitusu khattiya, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.
3119. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (phụng dưỡng) đối với cha mẹ. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
39. Với song thân, hỡi đấng Anh quân,
Phận sự thi hành thật chánh chân,
Như vậy, sống theo đời chánh trực,
Đại vương sẽ đến cõi thiên đường.
3120. Dhammaṃ cara mahārāja puttadāresu khattiya, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.
3120. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (cấp dưỡng) đối với vợ con. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
3121. Dhammaṃ cara mahārāja mittāmaccesu khattiya, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.
3121. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (thu phục) đối với bạn bè và đồng nghiệp. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
3122. Dhammaṃ cara mahārāja vāhanesu balesu ca, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.
3122. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (chu cấp) đối với các đội xa binh và bộ binh. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
3123. Dhammaṃ cara mahārāja gāmesu nigamesu ca, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.
3123. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (không sách nhiễu) ở các thôn làng và các phố thị. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
3124. Dhammaṃ cara mahārāja raṭṭhesu janapadesu ca, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.
3124. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (không sách nhiễu) trong các đất nước và các xứ sở. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
3125. Dhammaṃ cara mahārāja samaṇa brāhmaṇesu ca, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.
3125. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (bố thí) đến các Sa-môn và Bà-la-môn. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
3126. Dhammaṃ cara mahārāja migapakkhīsu khattiya, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.
3126. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (không hãm hại) đối với các loài thú và loài chim. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
3127. Dhammaṃ cara mahārāja dhammo ciṇṇo sukhāvaho, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.
3127. Tâu đại vương, hãy thực hành (thiện) pháp. (Thiện) pháp được thực hành là nguồn đem lại niềm an lạc. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
3128. Dhammaṃ cara mahārāja saindā devā sabrahmakā, suciṇṇena divaṃ pattā mā dhammaṃ rāja pamādo.
3128. Tâu đại vương, hãy thực hành (thiện) pháp. Thiên Chủ Inda, chư Thiên, cùng với Phạm Thiên đã đạt được cung Trời nhờ đã thực hành tốt đẹp. Tâu bệ hạ, chớ xao lãng (thiện) pháp.
3129. Tattheva te vattapadā esāva anusāsanī, sappaññasevikalyāṇī samattaṃ sāmataṃ vidū ”ti.
3129. Ngay trong trường hợp ấy, các phần công việc của bệ hạ chính là các lời khuyên bảo ấy. Bệ hạ hãy là người tốt lành, có sự thân cận các bậc trí tuệ, là người hiểu biết đầy đủ về bản thân.”
40. Đây là phận sự của quân vương,
Dạy bảo phụ vương bước đúng đường,
Theo trí tuệ và luôn hạnh phúc,
Hiểu điều chân lý thật hoàn toàn.
Tesakuṇajātakaṃ.
***
Bổn sanh Ba Con Chim. [521]
***
▪ 2. SARABHAṄGAJĀTAKAṂ – BỔN SANH ĐẠI ẨN SĨ SARABHAṄGA
522. Chuyện đại nhân thiện xạ Sarabhanga (Tiền thân Sarabhanga)
3130. Alaṅkatā kuṇḍalino suvatthā veḷuriyamuttā tharukhaggabandhā, rathesabhā tiṭṭhatha kenu tumhe kathaṃ vo jānanti manussaloke.
3130. “Các vị đã được trang điểm, có đeo bông tai, y phục tươm tất, đeo gươm có chuôi bằng ngọc bích và ngọc trai. Thưa các ngài thủ lãnh xa binh, xin các ngài dừng lại, và các ngài là ai? Người ta nhận biết các ngài như thế nào ở thế giới nhân loại?”
1. Vòng vàng, xiêm áo thật cao sang,
Chư vị đeo gươm nạm bảo trân,
Trân trọng kính chào chư đại tướng
Danh gì, cho biết, giữa trần gian?
3131. Ahamaṭṭhako bhīmaratho panāyaṃ kāliṅgarājā pana uggato ayaṃ, susaññatānaṃ isīnaṃ dassanāya idhāgatā pucchitāyemha pañhe.
3131. “Trẫm là Aṭṭhaka, và vị này là Bhīmaratha, còn vị nổi bật này là vua Kāliṅga. Chúng tôi đi đến nơi này để yết kiến các vị ẩn sĩ đã khéo tự kiềm chế để hỏi các câu hỏi.”
2. Bhi-ma, danh đế Ka-lin-ga,
Cùng trẫm, At-tha, chính hiệu ta,
Yết kiến chư hiền nhân khổ hạnh,
Đến đây tham vấn, đủ ba vua.
3132. Vehāsayaṃ tiṭṭhati antalikkhe pathaddhuno paṇṇaraseva cando, pucchāmi taṃ yakkha mahānubhāva kathaṃ taṃ jānanti manussaloke.
3132. “Ngài đứng ở không trung, trên bầu trời, tựa như mặt trăng vào ngày rằm, ở lưng chừng trời. Thưa vị Dạ-xoa có đại thần lực, trẫm xin hỏi ngài, người ta nhận biết ngài như thế nào ở thế giới nhân loại?”
3. Ngài ngự trên cao, giữa cõi trời,
Như vầng trăng tỏa ánh vàng soi,
Đại Thiên thần, dám xin ngài dạy,
Danh tiếng ngài sao ở cõi đời.
3133. Yamāhu devesu sujampatīti maghavāti taṃ āhu manussaloke, sadevarājā idamajja patto susaññatānaṃ isīnaṃ dassanāya.
3133. “Ở giữa chư Thiên, người ta đã gọi vị ấy là ‘Chồng của nàng Sujā,’ và ở thế giới nhân loại đã gọi là ‘Maghavā.’ Hôm nay, vị Thiên Vương ấy đi đến nơi này để yết kiến các vị ẩn sĩ đã khéo tự kiềm chế.”
4. Su-ja, danh tiếng ở trên trời
Tên gọi Ma-gha ở cõi đời,
Thiên chủ hôm nay vừa giáng thế
Thăm hiền nhân khổ hạnh bao người.
3134. Dūre sutā no isayo samāgatā mahiddhikā iddhiguṇūpapannā, vandāmi te ayire pasannacitto ye jīvalokettha manussaseṭṭhā.
3134. “Các vị ẩn sĩ của chúng ta ở xa xôi đã được nghe danh. Các ngài đã tụ hội lại. Các ngài có đại thần lực, đã đạt được các loại thần thông. Thưa các ngài, với tâm tịnh tín, tôi xin đảnh lễ các ngài, những vị ưu tú của nhân loại ở thế gian của cuộc sống tại nơi này.”
5. Chư hiền danh vọng đã lừng vang
Uy lực thần cao cả sẵn sàng,
Hoan hỷ ta chào mừng Thánh chúng
Trí tài siêu việt đám người phàm.
3135. Gandho isīnaṃ ciradikkhitānaṃ kāyā cuto gacchati māḷutena, ito paṭikkamma sahassanetta gandho isīnaṃ asuci devarāja.
3135. “Mùi hương phát ra từ cơ thể của các vị ẩn sĩ đã xuất gia lâu ngày đi theo chiều gió. Thưa vị Nghìn Mắt, ngài hãy bước lui khỏi nơi này. Thưa vị Thiên Vương, mùi hương của các vị ẩn sĩ là không trong sạch.”
6. Thân thể của ngài lão Thánh nhân
Bốc mùi hôi hám khắp không gian,
Sak-ka Thiên chủ liền lùi bước
Tránh các mùi chư Thánh nực nồng.
3136. Gandho isīnaṃ ciradikkhitānaṃ kāyā cuto gacchatu māḷutena, vicitrapupphaṃ surabhiṃva mālaṃ gandhaṃ cetaṃ pāṭikaṅkhāma bhante na hettha devā paṭikkūlasaññino.
3136. “Mùi hương phát ra từ cơ thể của các vị ẩn sĩ đã xuất gia lâu ngày hãy đi theo chiều gió, tựa như tràng hoa thơm ngát với bông hoa nhiều màu sắc. Bạch ngài, chúng tôi mong mỏi mùi hương này, bởi vì chư Thiên không có ý tưởng nhờm gớm về mùi hương này.”
7. Dù các Thánh nhân tuổi đã già
Gây mùi xúc phạm mũi người ta,
Nhiễm ô luồng khí đưa hương ngát,
Ta vẫn yêu mùi Thánh bốc ra
Hơn các tràng hoa thơm rực rỡ;
Chư Thiên chẳng ghét chuyện kia mà.
3137. Purindado bhūtapatī yasassī devānamindo maghavā sujampati, sa devarājā asuragaṇappamaddano okāsamākaṅkhati pañha pucchituṃ.
3137. “Vị đã bố thí trước đây, vị chúa của các sanh linh, vị có danh tiếng, vị chúa của chư Thiên, vị Maghavā, chồng của nàng Sujā, vị Thiên Vương ấy, vị có sự đánh tan bè lũ A-tu-la, mong chờ cơ hội để hỏi câu hỏi.
8. Su-ja phu tướng. Ma-gha-va, (*)
Thí chủ lừng danh, chúa quỷ ma,
Dẹp lủ yêu tinh, Thiên đế ấy,
Ước ao được hỏi chuyện cùng ta.(*) Sujampati và Maghava: danh hiệu của Sakka – Thiên chủ.
3138. Konevimesaṃ idha paṇḍitānaṃ pañhe puṭṭho nipuṇe vyākarissati, tiṇṇañca raññaṃ manujādhipānaṃ devānamindassa ca vāsavassa.
3138. Vậy ở đây, ai trong số các bậc sáng suốt này, khi được hỏi, sẽ trả lời các câu hỏi vi tế của ba vị vua, là ba bậc chúa tể cai trị loài người, của đấng quyền năng, và của vị chúa của chư Thiên?”
9. Ai đây trong các bậc hiền nhân
Giải đáp vấn đề thật khó khăn
Cho cả ba vua đang trị nước
Và Sak-ka, chúa tể Thiên thần?
3139. Ayaṃ isī sarabhaṅgo yasassī yato jāto virato methunasmā, ācariyaputto suvinītarūpo so nesaṃ pañhāni viyākarissati.
3139. “Vị ẩn sĩ Sarabhaṅga này có danh tiếng, đã lánh xa pháp đôi lứa từ lúc sanh ra, là con trai của vị giáo thọ, đã khéo được huấn luyện, vị ấy sẽ trả lời các câu hỏi của các bậc (vua chúa) ấy.”
10. Sa-ra-bha Thánh giả, chân hiền
Thanh tịnh, thoát ly mọi trược phiền,
Pháp tử, tinh thông trì giới luật,
Giải trừ nghi hoặc của nhân thiên.
3140. Koṇḍañña pañhāni viyākarohi yācanti taṃ isayo sādhurūpā, koṇḍañña eso manujesu dhammo yaṃ vuḍḍham āgacchati esa bhāro.
3140. “Thưa ngài Koṇḍañña, xin ngài trả lời các câu hỏi. Các vị ẩn sĩ đức độ thỉnh cầu điều ấy. Thưa ngài Koṇḍañña, điều ấy là quy luật ở loài người, trách nhiệm ấy dành cho vị trưởng thượng.”
11. Thánh chúng mong cầu bậc Đạo sư
Kon-dan-na, xóa sạch nghi ngờ:
Chủ đề này được nhiều người bảo
Đè nặng các hiền trí lão gia.
3141. Katāvakāsā pucchantu bhonto yaṃ kiñci pañhaṃ manasābhipatthitaṃ, ahaṃ hi taṃ taṃ vo viyākarissaṃ ñatvā sayaṃ lokamimaṃ parañca.
3141. “Cơ hội đã được tạo ra. Hãy để quý ngài hỏi bất cứ câu hỏi nào được mong mỏi ở trong tâm. Bởi vì ta sẽ trả lời cho quý vị từng câu một sau khi tự thân ta biết về đời này và đời sau.”
12. Cho phép người đem hỏi chuyện gì
Thực lòng người vẫn ước mong nghe,
Đời này, đời kế, ta đều biết,
Trí chẳng nghi nan mọi vấn đề.
3142. Tato ca maghavā sakko atthadassī purindado, apucchi paṭhamaṃ pañhaṃ yañcāsi abhipatthitaṃ.
3142. Và sau đó, Thiên Chủ Maghavā, Sakka, vị mong mỏi điều lợi ích, vị đã bố thí trước đây, đã hỏi câu hỏi đầu tiên về điều đã được mong mỏi (ở trong tâm).
13. Thiên chủ tìm Chân lý pháp trần,
Đến chư Hiền giả lượng khoan hồng,
Để ngài học những điều mong biết,
Và bắt đầu tham vấn mọi phần.
3143. Kiṃsu vadhitvā na kadāci socati kissappahānaṃ isayo vaṇṇayanti, kassīdha vuttaṃ pharusaṃ khametha akkhāhi me koṇḍañña etamatthaṃ.
3143. “Sau khi tiêu diệt cái gì mà không bao giờ sầu muộn? Các bậc ẩn sĩ khen ngợi việc dứt bỏ cái gì? Nên nhẫn nhịn người nào về điều thô lỗ đã được họ nói ra ở nơi này?
Thưa ngài Koṇḍañña, hãy giải thích cho tôi về điều ấy.”
14. Cái gì ta phải diệt hoàn toàn
Mà chẳng bao giờ hối tiếc không,
Và cái gì ta cần vứt bỏ
Mà người hiền thiện thảy đồng lòng?
Lời ai ta phải cần kham nhẫn
Cho dẫu là thô lỗ tận cùng,
Đây chính là điều ta ước muốn
Kon-na Thánh giả nói cho thông.
3144. Kodhaṃ vadhitvā na kadāci socati makkhappahānaṃ isayo vaṇṇayanti, sabbesaṃ vuttaṃ pharusaṃ khametha etaṃ khantiṃ uttamamāhu santo.
3144. “Sau khi tiêu diệt sự giận dữ thì không bao giờ sầu muộn. Các bậc ẩn sĩ khen ngợi việc dứt bỏ sự gièm pha. Nên nhẫn nhịn tất cả mọi người về điều thô lỗ đã được họ nói ra. Các bậc thiện nhân đã nói sự nhẫn nại này là tối thượng.”
15. Sân hận là tâm phải diệt trừ
Mà ta chẳng hối tiếc bao giờ,
Giả nhân, giả nghĩa cần quăng bỏ,
Được tán đồng ngay bởi bậc từ.
Ta phải nhịn lời từ mọi phía
Dù lời thô lỗ thật vô bờ,
Lòng kham nhẫn ấy, hiền nhân bảo,
Đệ nhất ngôi cao quả thật là.
3145. Sakkā ubhinnaṃ vacanaṃ titikkhituṃ sadisassa vā seṭṭhatarassa vāpi, kathannu hīnassa vaco khametha akkhāhi me koṇḍañña etamatthaṃ.
3145. “Có thể kham nhẫn lời nói của hai hạng người ngang bằng mình hoặc ưu tú hơn mình, làm thế nào nhẫn nhịn lời nói của người thấp kém? Thưa ngài Koṇḍañña, hãy giải thích cho tôi về điều ấy.”
16. Những lời thô ác của hai người
Ta phải kiên tâm chịu đựng hoài:
Là bậc trên, người cùng đẳng cấp;
Song làm sao nhẫn nhịn bao lời
Của người thấp kém hơn ta nữa,
Là việc ta mong học hỏi ngài.
3146. Bhayā hi seṭṭhassa vaco khametha sārambhahetu pana sādisassa, yo cidha hīnassa vaco khametha etaṃ khantiṃ uttamamāhu santo.
3146. “Có thể kham nhẫn lời nói của người ưu tú bởi vì sợ hãi, và của người bằng mình vì nguyên nhân nguy hiểm đến sinh mạng. Ở đây, người nào có thể tha thứ lời nói của người thấp kém, các bậc thiện nhân đã nói sự nhẫn nại này là tối thượng.
17. Lời ác thô từ các bậc trên,
Ta thường kham nhẫn bởi lòng kiêng,
Hoặc không tranh cãi người đồng đẳng;
Song nhịn lời thô kẻ thấp hèn
Là chính viên lòng thành nhẫn nhục,
Như lời hiền Thánh vẫn thường khuyên.
3147. Kathaṃ vijaññā catumaṭṭharūpaṃ seṭṭhaṃ sarikkhaṃ athavāpi hīnaṃ, virūparūpena caranti santo tasmā hi sabbesa vaco khametha.
3147. Làm thế nào có thể nhận biết được một người là ưu tú, tương đương, hoặc là thấp kém hơn với hình thức bên ngoài của bốn oai nghi? Các bậc thiện nhân du hành với hình thức ngụy trang (giả dạng người tồi tàn); chính vì thế, nên nhẫn nhịn lời nói của tất cả mọi người.
18. Khó nhìn hào nhoáng vẻ bề ngoài
Mà đoán hơn, thường hay giả dạng
Tồi tàn xuất hiện ở trong đời.
Vậy thì, bạn hỡi, ta khuyên nhủ
Hãy nhịn lời thô của mọi người.
3148. Na hetamatthaṃ mahatīpi senā sarājikā yujjhamānā labhetha, yaṃ khantimā sappuriso labhetha khantībalassūpasamanti verā.
3148. Thật vậy, các đạo quân với cả đức vua dầu có vĩ đại, trong khi chiến đấu cũng không đạt được mục đích ấy, nhưng bậc chân nhân có lòng nhẫn nại lại đạt được điều ấy; đối với sức mạnh của lòng nhẫn nại, các sự hận thù được lặng yên.”
19. Sức mạnh quân vương đến bực nào
Cũng không thắng lợi chốn binh đao
Bằng hiền nhân tạo nhờ kham nhẫn:
Đại nhẫn xóa tan mọi hận cừu.
3149. Subhāsitante anumodiyāna aññaṃ taṃ pucchāmi tadiṅgha brūhi, yathā ahū daṇḍakī nāḷikīro athajjuno kalābu cāpi rājā, tesaṃ gatiṃ brūhi supāpakamminaṃ
katthūpapannā isīnaṃ viheṭhakā.
3149. “Sau khi tùy hỷ với lời khéo nói của ngài, tôi hỏi ngài điều khác. Nào, xin ngài hãy nói về điều ấy. Ví như thời xưa đã có các vị Daṇḍakī, Nāḷikīra, rồi vị Ajjuna, và luôn cả vị vua Kalābu, xin ngài nói về cảnh giới của những kẻ có hành động vô cùng độc ác ấy, những kẻ quấy nhiễu các vị ẩn sĩ sẽ tái sanh ở đâu?”
20. Lời ngài đang dạy thật êm tai,
Song muốn nghe thêm một chuyện này:
Xin hỏi phận Dan-da chúa tể
Cùng ba tòng phạm lỗi lầm gây,
Cõi nào phải tái sinh đày đọa,
Vì phá Thánh hiền thế giới đây.
3150. Kisaṃ hi vacchaṃ avakiriya daṇḍakī ucchinnamūlo sajano saraṭṭho, kukkulanāme nirayamhi paccati tassa phuliṅgāni patanti kāye.
3150. “Bởi vì vua Daṇḍakī đã ném vật dơ ở Kisavaccha, với cả đất nước cùng với dân chúng đã bị bứng gốc, và bị nung nấu ở địa ngục tên Kukkula; các cục than hừng đổ lên thân hình của vị vua ấy.
21. Thưở nọ tan tành cả quốc gia,
Vì làm ô nhục Thánh Ki-sa
Dan-da ngã xuống Ku-ku địa
Tràn ngập than hừng hóa bụi tro.
3151. Yo saññate pabbajite aheṭhayi dhammaṃ bhaṇante samaṇe adūsake, taṃ nāḷikīraṃ sunakhā parattha saṅgamma khādanti viphandamānaṃ.
3151. Nāḷikīra đã quấy nhiễu các vị xuất gia đã tự kiềm chế, các bậc Sa-môn không tội lỗi đang thuyết giảng thiện pháp. Các con chó ăn thịt kẻ Nāḷikīra đang run rẩy ấy khi gã tái sanh vào thế giới khác.
22. Nà-li đầy hoảng hốt rơi vào
Địa ngục trong nanh vuốt chó ngao,
Vì nhạo báng hiền nhân, đạo sĩ,
Pháp sư chẳng phạm lỗi lầm nào.
3152. Athajjuno niraye sattisūle avaṃsiro patito uddhapādo, aṅgīrasaṃ gotamaṃ heṭhayitvā khantiṃ tapassiṃ cirabrahmacāriṃ.
3152. Còn Ajjuna đã bị rơi vào địa ngục cọc nhọn, có chân phía trên đầu phía dưới, sau khi đã quấy nhiễu vị đạo sĩ khổ hạnh Aṅgīrasa Gotama có sự nhẫn nại, đã thực hành Phạm hạnh lâu dài.
23. Cũng vậy Aj-ju-na giết ngay
Thánh nhân thanh tịnh, luyện tu dày,
An-gi, nên bị xô đầu xuống
Hành hạ thân trong chốn đọa đày.
3153. Yo khaṇḍaso pabbajitaṃ achedayī khantiṃ vadantaṃ samaṇaṃ adūsakaṃ, kalābuvīciṃ upapajja paccati mahāpatāpaṃ kaṭukaṃ bhayānakaṃ.
3153. Kalābu đã chặt đứt vị xuất gia, bậc Sa-môn không tội lỗi đang thuyết giảng về sự nhẫn nại, thành từng khúc, và bị nung nấu sau khi tái sanh vào địa ngục Avīci có sự nóng bức dữ dội, đắng cay, chốn gây nên nỗi kinh hoàng.
24. Ka-là-bu cháy tại Diêm cung
Giữa khổ đau thê thảm, hãi hùng,
Vì đã hại hiền nhân đức hạnh
“Bậc thầy nhẫn nhục” tiếng vang lừng.
3154. Etāni sutvā nirayāni paṇḍito aññāni pāpiṭṭhatarāni cettha, dhammaṃ care samanabrāhmaṇesu evaṃkaro saggamupeti ṭhānaṃ.
3154. Sau khi nghe về những địa ngục ấy và những địa ngục khác còn tồi tệ hơn nữa ở nơi này, vị sáng suốt nên thực hành thiện pháp ở nơi các vị Sa-môn và Bà-la-môn; vị làm như vậy đi đến vị thế cõi trời.”
25. Người trí nghe xong các chuyện trên
Về miền địa ngục khổ triền miên,
Chẳng hề hại Đạo Sư hiền trí,
Nhờ Chánh nghiệp, sau đạt cõi thiên.
3155. Subhāsitaṃ te anumodiyāna aññaṃ taṃ pucchāmi tadiṅgha brūhi kathaṃ vidhaṃ sīlavantaṃ vadanti kathaṃ vidhaṃ paññavantaṃ vadanti, kathaṃ vidhaṃ sappurisaṃ vadanti kathaṃ vidhaṃ no siri no jahāti.
3155. “Sau khi tùy hỷ với lời khéo nói của ngài, tôi hỏi ngài điều khác. Nào, xin ngài hãy nói về điều ấy. (Các bậc trí) nói người như thế nào gọi là người có giới? (Các bậc trí) nói người như thế nào gọi là người có trí tuệ? (Các bậc trí) nói người như thế nào gọi là bậc thiện nhân? Người như thế nào thì sự vinh quang không rời bỏ?”
26. Lời ngài đáng quý trọng êm tai
Song muốn nghe thêm một chuyện này:
Ai được người đời xem “đức độ”?
Thế nhân gọi “trí giả” là ai?
Người trần xem kẻ nào “thành tín”,
Ai kẻ vận may chẳng bỏ rơi?
3156. Kāyena vācāya ca yo dha saññato manasā ca kiñci na karoti pāpaṃ, na attahetu alikaṃ bhaṇāti tathā vidhaṃ sīlavantaṃ vadanti.
3156. “Ở đây, người nào đã tự kiềm chế thân và khẩu, và không làm bất cứ điều xấu xa nào bằng ý, không nói việc không thật vì nguyên nhân bản thân, (các bậc trí) nói người như thế ấy gọi là người có giới.
27. Khẩu, hành chứng tỏ tự điều thân,
Tư tưởng tránh xa mọi lỗi lầm,
Chẳng dối gian nhằm đích hạ liệt,
Được xem “đức độ” giữa nhân quần.
3157. Gambhīrapañhaṃ manasā vicintayaṃ nāccāhitaṃ kamma karoti luddaṃ, kālāgataṃ atthapadaṃ na riñcati tathā vidhaṃ paññavantaṃ vadanti.
3157. Người suy xét bằng tâm về câu hỏi thâm sâu,
không làm hành động hung dữ và không có lợi ích,
không bê trễ lời nói có lợi ích khi thời điểm đến, ,
(các bậc trí) nói người như thế ấy gọi là người có trí tuệ.
28. Giải đáp vấn đề, trí tuệ thâm,
Không làm điều ác độc, vô lương,
Lời hay đúng lúc đem khuyên nhủ,
Được mọi người xem đúng “trí nhân”.
3158. Yo ve kataññū katavedi dhīro kalyāṇamitto daḷhabhatti ca hoti, dukhitassa sakkacca karoti kiccaṃ tathāvidhaṃ sappurisaṃ vadanti.
3158. Người nào thật sự là người tri ân, biết trả ân, sáng trí, là người bạn tốt lành, và có lòng nhiệt tình bền vững, là người làm phận sự một cách nghiêm chỉnh đối với kẻ bị đau khổ, (các bậc trí) nói người như thế ấy gọi là bậc thiện nhân.
29. Biết ơn vì đã nhận ân lành,
Làm nhẹ buồn đau với nhiệt tình,
Chứng tỏ bạn hiền lòng vững chắc,
Mọi người ca ngợi “kẻ tâm thành”.
3159. Etehi sabbehi guṇehupeto saddho mudu saṃvibhāgī vadaññū, saṅgāhakaṃ sakhilaṃ saṇhavācaṃ tathāvidhaṃ no siri no jahāti.
3159. Người được đầy đủ với tất cả các đức tính ấy, có niềm tin, mềm mỏng, có sự chia sớt về tài sản, rộng lượng, hào phóng, nói năng tử tế, có lời nói dịu dàng, người như thế ấy thì sự vinh quang không rời bỏ.”
30. Kẻ nào tài khéo đủ trong tay,
Chân thật, dịu dàng, rộng lượng thay,
Ái ngữ, ân cần, người cảm phục,
Vận may chẳng bỏ kẻ như vầy.
3160. Subhāsitante anumodiyāna aññaṃ taṃ pucchāmi tadiṅgha brūhi, sīlaṃ siriñcāpi satañca dhammaṃ paññañca kaṃ seṭṭhataraṃ vadanti.
3160. “Sau khi tùy hỷ với lời khéo nói của ngài, tôi hỏi ngài điều khác. Nào, xin ngài hãy nói về điều ấy. Về (các yếu tố) giới hạnh, cùng với sự vinh quang, và đức tính của những người tốt, và trí tuệ, (các bậc trí) nói yếu tố nào là ưu tú hơn?”
31. Lời ngài đáng thán phục êm tai,
Ao ước nghe thêm một chuyện này
Đức hạnh, vận may, hiền trí thiện,
Cái nào tối thắng giữa trần ai?
3161. Paññā hi seṭṭhā kusalā vadanti nakkhattarājāriva tārakānaṃ, sīlaṃ siriñcāpi satañca dhammo anvāyikā paññavato bhavanti.
3161. “Các bậc thiện xảo nói chính trí tuệ là ưu tú, tựa như vua của các vì tinh tú (mặt trăng) ở giữa các vì sao. Giới hạnh, cùng với sự vinh quang, và đức tính của những người tốt là những yếu tố đi theo sau trí tuệ.”
32. Người thiện xem hiền trí tối cao,
Như trăng che khuất các vì sao,
Đức hạnh, hiền lương cùng vận tốt,
Rõ ràng bậc trí phải theo mau.
3162. Subhāsitante anumodiyāna aññaṃ taṃ pucchāmi tadiṅgha brūhi, kathaṃkaro kintikaro kimācaraṃ kiṃ sevamāno labhatīdha paññaṃ, paññāyidāni paṭipadaṃ vadehi kathaṃ karo paññavā hoti macco.
3162. “Sau khi tùy hỷ với lời khéo nói của ngài, tôi hỏi ngài điều khác. Nào, xin ngài hãy nói về điều ấy. Người hành động như thế nào, làm việc gì, đang thực hành điều gì,
đang phụng sự điều gì thì đạt được trí tuệ ở thế gian này? Giờ đây, xin ngài hãy nói về đường lối thực hành để đạt được trí tuệ. Người hành động như thế nào là người có trí tuệ?”
33. Lời người thân ái thật êm tai,
Mong ước nghe thêm một chuyện này:
Muốn đạt thành tâm minh trí tuệ,
Đường nào hành động phải theo hoài?
Đâu là trí đạo xin cho biết
Nhờ việc nào người có trí ngay?
3163. Sevetha vuḍḍhe nipuṇe bahussute uggāhako paripucchako siyā, suṇeyya sakkacca subhāsitāni evaṃkaro paññavā hoti macco.
3163. “Hãy thân cận các bậc trưởng thượng, tinh tế, có kiến thức, nên là người học tập, nên là người hỏi (điều thắc mắc), nên cẩn thận lắng nghe các lời khéo nói;
người hành động như vậy là người có trí tuệ.
34. Kết bạn người uyên bác lão thành,
Nhờ tham vấn, học trí thông minh,
Phải nghe theo các lời khuyên tốt,
Vì vậy con người trí tuệ sinh!
3164. Sa paññavā kāmaguṇe avekkhati aniccato dukkhato rogato ca, evaṃ vipassī pajahāti chandaṃ dukkhesu kāmesu mahabbhayesu.
3164. Vị có trí tuệ ấy nhìn thấy các loại dục là vô thường, là khổ não, là bệnh tật. Người có sự minh sát như vậy dứt bỏ sự mong muốn ở các sự khổ đau, ở các dục, ở các nỗi sợ hãi lớn lao.
35. Bậc trí nhìn tham dục giác quan
Thấy đầy bệnh khổ, lắm vô thường,
Giữa tham, ưu não gây kinh hãi,
An tịnh, hiền nhân dạ chẳng màng.
3165. Savītarāgo pavineyya dosaṃ mettaṃ cittaṃ bhāvaye appamāṇaṃ, sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṃ anindito brahmamupeti ṭhānaṃ.
3165. Vị ấy có luyến ái đã được xa lìa, có thể xua đi sân hận, có thể phát triển tâm từ ái vô hạn lượng. Sau khi đã buông bỏ sự hành hạ đối với tất cả chúng sanh, không bị chê bai, vị ấy đạt đến vị thế Phạm Thiên.
36. Vậy điều phục ác nghiệp, ly tham,
Tu tập từ bi vô lượng tâm,
Với mọi hữu tình đều quý mến,
Tâm thanh tịnh, đến Phạm thiên cung.
3166. Mahiddhiyaṃ āgamanaṃ ahosi tavamaṭṭhaka bhīmarathassa cāpi, kāliṅgarājassa ca uggatassa sabbesa vo kāmarāgo pahīno.
3166. Đã có sự đạt đến quyền lực lớn lao cho bệ hạ, luôn cả đức vua Bhīmaratha, và đức vua Kāliṅga nổi bật; tâu (đức vua) Aṭṭhaka, sự luyến ái trong các dục của tất cả các vị đã được dứt bỏ.”
37. Nhờ thần lực nên chúa Bhi-ma
Cùng với ngài, này chúa At-tha,
Đại đế Ka-lin-ga hiển hách,
Đến đây các vị đủ luôn ba,
Xưa làm nô lệ cho tham dục,
Nay được tự do giải thoát ra.
3167. Evaṃ metaṃ paracittavedī sabbesa no kāmarāgo pahīno, kārohi okāsamanuggahāya yathāgatiṃ te abhisambhavema.
3167. “Điều ấy là như vậy, thưa bậc biết được tâm của người khác, sự luyến ái trong các dục của tất cả chúng tôi đã được dứt bỏ. Xin ngài hãy tạo cho cơ hội bằng sự nâng đỡ.
Mong rằng chúng tôi đạt được giống như sự thành tựu của ngài.”
38. Chính ngài là bậc tha tâm thông,
Nhờ vậy, từ vua đến đạo quân
Giải thoát khỏi vòng vây dục vọng,
Xin ngài ban bố một hồng ân
Chúng ta quả thật đều mong ước
Đạt đến niềm an lạc Thánh nhân.
3168. Karomi okāsamanuggahāya tathā hi vo kāmarāgo pahīno, pharātha kāyaṃ vipulāya pītiyā yathā gatiṃ me abhisambhavetha.
3168. “Ta tạo cho cơ hội bằng sự nâng đỡ, bởi vì sự luyến ái trong các dục của các vị đã được dứt bỏ như thế ấy. Các vị hãy thấm nhuần toàn thân với tràn đầy hỷ lạc.
Các vị hãy đạt được giống như sự thành tựu của ta.”
39 Ta ban điều các vị mong cầu
Để các vị xa ác dục mau,
Hoan hỷ vô biên, tâm thấm đượm,
Đạt thành cực lạc ước về sau.
Nghe vậy các vị ngâm kệ tán đồng:
3169. Sabbaṃ karissāma tavānusāsanaṃ yaṃ yaṃ tuvaṃ vakkhasi bhūripañña, pharāma kāyaṃ vipulāya pītiyā yathā gatiṃ me abhisambhavema.
3169. “Chúng tôi sẽ thực hành mọi điều chỉ dạy của ngài, mỗi một điều ngài sẽ nói ra, thưa bậc có trí tuệ uyên bác, Mong rằng chúng tôi thấm nhuần toàn thân với tràn đầy hỷ lạc. Mong rằng chúng tôi đạt được giống như sự thành tựu của ngài.”
40. Mọi việc làm theo lệnh của ngài,
Những gì ngài nghĩ tối ưu thôi,
Để tâm thấm đượm vô biên hỷ
Đạt đến lạc an dạ ước hoài.
3170. Katāyaṃ vacchassa kisassa pūjā gacchantu bhonto isayo sādhurūpā, jhāne ratā hotha sadā samāhitā esā ratī pabbajitassa seṭṭhā.
3170. “Việc tôn vinh đến vị Kisavaccha này đã được thực hiện. Các ngài hãy ra đi, thưa chư tôn đức ẩn sĩ có hình dáng tốt lành, chư vị hãy thích thú với việc tham thiền, luôn luôn định tĩnh; việc ấy là sự lạc thú tối ưu của bậc xuất gia.”
41. Vinh dự thay Đã viếng Ki-sa,
Giờ đây chư vị hãy về nhà,
Hỡi chư hiền Thánh danh lừng lẫy,
Hãy trú an trong tịnh lạc kia,
Niềm hỷ lạc trong đời Thánh hạnh
Chính là Cực lạc tối cao xa.
3171. Sutvāna gāthā paramatthasañhitā subhāsitā isinā paṇḍitena, te vedajātā anumodamānā pakkāmu devā devapuraṃ yasassino.
3171. “Sau khi lắng nghe các kệ ngôn liên hệ đến mục đích tối thượng đã được khéo nói bởi bậc ẩn sĩ sáng suốt, các vị ấy tùy hỷ với niềm hân hoan sanh khởi, chư Thiên có danh tiếng đã về lại Thiên giới.
42. Nghe thuyết toàn Chân lý tối cao
Bởi hiền nhân giọng điệu thanh tao,
Chư Thiên trở lại miền thiên giới,
An lạc, ân tình thắm thiết sao!
3172. Gāthā imā atthavatī subyañjanā subhāsitā isinā paṇḍitena, yo kocimā aṭṭhikatvā suṇeyya labhetha pubbāpariyaṃ visesaṃ, laddhāna pubbāpariyaṃ visesaṃ adassanaṃ maccurājassa gacche.
3172. Những câu kệ ngôn này có ý nghĩa, có văn hay, đã được khéo nói bởi bậc ẩn sĩ sáng suốt. Bất cứ ai chăm chú lắng nghe những lời này có thể đạt được sự chứng đạt thứ bậc đầu tiên. Sau khi đạt được sự chứng đạt thứ bậc đầu tiên, có thể vượt khỏi tầm nhìn của Thần Chết.
43. Lời lẽ Thánh hiền dạy lọt tai,
Mang đầy ý nghĩa, giọng thanh bai,
Ai tinh cần tập trung tâm trí
Tầm tứ chuyên đề, sẽ thấy ngay:
Đường nhập tịnh theo từng cấp bực,
Thoát ly Thần Chết độc quyền oai.
3173. Sālissaro sāriputto meṇḍissaro nāma kassapo, pabbato anuruddho ca kaccāyano ca devalo.
3173. (Thời bấy giờ) vị Sālissara nay là Sāriputta, vị tên Meṇḍissara nay là Kassapa, vị Pabbata nay là Anuruddha, còn vị Kaccāyana nay là Devala. – Thời ấy Salissara là Sàriputta (Xá-lợi-phất), Mendissara là kassapa (Ca-diếp), Pabbata là Anuruddha (A-na-luật-đà), Devala là Kaccàyana (Ca-chiên-diên),Anussisa là ànanda, Kisavaccha là Kolita (tức Mục-kiền-liên), Sarabhanga là Bồ-tát, các ông phải hiểu Tiền thân này như vậy.
3174. Anusisso ca ānando kisavaccho ca kolito, nārado puṇṇo mantāniputto sesaparisā buddhaparisā sarabhaṅgo lokanātho evaṃ dhāretha jātakan ”ti.
3174. Vị Anusissa nay là Ānanda, vị Kisavaccha nay là Kolita, vị Nārada nay là Puṇṇa Mantāniputta, hội chúng còn lại nay là hội chúng của đức Phật, vị Sarabhaṅga nay là đấng Đấng Bảo Hộ Thế Gian. Các ngươi hãy ghi nhớ câu chuyện Bổn Sanh như vậy.”
Sarabhaṅgajātakaṃ.
***
Bổn sanh Đại Ẩn Sĩ Sarabhaṅga. [522]
***
▪ 3. ALAMBUSĀJĀTAKAṂ – BỔN SANH ALAMBUSĀ
523. Chuyện thiên nữ Alambusà (Tiền thân Alambusà)
3175. Athabravi brahā indo vatrabhū jayataṃ pitā, devakaññaṃ parābhetvā sudhammāyaṃ alambusaṃ.
3175. Khi ấy, Thiên chủ Inda vĩ đại, bậc đã khuất phục A-tu-la Vatra, người cha của các vị chiến thắng, đã chọn ra nàng tiên nữ Alambusā và đã nói với nàng ấy tại hội trường Sudhammā rằng:
1. Thiên chủ In-dra (*), đấng vạn năng,
Xưa kia đã giết Va-tra thần,
Triệu nàng Thiên nữ vào cung điện
Vì biết nàng mưu chước lẫy lừng.
—————–
(*) Indra và Vàsava: danh hiệu của Sakka
3176. Misse devā taṃ yācanti tāvatiṃsā saindakā, isipalobhike gaccha isisiṅgaṃ alambuse.
3176. “Này Alambusā kiều diễm, chư Thiên cõi Đạo Lợi với Thiên Chủ Inda thỉnh cầu nàng. Này cô nàng quyến rũ ẩn sĩ, nàng hãy đi gặp Isisiṅga.
2. “Thiên nữ A-lam”, Đế Thích truyền:
“Ở trên hội chúng của chư Thiên
Bảo nàng đến gặp I-si nọ
Quyến rũ chàng say đắm mối duyên”.
3177. Purāyaṃ amhe acceti vatavā brahmacariyavā, nibbānābhirato vuddho tassa maggāni āvara.
3177. Vị này đầy đủ về phận sự, có Phạm hạnh, thích thú Niết Bàn, tăng trưởng về đức độ, vượt trội chúng tôi ở Thiên cung. Nàng hãy ngăn chặn các đạo lộ của vị ấy.”
3. Hãy theo cám dỗ sát bên chàng
Vì chính chàng là bậc Thánh nhân,
Trong lúc đi tìm nguồn Cực lạc,
Lại còn chiến thắng cả Thiên hoàng.
3178. Devarāja kimeva tvaṃ mameva tuvaṃ sikkhasi, isipalobhike gaccha santi aññāpi accharā.
3178. “Tâu Thiên Vương, ngài làm điều gì vậy, khi ngài đây nhìn thấy chỉ mỗi thiếp, nói rằng: ‘Này cô nàng quyến rũ ẩn sĩ, nàng hãy đi’? Vẫn còn có các tiên nữ khác nữa.
4. Giữa bao Thiên nữ, tấu Thiên hoàng,
Sao chỉ riêng nhìn đến tiện nhan,
Và bảo phận hèn đi quyến rũ
Thánh nhân đe dọa chiếc ngai vàng?
3179. Mādisiyo pavarā ceva asoke nandane vane, tāsampi hotu pariyāyo tāpi yantu palobhikā.
3179. Có các cô tương đương thiếp và còn quý phái hơn, tại khu vườn Nandana không có sầu muộn. Hãy là cơ hội cho các cô ấy. Hãy để các cô nàng quyến rũ ấy đi vậy.”
5. Vườn Nan-da, cực lạc thần tiên,
Có biết bao Thiên nữ diệu huyền,
Đến lượt một nàng trong đám ấy,
Xin giao việc đáng rủa nguyền trên.
3180. Addhā hi saccaṃ bhaṇasi santi aññāpi accharā, tādisiyo pavarā ceva asoke nandane vane.
3180. “Nàng nói quả đúng là sự thật. Vẫn còn có các tiên nữ khác nữa. Có các cô tương đương nàng và còn quý phái hơn, tại khu vườn Nandana không có sầu muộn.
6. Nàng nói đúng thay, ở Lạc viên
Nan-da-na, trẫm biết vườn tiên
Nhiều Thiên nữ diễm kều dung sắc
Sánh kịp nàng, thường được ngắm xem.
3181. Na tā evaṃ pajānanti pāricariyaṃ pumaṃ gatā, yādisaṃ tvaṃ pajānāsi nāri sabbaṅgasobhane.
3181. Này người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân, các nàng ấy không biết cách phục vụ khi đến với người nam, còn người như nàng đây biết.
7. Nhưng này, hỡi tuyệt thế tiên nương,
Chẳng có ai dùng kế mỹ nhơn
Điêu luyện như nàng, hàng quyến rũ
Thánh nhân bằng mọi cách điên cuồng.
3182. Tvameva gaccha kalyāṇi itthīnaṃ pavarā casi, taveva vaṇṇarūpena vasamānāpayissasi.
3182. Và nàng là quý phái trong giới phụ nữ. Này mỹ nữ, chính nàng hãy đi, bằng sắc đẹp và vóc dáng của chính nàng, nàng sẽ khiến vị ẩn sĩ ấy chiều theo quyền lực của nàng.”
8. Vậy nàng quả thật đóa hoa khôi,
Hãy bước lên đường, tố nữ ôi,
Dùng lực thần kia là mỹ sắc
Buộc hiền nhân nọ phục oai trời.
3183. Na cāhaṃ na gamissāmi devarājena pesitā, vibhemi cetaṃ āsāduṃ uggatejo hi brāhmaṇo.
3183. “Được vị chúa của chư Thiên sai phái, thiếp sẽ không thể không đi. Nhưng thiếp hãi sợ ở việc xúc phạm vị ấy, bởi vì vị Bà-la-môn có oai lực nổi bật.
9. Phận hèn sẽ quyết, tấu Thiên hoàng,
Tiến bước lên đường phụng mệnh ban
Song vẫn lo âu phần thiếp dám
Liều mình hại bậc Thánh nghiêm trang.
3184. Aneke nirayaṃ pattā isimāsādiyā janā, āpannā mohasaṃsāraṃ tasmā lomāni haṃsaye.
3184. Không ít người đã rơi vào địa ngục sau khi xúc phạm bậc ẩn sĩ, đã gánh chịu sự luân hồi bởi vì si mê; (nghĩ đến) điều ấy, thiếp rởn hết cả lông.”
10. Bởi vì lắm kẻ đáng thương thay,
(Thiếp sợ run vì ý nghĩ này:)
Làm hại Thánh hiền, nên phải đọa,
Ăn năn ngục tối khổ đau đầy.
3185. Idaṃ vatvāna pakkāmi accharā kāmavaṇṇinī, missā missetumicchantī isisiṅgaṃ alambusā.
3185. Nói xong điều này, nàng tiên nữ Alambusā kiều diễm, có sắc đẹp theo như ý muốn, dời gót, trong khi đang mong mỏi được kết thân với vị Isisiṅga.
11. Thiên nữ A-lam nói vậy xong,
Khởi hành, nàng lướt tóc như phong,
Đi lôi cuốn tịnh nhân lừng lẫy
Vào các hạnh vi bất tịnh nhân.
3186. Sā ca taṃ vanamogayha isisiṅgena rakkhitaṃ, bimbi jālakasañchannaṃ samantā aḍḍhayojanaṃ.
3186. Và nàng ấy đã đi sâu vào khu rừng nọ, nơi được hộ trì bởi vị Isisiṅga, được bao phủ bởi các chồi non của loài dây leo bimbi ở xung quanh đến nửa d0-tuần.
12. Đến cánh rừng kia nữa dặm sâu,
Thắm tươi đỏ rực các chùm dâu,
I-si trú ẩn trong rừng ấy,
Nàng biến mình đi chẳng thấy đâu.
3187. Pātova pātarāsamhi udanhasamayaṃ paṭi, aggiṭṭhaṃ parimajjantaṃ isisiṅgaṃ upāgami.
3187. Sáng sớm tinh mơ, vào bữa điểm tâm, lúc mặt trời mọc lên, nàng ấy đã đi đến gặp Isisiṅga đang quét dọn gian nhà thờ lửa.
13. Tảng sáng tinh mơm chớm nắng đào,
Trước khi vầng nhật hiện lên cao,
Nàng Thiên nữ đến gần hiền giả,
Đang quét thảo am sạch biết bao!
3188. Kānu vijjurivābhāsi osadhī viya tārakā, vicittavatthābharaṇā āmuttamaṇikuṇḍalā.
3188. “Người nữ nào chiếu sáng tựa như tia chớp, tựa như ngôi sao osadhī? Nàng có vải vóc và đồ trang sức đủ màu sắc rực rỡ, có bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni,–
14. Ai đó như tia chớp sáng ngời,
Rõ ràng như thể ánh sao mai,
Đôi tay đeo ngọc, hoa tai điểm,
Lấp lánh từ xa rực cả trời?
3189. Ādiccavaṇṇasaṅkāsā hemacandanagandhinī, saññatūru mahāmāyā kumārī cārudassanā.
3189. –tương tự như màu sắc của mặt trời, có mùi thơm của trầm hương vàng, có cặp đùi tròn trịa, vô cùng kỳ diệu, là nàng thiếu nữ có vẻ đáng mến.
15. Như phấn chiên-đàn, tỏa ngát hương,
Huy hoàng chẳng khác ánh chiêu dương,
Yêu kiều vóc liễu thanh thanh dáng.
Tuyệt sắc cho ai được ngắm nàng,
3190. Vilākā mudukā suddhā pādā te suppatiṭṭhitā, kamanā kamanīyā te harantiyeva me mano.
3190. Thon thả, mảnh mai, trong trắng, hai bàn chân của nàng khéo léo chạm đất. Các bước đi đáng yêu của nàng làm ngẩn ngơ tâm trí của ta.
16. Dịu dàng, trong trắng với lưng thon,
Nhún nhẩy nhịp nhàng nhón gót son,
Yểu điệu thân nàng bao diễm lệ,
Làm ta say đắm cả tâm hồn!
3191. Anupubbā ca te ūru nāganāsasamūpamā, vimaṭṭhā tuyhaṃ sussoṇī akkhassa phalakaṃ yathā.
3191. Và hai đùi của nàng thoai thoải tựa như vòi voi. Cặp mông đẹp của nàng trơn láng giống như tấm ván của trò chơi xúc xắc.
17. Cặp đùi nàng giống chiếc vòi voi,
Dài thẳng thon dần thật mảnh mai,
Mông của nàng êm đềm xúc cảm
Tròn như mặt gỗ để chơi bài.
3192. Uppalasseva kiñjakkhā nābhi te sādhu saṇṭhitā, pūrā kañhañjanasseva dūrato paṭidissati.
3192. Lỗ rún của nàng nằm ở vị trí khéo léo tựa như chùm nhụy của đóa sen xanh, được nhìn thấy từ đằng xa giống như được phủ đầy lớp thuốc bôi màu đen.
18. Rốn nàng để lộ đám lông mềm,
Ta tưởng chừng tơ các ngó sen
Từ phía xa xa nhìn chỉ thấy
Tựa hồ đầy dược thủy đen huyền!
3193. Duvidhā jātā urajā avaṇṭā sādhupaccudā, payodharā appatītā aḍḍhalābusamā thanā.
3193. Hai vú là hai bầu sữa được sanh ra từ ngực, đầy đặn, có sự nhô lên tốt đẹp, không bị chảy xệ, tựa như hai nửa trái bí ngô.
19. Đôi vú sữa như nửa quả bầu,
Căng phồng, khoe cả cặp hình cầu,
Săn dòn, cho dẫu không cây chống,
Chúng thật hoàn toàn chẳng dựa đâu!
3194. Dīghā kambutalābhāsā gīvā eṇeyyakā yathā, paṇḍarāvaraṇā vaggu catutthamanasannibhā.
3194. Cổ dài tương tự mặt phẳng, có ba ngấn (tướng may mắn) giống như cổ loài sơn dương. Đôi môi xinh xắn (có màu đỏ thắm) tương tự như cái lưỡi.
20. Môi lưỡi nàng đều đỏ thắm tươi
Thật là quý tướng hiếm hoi ôi!
Cổ dài như thể linh dương núi,
Lại vẽ thêm ba ngấn rạch ròi!
3195. Uddhaggā ca adhaggā ca dumaggaparimajjitā, duvijā nelasambhūtā dinnā tava sudassanā.
3195. Hàm răng trên và hàm răng được chùi sạch bằng đầu nhọn của cây chà răng. Những cái răng được mọc lên không có khuyết điểm từ hai hàm là diện mạo xinh đẹp của nàng.
21. Răng nàng dùng chút gỗ lau chùi.
Trong sạch, luôn luôn giữ sáng ngời,
Lấp lánh cả hàm trên lẫn dưới
Chiếu đầy tia sáng, trắng tinh khôi!
3196. Apaṇḍarā lohitantā jiñjuka phalasannibhā, āyatā ca visālā ca nettā tava sudassanā.
3196. Hai con mắt dài và rộng, có màu đen với đường viền màu đỏ, tương tự như trái dâu rừng, là diện mạo xinh đẹp của nàng.
22. Đôi mắt nàng bầu dục dáng hình
Khi nhìn, bao vẻ đẹp đa tình,
Khác nào đôi trái dâu đen láy,
Tô điểm màu đo đỏ mép vành.
3197. Nātidīghā susammaṭṭhā kanakabyā samocitā, uttamaṅgaruhā tuyhaṃ kesā candanagandhikā.
3197. Mái tóc của nàng mọc ở đầu, không quá dài, khéo được chải chuốt, được gom lại bởi chiếc lược bằng vàng, có mùi thơm của trầm hương.
23. Bím tóc mướt trơn, chẳng quá dài,
Kết thành từng cuốn, gọn nhất đời,
Điểm vàng đầu mút, mùi thơm ngát
Dầu phấn đàn hương quý tuyệt vời!
3198. Yāvatā kasigorakkhā vāṇijānañca yā gati, isīnañca parakkhantaṃ saññatānaṃ tapassinaṃ.
3198. Cho đến những người sống nhờ vào việc trồng trọt, việc chăn nuôi bò, và lợi nhuận của các việc buôn bán, cho đến vị đang nỗ lực trong số các bậc ẩn sĩ, các đạo sĩ khổ hạnh đã tự kiềm chế,–
24. Giữa mọi người theo nghiệp bán mua,
Nuôi bầy gia súc hoặc cày bừa,
Giữa bao hiền thánh đầy uy lực,
Nguyện sống đời thanh tịnh ẩn cư.
3199. Na te samasamaṃ passe asmiṃ paṭhavi maṇḍale, ko vā tvaṃ kassa vā putto kathaṃ jānemu taṃ mayaṃ.
3199. –ta không nhìn thấy ai sánh bằng nàng ở trên vòm trái đất này. Nàng là ai, là con của người nào? Làm thế nào chúng tôi có thể biết về nàng?”
25. Trong muôn loài giữa cõi trần gian,
Ta chẳng thấy ai sánh kịp nàng,
Thân phụ là ai, cùng quý tánh,
Ta mong nàng thổ lộ cho tường.
3200. Na pañhakālo bhaddante kassapevaṃ gate satī, ehi samma ramissāma ubho asmākaṃ assame, ehi taṃ upagūhissaṃ ratīnaṃ kusalo bhava.
3200. “Này Kassapa, không phải là lúc hỏi câu hỏi, khi vận may qua đi như vầy. Chàng ơi, chàng hãy đến. Cả hai chúng ta sẽ vui vầy ở khu ẩn cư của chúng ta. Chàng hãy đến. Khi thiếp ôm lấy chàng, chàng hãy tỏ ra khéo léo đối với các thú vui vầy.”
26. Vạn phúc trời ban đến bạn lành,
Thời gian, Ca-diếp hỡi, trôi nhanh,
Sao chàng mãi hỏi chi vơ vẩn,
Chẳng phải đôi ta chỉ một mình?
27. Hãy vào am thất, chốn tu hành,
Chụp lấy ngay cơ hội chứng minh
Ngàn thú giao hoan này khét tiếng
Giữa người sùng báo đạo si tình.
3201. Idaṃ vatvāna pakkāmi accharā kāmavaṇṇinī, missā missetumicchantī isiṅgaṃ alambusā.
3201. Nói xong điều này, nàng tiên nữ Alambusā kiều diễm, có sắc đẹp theo như ý muốn, dời gót, trong khi đang mong mỏi được kết thân với vị Isisiṅga.
28. Nói xong Thiên nữ Lam-bu-sà
Vội vã tạ từ cất bước xa
Danh sĩ I-si, hòng quyến rũ
Thánh nhân vướng phải nghiệp dâm tà.
3202. So ca vegena nikkhamma chetvā dandhaparakkamaṃ, tamuttamāsu veṇīsu ajjhappatto parāmasī.
3202. Và vị ấy, đã tức tốc bước ra, đã làm đứt đoạn sự nỗ lực bị trì trệ. đã nắm được nàng ấy ở các phần trên đầu, ở các bím tóc, và đã sờ mó.
29. Như gió, Thánh nhân lướt vội vàng
Cố ngăn nàng chạy trốn xa chàng,
Hăng say đeo đuổi theo Thiên nữ,
Chụp lấy đầu, lôi mái tóc nàng.
3203. Tamudāvatta kalyāṇī paḷissaji susobhanā, cavi tamhi brahmacariyā yathā taṃ atha tositā.
3203. Người mỹ nữ có sắc đẹp tuyệt vời đã xoay vị ấy lại và ôm chặt lấy. Phạm hạnh ở vị ấy đã tiêu hoại. Và như thế, tiên nữ Alambusā được hài lòng về điều ấy.
30. Chính tại nơi chàng đứng lặng yên,
Hằng nga ôm chặt giữa tay tiên,
Tức thì công hạnh chàng tiêu hết
Trước lực thần mê hoặc đảo điên!
3204. Manasā agamā indaṃ vasantaṃ nandane vane, tassā saṅkappamaññāya maghavā devakuñjaro.
3204. Bằng tâm ý, nàng tiên đã đi đến với Thiên Chủ Inda đang ngự tại khu vườn Nandana. Sau khi nhận biết ý định của nàng ấy, Maghavā, vị đứng đầu chư Thiên–
31. Tư niệm nàng bay đến Ngọc cung
Tại Nan-da Thượng uyển muôn trùng,
Ngọc hoàng hiểu rõ điều nàng ước,
3205. Pallaṅkaṃ pahiṇī khippaṃ sovaṇṇaṃ sopavāhanaṃ, sa uttaracchadapaññāsaṃ sahassapaṭikatthataṃ.
3205. –đã tức tốc phái đi chiếc kiệu khiêng bằng vàng, có vật phụ tùng, có năm mươi mái che, có một ngàn tấm vải bao bọc.
Phái vội thiên xa lấp lánh vàng.
32. Trang hoàng giăng trải đủ yên cương,
Tô điểm cân đai phủ mấy tầng,
3206. Tamenaṃ tattha dhāresi ure katvāna sobhanā, yathā ekamuhuttaṃva tīṇi vassāni dhārayi.
3206. Trong chiếc kiệu, người con gái đẹp đã ôm choàng lấy vị ấy sau khi đã đặt vào ngực; nàng đã ôm chàng hầu như chỉ trong một chốc lát mà đã ba năm (trôi qua ở cõi nhân loại).
Tại đó, Thánh nhân nằm khuất phục
Trong tay Thiên nữ lắm ngày trường!
33. Ba năm ròng rã lướt qua đầu
Chẳng khác nào, giây lát bóng câu,
3207. Vimado tīhi vassehi pabujjhitvāna brāhmaṇo, addasāsi harita rukkhe samantā aggiyāyanaṃ.
3207. Thức giấc sau ba năm, vị Bà-la-môn, hết bị mê đắm, đã nhìn thấy các cây xanh ở xung quanh gian nhà thờ lửa,–
Cho đến phút sau cùng, Thánh giả
Trở mình thức khỏi cánh tay mầu!
34. Cây xanh chàng thấy khắp nơi nơi,
Và chiếc bệ thờ cạnh đó thôi,
3208. Navapattavanaṃ phullaṃ kokilāgaṇa ghositaṃ, samantā sa viloketvā rudaṃ assūni vattayi.
3208. –khu rừng mới thay lá xum xuê, náo nhiệt bởi bầy chim cu cu. Và sau khi quan sát xung quanh, vị ấy đã tuôn những giọt nước mắt, than khóc rằng:
Thăm thẳm ngàn cây vang vọng mãi
Tiếng sơn ca lảnh lót ngân dài.
35. Nhìn quanh, chàng nức nở đau thương,
Nhỏ lệ đắng cay phận tủi hờn:
3209. Na juhe na jape mante aggihuttaṃ pahāpitaṃ, konu me pāricariyāya pubbe cittaṃ palobhayi.
3209. “Ta không có thể cúng tế, ta không có thể trì tụng các chú thuật, lễ tế thần lửa đã bị bỏ bê. Vậy ai đã quyến rủ tâm trước đây của ta vào việc phục vụ (các chuyện ô nhiễm)?“
Ta chẳng cầu kinh, dâng lễ vật
Nơi đây chẳng cúng tế đăng đàn.
36.Ta trú rừng hoang vắng, độc thân,
Nào ai người cám dỗ mình chăng?
3210. Araññe me viharato yo me tejāha sambhataṃ, nānāratanaparipuṇṇaṃ nāvaṃva gaṇhi aṇṇave.
3210. Người nào đã lấy đi pháp tích lũy được từ năng lực (Sa-môn) của ta trong khi ta sống ở trong rừng, tựa như đã lấy đi chiếc thuyền chứa đầy các loại châu báu ở ngoài biển khơi.”
Ai dùng tà hạnh làm tiêu tán
Tất cả lương tâm với trí năng,
Chẳng khác con thuyền đấy báu vật
Bị chìm đắm giữa chốn trùng dương?”
3211. Ahante pāricariyāya devarājena pesitā, avadhiṃ cittaṃ cittena pamādā tvaṃ na bujjhasi.
3211. “Thiếp được vị chúa của chư Thiên sai phái đến để phục vụ cho chàng. Thiếp đã phá hoại tâm bằng tâm. Do xao lãng, chàng đã không cảnh giác.”
37. Thiên chủ Sak-ka phải đến đây,
Nguyện làm tỳ nữ phục tuân ngài;
Dù vô tình thiếp không hay biết,
Đã hại người trong cực lạc này.
3212. Imāni kira maṃ tāto kassapo anusāsati, kamalāsarisitthiyo tāyo bujjhesi māṇava.
3212. “Người cha yêu dấu Kassapa quả thật có dạy bảo ta những lời này: ‘Này người trai trẻ, con hãy cảnh giác những phụ nữ như là đóa hoa sen ấy.
38. Thân phụ ta, Ca-diếp Đại nhân,
Trí hiền khuyên nhủ trẻ buông lung:
“Nữ nhân cũng giống hoa sen đẹp,
Thận trọng, thiện nam, trước lực thần!”
3213. Ure gaṇḍāyo bujjhesi tāyo bujjhesi māṇava, iccānusāsi maṃ tāto yathā maṃ anukampako.
3213. Con hãy cảnh giác các nàng có hai khối nhô lên ở ngực. Này người trai trẻ, con hãy cảnh giác các cô ấy.’ Là người có lòng thương tưởng đến ta, người cha yêu dấu đã dạy bảo ta như thế.
39. Đề phòng nữ sắc mê hồn,
Hiểm họa đâu đây chực kế gần.
Do vậy, lòng nhân từ thúc đẩy
Nghiêm đường khuyên nhủ trẻ phòng thân.
3214. Tassāhaṃ vacanaṃ nākaṃ pitu vuddhassa sāsanaṃ, araññe nimmanussamhi svājja jhāyāmi ekako.
3214. Ta đã không thực hiện lời nói của vị ấy, lời giảng dạy của người cha, của bậc trưởng thượng. Hôm nay, trong khu rừng vắng bóng người, ta đây chỉ một mình, ăn năn.
40. Phóng dật, ta cam chịu bỏ qua
Những lời thông tuệ của cha già,
Than ôi, đơn độc, ta đau đớn,
Nay sống rừng hoang, dạ xót xa!
3215. Sohaṃ tathā karissāmi dhiratthu jīvitena me, puna vā tādiso hessaṃ maraṇaṃ vā me bhavissati.
3215. Ta đây sẽ làm như thế nào! Thật xấu hổ thay cho mạng sống của ta! Ta sẽ trở lại là người tu tập như trước đây, hay là ta sẽ chọn lấy cái chết?”
41. Đời cũ, ta nguyền rủa lắm thay,
Vâng lời cha dạy kể từ đây,
Thà đành vong mạng còn hơn phải
Trở lại đường xưa lối cũ này.
3216. Tassa tejañca viriyañca dhitiṃ ñatvā suvaḍḍhitaṃ, sirasā aggahī pāde isisiṅgaṃ alambusā.
3216. Sau khi biết được năng lực, sự tinh tấn, sự quả quyết đã được tăng trưởng tốt đẹp cho vị ấy, tiên nữ Alambusā đã đê đầu ở bàn chân của Isisiṅga, (nói rằng):
42. Bỗng chốc A-lam hiểu rõ ràng
Lực chàng kiên định, thật can tràng,
Vội quỳ đảnh lễ hiền nhân ấy,
Lập tức nàng ôm lấy gót chàng.
3217. Mā me kujjha mahāvīra mā me kujjha mahāisi, mahā attho mayā ciṇṇo tidasānaṃ yasassinaṃ, tayā pakampitaṃ āsi sabbaṃ devapuraṃ tadā.
3217. “Thưa bậc đại hùng, xin ngài chớ giận thiếp. Thưa bậc đại ẩn sĩ, xin ngài chớ giận thiếp. Thiếp đã làm được lợi ích lớn lao cho chư Thiên cõi Tam Thập danh tiếng. Khi ấy, ngài đã làm cho toàn bộ Thiên giới bị rung chuyển.”
43. “Xin dẹp lôi đình, đấng Thánh minh,
Thiếp đã gây một chuyện tày đình,
Khi chư Thiên cõi trời vinh hiển
Rúng động kinh hoàng nghe đại danh”.
3218. Tāvatiṃsā ca ye devā tidasānañca vāsavo, tvañca bhadde sukhī hohi gaccha kaññe yathāsukhaṃ.
3218. “Chư Thiên cõi Đạo Lợi và Thiên Chủ Vāsava của chư Thiên cõi Tam Thập, và nàng, này người nữ hiền thục, mong rằng nàng được an lành. Này cô gái, nàng hãy ra đi thoải mái.”
44. Tam thập tam Thiên, hưởng phước lành
Cùng Và-sa (*), chúa tể quần sinh,
Và nàng Thiên nữ, xin từ giã,
Nàng được tự do thỏa nguyện mình.
—————
(*) Indra và Vàsava: danh hiệu của Sakka
3219. Tassa pāde gahetvāna katvā ca naṃ padakkhiṇaṃ, añjaliṃ paggahetvāna tamhā ṭhānā apakkami.
3219. Sau khi nắm lấy hai bàn của vị ẩn sĩ, và đi nhiễu vòng quanh vị ấy, nàng tiên đã chắp tay lên và đã rời khỏi nơi ấy.
45. Ôm lấy đôi chân bậc trí nhân
Đi về phía hữu, diễu quanh vòng,
Chắp tay, dáng điệu cầu tha tội,
Nàng hiện hình đi khỏi mắt chàng.
3220. Yo tassā āsi pallaṅko sovaṇṇo sopavāhano, sauttaracchadapaññāso sahassapaṭikatthato, tameva pallaṅkamāruyha agā devāna santike.
3220. Đã có chiếc kiệu khiêng bằng vàng, có vật phụ tùng, có năm mươi mái che, có một ngàn tấm vải bao bọc hiện ra cho nàng ấy. Nàng tiên đã bước lên chiếc kiệu ấy và đi về trú xứ của chư Thiên.
46. Nàng Thiên nữ lại cỡi xe vàng,
Lộng lẫy yên cương được điểm trang,
Mọi vẻ huy hoàng khăn ngọc phủ,
Nàng phi nhanh đến cõi thiên đàng.
3221. Tamokkamiva āyantiṃ jalantiṃ vijjutaṃ yathā, patīto sumano vitto devindo adadā varaṃ.
3221. Trong khi nàng ấy tiến đến tựa như cây đuốc đang cháy sáng giống như tia chớp, vị Chúa của chư Thiên hớn hở, thích ý, mừng rỡ, đã ban cho nàng ấy điều ước muốn.
47. Như đuốc hồng hay chớp lóe ngang,
Nàng du hành vượt thẳng trời quang,
Sak-ka Thiên chủ hân hoan phán:
“Chẳng ước nguyện nào trẫm chẳng ban”.
3222. Varaṃ ce me ado sakka sabbabhūtānamissara, na isipalobhikā gacche etaṃ sakka varaṃ vare ”ti.
3222. Tâu Sakka, nếu ngài ban cho thiếp điều ước muốn, tâu vị chúa tể của tất cả sanh linh, thiếp có thể không phải đi quyến rũ ẩn sĩ. Tâu Sakka, thiếp chọn điều ước muốn ấy.”
48. Ví dầu Đế Thích, chúa chư Thiên
Ban thiếp điều tâm ước nguyện riêng:
“Xin chẳng bao giờ còn cám dỗ
Thánh nhân nào phá bỏ lời nguyền”.
Alambusājātakaṃ.
***
Alambusājātakaṃ. [523]
—-
Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh II“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh II
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda