XV. VĪSATINIPĀTO – NHÓM HAI MƯƠI KỆ NGÔN
Nguồn: Tam Tạng Pāli – Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS)
Lời tiếng Việt: Tỳ khưu Indacanda & Gs. Trần Phương Lan
1. MĀTAṄGAJĀTAKAṂ
1. BỔN SANH ẨN SĨ MĀTAṄGA
497- Chuyện bậc Hiền trí Màtanga
(Tiền thân Màtanga)
2328. Kuto nu āgacchasi rummavāsī otallako paṃsupisācakova, saṅkāracoḷaṃ paṭimucca kaṇṭhe
ko re tuvaṃ hohisi adakkhiṇeyyo.
2328. “Thế ngươi từ đâu đi đến mà ăn mặc dơ dáy, tồi tàn, tựa như loài yêu tinh ở đống rác? Ngươi là ai mà buộc mảnh vải lượm từ đống rác ở cổ? Ngươi sẽ không được cúng dường.”
1- Lão từ đâu đến đắp y dơ,
Người ngợm tồi tàn tựa quỷ ma,
Giẻ rách làm y quàng trước ngực,
Lão là ai? Chẳng xứng phần quà!
2329. Annaṃ tava idaṃ pakataṃ yasassī taṃ khajjare bhuñjare piyyare ca, jānāsi maṃ tvaṃ paradattūpajīviṃ uttiṭṭhapiṇḍaṃ labhataṃ sapāko.
2329. “Này người có danh vọng, vật thực này của ngài được chuẩn bị sẵn; mọi người nhai nó, ăn nó, và uống nó. Ngài biết rằng tôi có cuộc sống nương vào sự bố thí của người khác. Vậy hãy cho người hạ tiện nhận lãnh miếng ăn do đứng chầu chực.”
2- Vương tử! Thức ăn đã sẵn bày,
Mọi người ăn uống hưởng no say:
Bọn ta, ngài biết thường sinh sống
Bằng thứ tìm ra bởi gặp may.
Xin đứng lên cho người hạ tiện
Hưởng phần thọ thực chút gì đây.
2330. Annaṃ mama idaṃ pakataṃ brāhmaṇānaṃ attatthāya saddahato mamayidaṃ, apehi etto kimidhaṭṭhitosi na mādisā tuyhaṃ dadanti jamma.
2330. “Vật thực này của ta được chuẩn bị sẵn cho các vị Bà-la-môn. Vật thực này là của ta, của người có đức tin, nhằm sự tấn hóa cho bản thân. Ngươi hãy tránh xa nơi này. Việc gì mà ngươi đứng ở đây? Này kẻ hèn hạ, những người như ta không bố thí cho ngươi.”
3- Phần các La môn hưởng phước ân,
Này đây thực phẩm chính tay dâng
Thí tài cúng với lòng thành kính.
Thôi cút! Ai đưa lão cán chân?
Chẳng có phần cho người hạ tiện,
Kẻ hèn kia hãy bước đi luôn!
2331. Thale ca ninne ca vapanti bījaṃ anūpakhette phalamāsasānā, etāya saddhāya dadāhi dānaṃ
appeva ārādhaye dakkhiṇeyye.
2331. “Những người mong mỏi về thành quả gieo hạt giống ở đất bằng, ở đất trũng, và ở cánh đồng đẫm nước. (Tương tự như thế ấy,) ngài hãy ban phát vật thí với niềm tin ấy, có lẽ ngài có thể có được các bậc xứng đáng cúng dường.”
4- Mọi nơi cao thấp họ gieo trồng,
Mong gặt quả trên đám ruộng đồng:
Chánh đạo này đây, xin bố thí,
Sau ngài xứng đáng hưởng phần công.
2332. Khettāni mayhaṃ viditāni loke yesāhaṃ bījāni patiṭṭhapemi, ye brāhmaṇā jātimantūpapannā
tānīdha khettāni supesalāni.
2332. “Các thửa ruộng ở thế gian đã được ta biết đến, ta sẽ đặt các hạt giống ở những nơi ấy. Đó là các vị Bà-la-môn thành tựu về dòng dõi và các chú thuật; các thửa ruộng ấy, ở thế gian này, là vô cùng mầu mỡ.”
5- Ta biết đất ta muốn cấy trồng,
Những vùng xứng đáng hạt đâm bông,
La môn quý tộc, thông kinh thánh:
Là đất lành phong phú ruộng đồng.
2333. Jātimado ca atimānitā ca lobho ca doso ca mado ca moho, ete aguṇā yesu vasanti sabbe
tānīdha khettāni apesalāni.
2333. “Sự kiêu hãnh về dòng dõi, sự ngã mạn thái quá, tham lam, sân hận, kiêu căng, và si mê, tất cả các đức tính xấu này hiện hữu ở những nơi nào, những thửa ruộng ấy, ở thế gian này, là không mầu mỡ.
6- Ngạo mạn giống dòng quá tự kiêu,
Tham sân si, uống rượu say nhiều,
Người tâm chứa đủ sai lầm ấy,
Là đất hoang cằn để hạt gieo.
2334. Jātimado ca atimānitā ca lobho ca doso ca mado ca moho, ete aguṇā yesu na santi sabbe
tānīdha khettāni supesalāni.
2334. Sự kiêu hãnh về dòng dõi, sự ngã mạn thái quá, tham lam, sân hận, kiêu căng, và si mê, tất cả các đức tính xấu này không hiện hữu ở những nơi nào, những thửa ruộng ấy, ở thế gian này, là vô cùng mầu mỡ.” 7- Ngạo mạn giống dòng quá tự kiêu,
Tham sân si, uống rượu say nhiều,
Người tâm chứa đủ sai lầm ấy,
Là đất hoang cằn để hạt gieo.
2335. Kvettha gatā upajotiyo ca upajjhāyo athavā bhaṇḍakucchi, imassa daṇḍañca vadhañca datvā
gale gahetvā khalayātha jammaṃ.
2335. “Các người ở nơi này, Upajotiya, Upajjhāya, hay Bhaṇḍakucchi, đã đi đâu? Các ngươi hãy cho gã này một trận đòn và sự trừng phạt, hãy nắm lấy kẻ hèn hạ ở cổ và tống khứ gã đi.
8- Này Bran-da! Hỡi U-paj-jhà!
Ta bảo, đâu rồi Up-ti-ya,
Trừng phạt lão này, cho lão chết,
Tên hèn hạ, tống cổ ngay ra.
2336. Giriṃ nakhena khaṇasi ayo dantena khādasi, jātavedaṃ padahasi yo isiṃ paribhāsasi.
2336. “Kẻ nào đã mắng nhiếc bậc ẩn sĩ, kẻ ấy đã đào bới ngọn núi bằng móng tay, đã nhai sắt cục bằng răng, đã nuốt vào ngọn lửa.”
9- Phỉ báng Hiền nhân! Lợi ích bằng
Với khi nuốt ngọn lửa đang hồng,
Hay là sắt cứng, đưa răng cắn,
Đào núi, mà dùng móng vuốt không?
2337. Idaṃ vatvāna mātaṅgo isi saccaparakkamo, antalikkhasmiṃ pakkāmi brāhmaṇānaṃ udikkhataṃ.
2337. Sau khi nói điều này, Mātaṅga, vị ẩn sĩ có sự chân thật và nỗ lực, đã bước đi ở trên không trung để cho các vị Bà-la- môn chiêm ngưỡng.
10- Nói vậy, Màtanga trí nhân,
Bậc phò chánh đạo, lý thuần chân,
Rồi ngài bay bổng trên không khí
Trước mắt nhìn theo của đám đông.
2338. Āveṭhitaṃ piṭṭhito uttamaṅgaṃ bāhaṃ pasāreti akammaneyyaṃ, setāni akkhīni yathā matassa
ko me imaṃ puttamakāsi evaṃ.
2338. “Cái đầu đã bị vặn ngược về phía sau. Nó xuội cánh tay không còn hoạt động. Các con mắt trắng dã giống như của người chết. Kẻ nào đã làm cho đứa con trai này của ta trở nên như vậy?”
11- Vặn tréo đầu con khỏi bả vai,
Kìa sao con duỗi cánh tay dài,
Bơ vơ mắt trắng dường như chết,
Kẻ hại con mình đó chính ai?
2339. Idhāgamā samaṇo rummavāsī otallako paṃsupisācakova, saṅkāracoḷaṃ paṭimucca kaṇṭhe
so te imaṃ puttamakāsi evaṃ.
2339. “Có vị Sa-môn đã đi đến nơi này. Vị ấy ăn mặc dơ dáy, tồi tàn, tựa như loài yêu tinh ở đống rác, đã có buộc mảnh vải lượm từ đống rác ở cổ. Vị ấy đã làm cho đứa con trai này của bà trở nên như vậy.”
12- Ẩn sĩ đây khoác áo dơ,
Tồi tàn người ngợm tợ yêu ma,
Y bằng giẻ rách quàng ngang ngực,
Chính kẻ hành hung quý tử bà.
2340. Katamaṃ disaṃ agamā bhūripañño akkhātha me māṇavā etamatthaṃ, gantvāna taṃ paṭikiriyemu accayaṃ appeva naṃ puttaṃ labhemu jīvitaṃ.
2340. “Bậc có trí tuệ uyên bác đã đi về hướng nào? Này các thanh niên Bà-la- môn, các ngươi hãy nói với ta về việc ấy. Chúng ta hãy đi đến (gặp vị ẩn sĩ) và sửa chữa lại lỗi lầm ấy, có lẽ chúng ta sẽ nhận được lại cuộc sống cho đứa con trai ấy của ta.”
13- Về hướng đi nào, bậc Trí nhân?
Trả lời ta, hỡi các vương tôn!
Chúng ta đi chuộc cho lầm lỗi,
Để giúp con ta được tỉnh hồn.
2341. Vehāsayaṃ agamā bhūripañño pathaddhuno paṇṇaraseva cando, apicāpi so purimaṃ disaṃ agacchi saccappaṭiñño isi sādhurūpo.
2341. “Bậc có trí tuệ uyên bác đã đi theo đường hư không, tựa như mặt trăng ở vào giữa cuộc hành trình trong ngày rằm. Hơn nữa, vị ẩn sĩ có sự công nhận về pháp chân thật, có dáng vóc tốt đẹp ấy, đã đi về hướng đông.”
14- Bậc Hiền vụt hiện giữa không gian,
Như thể vầng trăng giữa tối rằm,
Đẹp mặt thay, ngài sùng Chánh đạo!
Phương Đông theo hướng ấy lên đàng.
2342. Āveṭhitaṃ piṭṭhito uttamaṅgaṃ bāhaṃ pasāreti akammaneyyaṃ, setāni akkhīni yathā matassa
ko me imaṃ puttamakāsi evaṃ.
2342. “Cái đầu đã bị vặn ngược về phía sau. Nó xuội cánh tay không còn hoạt động. Các con mắt trắng dã giống như của người chết. Kẻ nào đã làm cho đứa con trai này của ta trở nên như vậy?”
15- Vặn tréo đầu con khỏi bả vai,
Kìa sao con duỗi cánh tay dài,
Bơ vơ mắt trắng dường như chết,
Kẻ hại con mình đó chính ai?
2343. Yakkhā have santi mahānubhāvā anvāgatā isayo sādhurūpā, te duṭṭhacittaṃ kupitaṃ viditvā
yakkhā hi te puttamakaṃsu evaṃ.
2343. “Quả thật, có các Dạ-xoa có đại năng lực, đã đi đến tháp tùng theo các vị ẩn sĩ có vóc dáng tốt đẹp (đã thành tựu đức hạnh). Chính các Dạ-xoa ấy, sau khi biết được (con trai nàng có) tâm xấu xa, bực bội, đã làm cho con trai của nàng trở nên như vậy.”
16- Quỷ linh đủ đại lực uy thần
Đẹp mắt theo hầu các trí nhân,
Chúng thấy con nàng sân, ác ý,
Nên hành xử nó chính vì nàng.
2344. Yakkhā ca me puttamakaṃsu evaṃ tvaññeva me mā kuddho brahmacāri, tumheva pāde saraṇaṃ gatāsmi anvāgatā puttasokena bhikkhu.
2344. “Và các Dạ-xoa đã làm cho con trai của thiếp trở nên như vậy. Thưa bậc hành Phạm hạnh, riêng ngài xin chớ giận dữ với thiếp. Thiếp đi đến nương nhờ hai bàn chân của chính ngài. Thưa vị tỳ khưu, thiếp đã đi đến vì nỗi sầu muộn về đứa con trai.”
17- Chính các thần linh tạo việc trên,
Hiền nhân đừng phẫn nộ thân hèn,
Xin ngài từ mẫn vì con thiếp,
Quy ngưỡng từ nay dưới gót sen.
2345. Tadeva hi etarahi ca mayhaṃ manopadoso na mamatthi koci, putto ca te vedamadena matto
atthaṃ na jānāti adhicca vede.
2345. “Đối với ta, đúng ngay vào lúc ấy và bây giờ, không có chút nào sân hận trong ý nghĩ của ta. Và con trai của nàng bị say sưa do sự kiêu hãnh về Kinh Vệ Đà; nó đã học thuộc Kinh Vệ Đà nhưng không hiểu biết ý nghĩa.”
18- Tâm ta, hãy biết, chẳng tiềm tàng,
Từ trước đến giờ, ý hận sân,
Con trẻ không thông ba Thánh điển,
Vì đầy vọng tưởng , ngập kiêu căng.
2346. Addhā have bhikkhu muhuttakena sammuyhateva purisassa saññā, ekāparādhaṃ khama bhūripañña na paṇḍitā kodhabalā bhavanti.
2346. “Thật vậy, thưa vị tỳ khưu, đương nhiên sự nhận biết của con người cũng bị mê mờ trong chốc lát. Thưa bậc có trí tuệ uyên bác, xin ngài hãy tha thứ cho một sự sai trái. Các bậc sáng suốt không có năng lực của sự giận dữ.”19- Con người có thế, hỡi hiền nhân,
Bỗng chốc trí khôn hóa tối tăm,
Tha lỗi thiếp này, thưa Trí giả,
Bậc hiền không để khởi hờn căm.
2347. Imañca mayhaṃ uttiṭṭhapiṇḍaṃ taṃ maṇḍavyo bhuñjatu appapañño, yakkhā ca te naṃ na viheṭhayeyyuṃ putto ca te hohiti so arogo.
2347. “Và đây là miếng ăn do đứng chầu chực của ta. Hãy cho Maṇḍavya thiểu trí ăn vật ấy. Các Dạ-xoa sẽ không quấy nhiễu con trai của nàng, và đứa con trai ấy của nàng sẽ khỏi bệnh.”
20- Chút của thừa này, hãy lấy mang,
Cho Man-da khốn khổ phần ăn,
Con nàng sẽ mạnh mau bình phục,
Bọn quỷ tha mồi, được thoát thân.
2348. Maṇḍavya bālosi parittapañño yo puññakkhettānaṃ akovidosi, mahakkasāvesu dadāhi dānaṃ
kiliṭṭhakammesu asaññatesu.
2348. “Này Maṇḍavya, con thật là ngu si, thiểu trí, là kẻ không rành rẽ về các thửa ruộng phước. Con ban phát vật thí ở những kẻ có khuyết điểm lớn, ở những kẻ có hành động bị ô nhiễm, ở những kẻ đã không tự chế ngự.21- Man-da, tiểu trí thật ngu đần,
Chẳng biết lúc nào đáng bố ân:
Con cúng dường bao người trọng tội,
Lũ người vô độ, bọn tà nhân!
2349. Jaṭā ca kesā ajinā nivatthā jarūdapānaṃva mukhaṃ parūḷhaṃ, pajaṃ imaṃ passatha rummarūpiṃ
na jaṭājinaṃ tāyate appapaññaṃ.
2349. Những vị có tóc được bện lại, mặc y phục bằng da dê, râu mọc dài ở miệng tựa như cái giếng nước cũ kỹ. Con hãy nhìn xem người này, có sự ăn mặc dơ dáy. Không nên hộ độ kẻ tóc bện, mặc y da dê, nhưng thiểu trí.
22- Xiêm áo bằng da mớ tóc xù,
Miệng như giếng cũ, có tràn bờ,
Hãy nhìn giẻ rách bầy kia mặc!
Các thứ này không cứu lũ ngu!
2350. Yesaṃ rāgo ca doso ca avijjā ca virājitā, khīṇāsavā arahanto tesu dinnaṃ mahapphalaṃ.
2350. Đối với những vị nào có sự luyến ái, sân hận, và vô minh đã được dứt trừ, những bậc A-la- hán có các lậu hoặc đã được cạn kiệt, sự bố thí ở những vị ấy có quả báu lớn lao.”
23- Hễ khi tham dục với cuồng sân,
Được tống ra ngoài các thế nhân,
Bố thí hiền nhân thanh tịnh ấy,
Quả nhiều cho việc đã làm ăn.
xxxx. Upahacca manaṃ mejjho mātaṅgasmiṃ yasassine, sapārisajjo ucchinno mejjhāraññaṃ tadā ahū ”ti.
xxxx. “Sau khi có tâm ý xấu xa với vị ẩn sĩ Mātaṅga có danh tiếng, vua xứ Mejjha cùng toàn bộ xứ sở đã bị tiêu diệt. Từ đó, đã có khu rừng Mejjha.”
24. Người ta kể chuyện cả non sông
Của xứ Mejjha phải diệt vong,
Nước kia bị xóa tan bờ cõi
Vì giết Mà-tan, bậc lẫy lừng.
Câu chuyện 497
Mātaṅgajātakaṃ paṭhamaṃ.
***
Bổn Sanh Ẩn Sĩ Mātaṅga. [497]
***
▪ 2. CITTASAMBHŪTAJĀTAKAṂ
▪ 2. BỔN SANH CITTA VÀ SAMBHŪTA
498. Chuyện Đôi Bạn Citta-Sambhùta
(Tiền thân Citta-Sambhùta)
2351. Sabbaṃ narānaṃ saphalaṃ suciṇṇaṃ na kammanā kiñcana moghamatthi, passāmi sambhūtaṃ mahānubhāvaṃ sakammanā puññaphalūpapannaṃ.
2351. “Mọi việc làm của con người đều có quả báo và khéo được tích lũy. Không có nghiệp nào là rỗng không (không có quả báo). Trẫm nhìn thấy Sambhūta có đại năng lực, đã được thành tựu quả phước do nghiệp của bản thân.
1- Chóng chầy thiện nghiệp đều mang trái,
Không nghiệp gì không có quả sinh,
Chẳng có việc lành nào uổng phí:
Sam-bhù, ta thấy, lớn lên thành
Hùng cường, vĩ đại và như thế
Công đức ngài đem đến quả lành
2352. Sabbaṃ narānaṃ saphalaṃ suciṇṇaṃ na kammanā kiñcana moghamatthi, kaccinnu cittassapi evameva iddho mano tassa yathāpi mayhaṃ.
2352. Mọi việc làm của con người đều có quả báo và khéo được tích lũy. Không có nghiệp nào là rỗng không (không có quả báo). Phải chăng cũng tương tự y như thế đối với Citta? Phải chăng sự thành tựu thuộc về ý của người ấy cũng giống như của trẫm?”
2- Chóng chầy thiện nghiệp đều mang trái,
Không nghiệp gì không có quả mang,
Chẳng có việc lành nào uổng phí:
Cit-ta ai biết, có vinh quang
Giống như phần trẫm, tâm hiền hữu
Có được an vui lợi lạc chăng?
2353. Sabbaṃ narānaṃ saphalaṃ suciṇṇaṃ na kammanā kiñcana moghamatthi, cittaṃ vijānāhi tatheva deva iddho mano tassa yathāpi tuyhaṃ.
2353. “Mọi việc làm của con người đều có quả báo và khéo được tích lũy. Không có nghiệp nào là rỗng không (không có quả báo). Tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy nhận biết về Citta là tương tự y như vậy. Sự thành tựu thuộc về ý của người ấy cũng giống như của bệ hạ.”
3-Thiện nghiệp chóng chầy đều đạt quả
Nghiệp nào mà chẳng quả lai sinh,
Không gì vô ích tâu Hoàng thượng,
Xin ngắm Cit-ta tại cổng thành,
Chẳng khác quân vương, tâm vị ấy
Đã đem hỷ lạc đến cho mình.
2354. Bhavaṃ nu citto sutamaññato te udāhu te kocinaṃ etadakkhā, gāthā sugītā na mamatthi kaṅkhā
dadāmi te gāmavaraṃ satañca.
2354. “Phải chăng khanh là Citta? Khanh đã nghe từ chính vị ấy nói? Hay là người nào đó đã nói điều này về vị ấy với khanh? Câu kệ ngôn đã được ngâm nga khéo léo; không có sự hoài nghi đối với trẫm. Trẫm ban cho khanh ân huệ là một trăm ngôi làng.”
4- Vậy có phải chăng chính Cit-ta,
Hay chàng nghe được chuyện ngày xưa
Từ ngài, hay một người nào khác?
Ôi ngọt ngào thay khúc Thánh ca!
Ta chẳng sợ gì, ta sẽ thưởng
Ngôi làng hay tặng vật làm quà.
2355. Na cāhaṃ citto sutamaññato me isī ca me etamatthaṃ asaṃsi, gantvāna rañño paṭigāhi gāthaṃ
api te varaṃ attamano dadeyya.
2355. “Thần không phải là Citta. Thần đã không nghe từ chính vị ấy nói. Một vị ẩn sĩ đã nói điều ấy cho thần rằng: ‘Ngươi hãy đi đến gặp và ngâm nga câu kệ ngôn cho đức vua nghe. Thậm chí được hoan hỷ, đức vua cũng có thể ban cho ngươi ân huệ.’”
5- Hạ thần nào có phải Cit-ta,
Song chuyện ấy thần được biết qua,
Chính một hiền nhân vừa dạy bảo:
“Đi ngâm lời hát đối dâng vua,
Rồi chàng sẽ được ngài ban thưởng,
Tay của ngài ân nghĩa đậm đà”.
2356. Yojentu ve rājarathe sukate cittasibbane, kacchaṃ nāgānaṃ bandhatha gīveyyaṃ paṭimuñcatha.
2356. “Đúng vậy, hãy cho thắng ngựa vào cỗ vương xa đã khéo được kiến tạo, có các tấm thảm may nhiều màu sắc. Các khanh hãy buộc dây đai, hãy đeo vòng trang sức ở cổ cho các con voi.
6- Các vương xa hãy thắng yên cương,
Chạm trổ tinh vi, đẹp tuyệt trần,
Đem buộc cân đai vào bảo tượng,
Điểm trang vòng cổ sáng huy hoàng.
2357. Āhaññantu bherimudiṅgasaṅkhe sīghāni yānāni ca yojayantu, ajjevahaṃ assamaṃ taṃ gamissaṃ
yattheva dakkhissaṃ isiṃ nisinnaṃ.
2357. Hãy cho vỗ lên các trống lớn, trống nhỏ, và các tù và. Và hãy thắng ngựa cho những cỗ xe tốc hành. Ngay hôm nay, trẫm sẽ đi đến khu ẩn cư ấy, ngay tại nơi mà trẫm sẽ nhìn thấy vị ẩn sĩ ngồi.”
7- Quần thần hãy đánh trống liên hoan,
Bảo thổi tù và ốc dậy vang,
Chuẩn bị vương xa nhanh bậc nhất
Bởi vì trẫm muốn sớm lên đàng
Hôm nay tìm thảo am cô tịch,
Yết kiến hiền nhân trước tọa sàng.
2358. Suladdhalābho vata me ahosi gāthā sugītā parisāya majjhe, sohaṃ isiṃ sīlavatūpapannaṃ
disvā patīto sumanohamasmi.
2358. “Quả thật, lợi ích khéo đạt được đã có cho trẫm! Câu kệ ngôn đã được ngâm nga khéo léo ở giữa hội chúng. Trẫm đây được hân hoan, sau khi nhìn thấy vị ẩn sĩ thành tựu về giới và phận sự; trẫm trở nên vui sướng.
8- Thật quý thay là Thánh khúc xưa,
Trẫm từng ca hát thật say sưa,
Trong khi dân chúng đông dồn dập,
Quần tụ chung quanh chật cả nhà;
Nay đến đây xin chào Thánh giả,
Hân hoan, hạnh phúc ngập tâm ta.
2359. Āsanaṃ udakaṃ pajjaṃ patigaṇhātu no bhavaṃ, agghe bhavantaṃ pucchāma agghaṃ kurutu no bhavaṃ.
2359. Xin bậc đạo hạnh hãy tiếp nhận chỗ ngồi, nước, dầu bôi chân của chúng tôi. Chúng tôi xin phép dâng bậc đạo hạnh các vật giá trị. Xin bậc đạo hạnh hãy thọ nhận vật giá trị của chúng tôi.
9- Tọa sàng, nước mát rửa bàn chân,
Đúng pháp là đem lễ cúng dâng,
Thực phẩm dành cho nhiều khách quý,
Xin hiền huynh nhận, trẫm ân cần.
2360. Rammañca te āvasathaṃ karontu nārīgaṇehi paricārayassu, karohi okāsamanuggahāya
ubhopimaṃ issariyaṃ karoma.
2360. Và hãy để cho bọn họ làm cho chỗ trú ngụ của ngài trở nên xinh xắn. Xin ngài hãy để cho đám phụ nữ hầu hạ. Xin ngài hãy tạo cho cơ hội, không có ngăn cản. Cả hai chúng ta hãy cai quản vương quốc này.”
10- Bảo làm cho nhộn nhịp tưng bừng,
Nơi chốn hiền huynh sẽ trú thân,
Truyền đem nữ tỳ theo phục vụ,
Ôi, ta muốn tỏ với hiền nhân
Lòng ta yêu quý ngài tha thiết,
Xin hãy cùng ta ngự trị dân.
2361. Disvā phalaṃ duccaritassa rāja atho suciṇṇassa mahāvipākaṃ, attānamevaṃ paṭisaññamissaṃ
na patthaye puttaṃ pasuṃ dhanaṃ vā.
2361. “Tâu bệ hạ, sau khi nhìn thấy kết quả của uế hạnh, rồi quả thành tựu lớn lao của việc hành thiện, tôi sẽ tự chế ngự bản thân như vậy, không cầu mong con cái, thú vật, hay tài sản.
11- Hỡi Đại vương, nhìn quả ác hành,
Thấy bao lợi lạc thiện hành sinh,
Ta mong điều ngự thân tu tập,
Con, của không lôi cuốn trí mình.
2362. Dasevimā vassadasā maccānaṃ idha jīvitaṃ, appattaññeva taṃ odhiṃ naḷo chinnova sussati.
2362. Đời sống của loài người ở thế gian này chỉ có mười giai đoạn mười năm này thôi. Khi giới hạn ấy vẫn còn chưa đạt đến, con người tựa như cây sậy đã bị đốn ngã, khô héo dần.
12- Trăm năm tròn cuộc sống người đời,
Năm tháng theo nhau kế tiếp trôi,
Khi đến hạn kỳ, người héo úa,
Tựa hồ lau sậy nát tan thôi.
2363. Tattha kā nandi kā khiḍḍā kā ratī kā dhanesanā, kimme puttehi dārehi rāja muttosmi bandhanā.
2363. Ở cuộc sống ấy, cái gì là sự vui vẻ, cái gì là sự chơi đùa, cái gì là sự khoái lạc, cái gì là sự tầm cầu tài sản? Đối với tôi, có việc gì với các con và những người vợ? Tâu bệ hạ, tôi đã thoát ra khỏi sự trói buộc.
13- Thế nghĩa gì hoan lạc, ái ân,
Nghĩa gì săn đuổi cảnh giàu sang?
Nhiều con, nghĩa lý gì? Nên biết,
Hỡi Đại vương, ta thoát buộc ràng.
2364. So ahaṃ suppajānāmi maccu me nappamajjati, antakenādhipannassa kā ratī kā dhanesanā.
2364. Tôi đây nhận biết rõ điều ấy, Tử Thần không mê hoặc được tôi. Đối với người đã bị Thần Chết chế ngự, thì cái gì là sự khoái lạc, cái gì là sự tầm cầu tài sản?
14- Ta biết, vì đây chính thật chân,
Ta không qua khỏi tử ma thần,
Nghĩa gì vàng bạc và ân ái,
Khi bạn đến thời phải mạng vong?
2365. Jāti narānaṃ adhamā janinda caṇḍālayoni dipadā kaṇiṭṭhā, sakehi kammehi supāpakakehi
caṇḍālagabbhe avasimha pubbe.
2365. Tâu vị chúa của loài người, việc sanh ra ở loài người là thấp thỏi, dòng dõi của hạng người hạ tiện là kém cỏi nhất trong số các loài hai chân. Do các nghiệp vô cùng xấu xa của bản thân, chúng ta đã sanh vào bào thai của dòng dõi hạ tiện trong thời quá khứ.
15- Giòng giống hạ đẳng bước hai chân,
Hạ liệt Chiên đà nhất thế nhân,
Khi nghiệp chín làm phần thưởng quý,
Hai ta cùng có một tiền thân:
2366. Caṇḍālāhumha avantīsu migā nerañjarampati, ukkusā nammadātīre tyajja brāhmaṇakhattiyā.
2366. Chúng ta đã là những người dòng dõi hạ tiện ở xứ Avantī, là loài nai ở cạnh sông Nerañjarā, là chim ưng ở bờ sông Nammadā, chúng ta đây, hôm nay, là Bà-la-môn và Sát-đế-lỵ.
16- Tại A-van, bạn trẻ Chiên đà,
Là cặp Nai vàng bến nước xưa,
Đôi chú chim Ưng bờ Niết bút,
Giờ đây giáo sĩ, đó làm vua.
2367. Upanīyati jīvitamappamāyu jarūpanītassa na santi tāṇā, karohi pañcāla mameta vākyaṃ
mākāsi kammāni dukhudrayāni.
2367. Mạng sống này bị dẫn đi, có tuổi thọ ít ỏi. Đối với người bị dẫn đi bởi tuổi già, các nơi trú ẩn là không có. Này Pañcāla, bệ hạ hãy làm theo lời nói này của tôi. Chớ tạo các nghiệp đưa đến khổ đau.
17- Đời người ngắn ngủi chết cùng đường,
Già cả không nơi chốn náu nương,
Này hỡi Pañcala, thực hiện,
Những gì ta khuyến nhủ quân vương:
Tránh xa tất cả hành vi ác,
Đưa đẩy vào đau khổ đoạn trường.
2368. Upanīyati jīvitamappamāyu jarūpanītassa na santi tāṇā, karohi pañcāla mametavākyaṃ
mākāsi kammāni dukkhapphalāni.
2368. Mạng sống này bị dẫn đi, có tuổi thọ ít ỏi. Đối với người bị dẫn đi bởi tuổi già, các nơi trú ẩn là không có. Này Pañcāla, bệ hạ hãy làm theo lời nói này của tôi. Chớ tạo các nghiệp có kết quả khổ đau.
18- Đời người ngắn ngủi, chết sau cùng,
Già cả không nơi chốn trú thân;
Này hỡi Pañcala, thực hiện
Những gì ta khuyến nhủ quân vương:
Tránh xa tất cả hành vi ác
Đưa đẩy vào trong hạ ngục tầng.
2369. Upanīyati jīvitamappamāyu jarūpanītassa na santi tāṇā, karohi pañcāla mametavākyaṃ
mākāsi kammāni rajassirāni.
2369. Mạng sống này bị dẫn đi, có tuổi thọ ít ỏi. Đối với người bị dẫn đi bởi tuổi già, các nơi trú ẩn là không có. Này Pañcāla, bệ hạ hãy làm theo lời nói này của tôi. Chớ tạo các nghiệp khiến đầu bị lấm bụi (ô nhiễm).
19- Nhân thế ngắn sao, chết cuối cùng,
Người già không chốn để nương thân,
Pañcala hỡi, xin thành tựu
Những việc ta khuyên nhủ Đại vương:
Xin hãy xa lìa bao vọng nghiệp,
Nhiễm ô toàn ác dục tham sân.
2370. Upanīyati jīvitamappamāyu vaṇṇaṃ jarā hanti narassa jīyato, karohi pañcāla mametavākyaṃ
mākāsi kammaṃ nirayūpapattiyā.
2370. Mạng sống này bị dẫn đi, có tuổi thọ ít ỏi. Sự già tiêu hủy sắc đẹp của người đang bị già. Này Pañcāla, bệ hạ hãy làm theo lời nói này của tôi. Chớ tạo các nghiệp đưa đến việc sanh vào địa ngục.”
20- Đời người ngắn ngủi, chết vong thân,
Bệnh, lão làm suy thế lực dần,
Ta chẳng làm sao ra thoát được;
Pañcala thực hiện lời răn:
Tránh xa tất cả hành không thiện
Đưa đẩy vào trong ngục hạ tầng.
2371. Addhā hi saccaṃ vacanaṃ tavetaṃ yathā isi bhāsasi evametaṃ, kāmā ca me santi anapparūpā
te duccajā mādisakena bhikkhu.
2371. “Quả đúng vậy, lời nói ấy của ngài là sự thật, giống như vị ẩn sĩ đã nói điều ấy như vậy. Thưa vị tỳ khưu, các dục của trẫm có vẻ không ít, chúng là khó dứt bỏ bởi người như trẫm.
21- Lời kia, Tôn giả, quá toàn chân,
Ngài dạy lời như bậc Thánh nhân,
Song dục tham ta đều khó bỏ,
Với người như trẫm, chúng vô cùng.
2372. Nāgo yathā paṅkamajjhe byasanno passaṃ thalaṃ nābhisambhoti gantuṃ, evaṃpahaṃ kāmapaṅke byasanno na bhikkhuno maggamanubbajāmi.
2372. Giống như con voi bị lún xuống ở giữa bãi lầy, trong khi nhìn thấy đất bằng nhưng không có khả năng để đi đến; cũng tương tự như vậy, trẫm bị lún xuống ở bãi lầy dục vọng, không đi theo con đường của vị tỳ khưu được.
22- Như voi chìm xuống vũng bùn nhơ,
Không thể bò lên, dẫu thấy bờ,
Trẫm cũng lún sâu bùn dục lạc,
Nên không theo nổi Đạo Thầy tu!
2373. Yathāpi mātā ca pitā ca puttaṃ anusāsare kinti sukhībhaveyya, evampi maṃ tvaṃ anusāsa bhante
yamācaraṃ pecca sukhībhaveyyaṃ.
2373. Cũng giống như người mẹ và người cha chỉ dạy đứa con trai sao cho nó có thể có sự an lạc, thưa ngài, cũng tương tự như vậy, xin ngài hãy chỉ dạy trẫm cách thực hành nào để sau khi chết, trẫm có thể có sự an lạc.”
23- Như mẹ như cha dạy bảo con,
Thành người sống hạnh phúc, hiền lương,
Dạy ta hạnh phúc làm sao đạt,
Xin chỉ cho ta bước đúng đường.
2374. No ce tuvaṃ ussahase janinda kāme ime mānusake pahātuṃ, dhammaṃ baliṃ paṭṭhapayassu rāja
adhammakāro ca te māhu raṭṭhe.
2374. “Tâu vị chúa của loài người, nếu bệ hạ không thể nỗ lực để dứt bỏ các dục này thuộc về loài người, tâu bệ hạ, bệ hạ hãy thiết lập luật pháp có đủ sức mạnh, và chớ để lối hành xử bất công xảy ra ở xứ sở của bệ hạ.24- Ngài không thể bỏ, hỡi Quân vương,
Các dục tham đây cũng thế thường:
Vậy chớ bắt dân nhiều thuế nặng,
Trị sao dân chúng thấy công bằng
2375. Dūtā vidhāvantu disā catasso nimantakā samaṇabrāhmaṇānaṃ, te annapānena upaṭṭhahassu
vatthena senāsanapaccayena ca.
2375. Hãy cho các sứ giả đi khắp bốn phương thỉnh mời các vị Sa-môn và Bà-la-môn. Bệ hạ hãy hộ độ các vị ấy với cơm ăn và nước uống, với y phục và vật dụng nằm ngồi.
25- Gửi sứ thần đi khắp bốn phương,
Mời người khổ hạnh, Bà la môn,
Cúng dường thực phẩm, nhà an nghỉ,
Xiêm áo và luôn mọi thứ cần.
2376. Annena pānena pasannacitto santappaya samaṇabrāhmaṇe ca, datvā ca bhutvā ca yathānubhāvaṃ nindito saggamupehi ṭhānaṃ.
2376. Với tâm tịnh tín, bệ hạ hãy làm hài lòng các vị Sa-môn và Bà-la-môn với cơm ăn và nước uống. Sau khi bố thí và hưởng thụ tùy theo khả năng, là người không bị chê trách, bệ hạ sẽ đạt đến vị thế cõi trời.
26- Đem thức ăn uống để đãi đằng
Bà la môn, Thánh giả, Hiền nhân,
Tâm đầy thành tín, ai ban phát,
Và trị dân tài đức hết lòng,
Người ấy sẽ đi lên thượng giới,
Lỗi lầm không có, lúc vong thân.
2377. Sace ca taṃ rāja mado saheyya
nārīgaṇehi paricārayantaṃ,
imameva gāthaṃ manasīkarohi
bhāsesi ce naṃ parisāya majjhe.
2377. Tâu bệ hạ, nếu sự mê đắm khống chế bệ hạ trong khi bệ hạ đang tiêu khiển với đám phụ nữ, bệ hạ hãy chú tâm vào chính câu kệ ngôn này và hãy cho giảng giải nó ở giữa hội chúng.
27- Song nếu vây quanh bởi má hồng,
Dục tham, ngài thấy, quá say nồng,
Trong tâm hãy nhớ vần thi kệ,
Và hát hò lên giữa đám đông.
2378. Abbhokāsasayo jantu vajantyā khīrapāyito,
parikiṇṇo supānehi svājja rājāti vuccatīti.
2378. Con người (trước đây) có chỗ nằm ngủ ở ngoài trời, được mẹ cho bú sữa trong lúc mẹ đang phải di chuyển, bị bỏ rơi lăn lóc với những con chó, người ấy hôm nay được gọi là ‘đức vua.’”
28- “Dưới trời không mái để che thân,
Bầy chó xưa cùng nó ngủ lăn,
Mẹ nó cho ăn lúc bước vội,
Mà nay làm một vị vương quân.
Câu chuyện 498
Cittasambhūtajātakaṃ.
***
Bổn Sanh Citta và Sambhūta. [498]
***
▪ 3. SIVIJĀTAKAṂ
▪ 3. BỔN SANH ĐỨC VUA SIVI
499. Chuyện Đại Vương Sivi
(Tiền thân Sivi)
2379. Dūre apassaṃ therova cakkhuṃ yācitumāgato, ekanettā bhavissāma cakkhuṃ me dehi yācito.
2379. Chính lão già, trong lúc (bị mù) không nhìn thấy, từ nơi xa xôi đã đi đến để cầu xin con mắt (nói rằng): “Chúng ta sẽ có (mỗi người) một con mắt. Được yêu cầu, xin bệ hạ hãy bố thí con mắt đến tôi.”
1- Chẳng có mắt, nên chính lão già,
Ðến xin con mắt, tự phương xa,
Lão cầu Chúa thượng ban con mắt
Một mắt cùng nhau mỗi chúng ta.
2380. Kenānusiṭṭho idhamāgatosi vaṇibbaka cakkhupathāni yācituṃ, suduccajaṃ yācasi uttamaṅgaṃ
yamāhu nettaṃ purisena duccajaṃ.
2380. “Này lão ăn mày, được ai chỉ bảo mà lão đã đi đến nơi này để cầu xin thị giác. Lão cầu xin phần cơ thể quý giá nhất, là vật khó dứt bỏ vô cùng. Người ta đã nói con mắt là vật khó dứt bỏ bởi con người.”
2- Ai đã dạy ông bước đến đây,
Ðể xin một mắt , lão ăn mày?
Ðây phần thân thể người cao trọng,
Chúng bảo xa lìa khó lắm thay!
2381. Yamāhu devesu sujampatīti maghavāti taṃ āhu manussaloke, tenānusiṭṭho idhamāgatosmi
vaṇibbako cakkhupathāni yācituṃ.
2381. “Người đã nói điều ấy là ‘Chồng của nàng Sujā’ ở cõi Trời. Người ở trần gian đã gọi vị ấy là ‘Maghavā.’ Được vị ấy chỉ bảo nên lão ăn mày tôi đã đi đến nơi này để cầu xin thị giác.
3- Su-ja Phu tướng, chính nơi đây,
Người gọi Ma-gha cũng hiệu này,
Ngài dạy lão về đây yết kiến,
Van nài cho được một mắt ngay.
2382. Vaṇibbato mayhaṃ vaṇiṃ anuttaraṃ dadāhi me cakkhupathāni yācito, dadāhi me cakkhupathaṃ anuttaraṃ yamāhu nettaṃ purisena duccajaṃ.
2382. Trong khi lão đang van nài điều cầu xin tột đỉnh, xin bệ hạ hãy bố thí thị giác đến lão; được cầu xin, xin bệ hạ hãy bố thí thị giác cao quý đến lão; người ta đã nói con mắt là vật khó dứt bỏ bởi con người.”
4- Thí tài tối trọng đại, mong cầu
Chúa thượng ban già một bảo châu,
Xin chớ chối từ già một mắt,
Thí tài tối trọng, đứng hàng đầu,
Như lời thế tục thường hay nói:
“Thật khó cho người dứt bỏ sao!”
2383. Yena atthena āgañji yamatthamabhipatthayaṃ, te te ijjhantu saṅkappā labha cakkhūni brāhmaṇa.
2383. “Trong khi mong mỏi mục đích gì thì người ta đã đi đến vì mục đích ấy. Hãy để cho các ý định ấy của lão được thành tựu. Này Bà-la-môn, lão hãy nhận lấy hai con mắt.
5- Ước nguyện làm ông đến tận đây
Trong lòng ông khởi ước như vầy,
Cầu mong nguyện ước kia thành tựu,
Ðạo sĩ, cầm đôi mắt trẫm này!
2384. Ekaṃ te yācamānassa ubhayāni dadāmahaṃ sacakkhumā gaccha janassa pekkhato, yadicchase tvaṃ taṃ te samijjhatu.
2384. Trong khi lão cầu xin một, trẫm cho lão cả hai. Có mắt rồi, lão hãy đi cho dân chúng chiêm ngưỡng. Điều nào mà lão mong muốn, mong rằng điều ấy hãy được thành tựu trọn vẹn cho lão”
6- Ông chỉ xin ta một mắt thôi,
Nhìn xem! Ta bố thí tròn đôi!
Hãy đi với nhãn quang hoàn hảo
Trước mắt nhìn theo của mọi người,
Vậy ước nguyện ông mong thực hiện
Giờ đây hẳn đã đạt thành rồi!
2385. Mā no deva adā cakkhuṃ mā no sabbe parākari, dhanaṃ dehi mahārāja puttā veḷuriyā bahū.
2385. “Tâu bệ hạ, bệ hạ chớ bố thí con mắt cho chúng thần, chớ dứt bỏ tất cả cho chúng thần. Tâu đại vương, đại vương hãy bố thí tài sản, con cái, và nhiều ngọc bích.
7- Xin đừng cho mắt, tấu Minh quân!
Chúa thượng ôi, đừng bỏ chúng thần!
Bố thí san hồ, tiền, bảo ngọc,
Và nhiều vật khác quý vô ngần.
2386. Yutte deva rathe dehi ājānīye calaṅkate, nāge dehi mahārāja hemakappanavāsase.
2386. Tâu bệ hạ, bệ hạ hãy bố thí các cỗ xe đã được thắng ngựa thuần chủng và đã được trang hoàng. Tâu đại vương, đại vương hãy bố thí những con voi được nai nịt và phục sức bằng vàng.
8- Cho bầy tuấn mã đủ yên cương,
Bảo kéo đoàn xa giá xuống đường,
Chúa thượng truyền xua đoàn bảo tượng
Cân đai tuyệt mỹ rặt toàn vàng.
2387. Yathā taṃ sivayo sabbe sayoggā sarathā sadā, samantā parikireyyuṃ evaṃ dehi rathesabha.
2387. Tâu đấng thủ lãnh xa binh, giống như tất cả dân chúng xứ Sivi cùng với các cỗ xe kéo, và các cỗ xe ngựa luôn luôn hộ tống xung quanh bệ hạ, bệ hạ hãy bố thí (tài sản và các vật ngoại thân) như thế ấy.”
9- Các vật này xin Chúa thượng ban,
Chúng thần mong hộ chúa bình an,
Toàn dân trung tín cùng xa pháp,
Tề tựu quanh vương vị xếp hàng.
2388. Yo ve dassanti vatvāna adāne kurute mano, bhumyā so patitaṃ pāsaṃ gīvāya paṭimuñcati.
2388. “Thật vậy, người nào sau khi nói rằng: ‘Tôi sẽ bố thí,’ rồi có ý định không bố thí nữa, người ấy tự máng vào cổ cái bẫy đã được cài đặt ở mặt đất.
10- Tâm kẻ muốn ban bố, phát nguyền,
Về sau lại thấy chẳng trung kiên,
Cổ mình tự đặt vào thòng lọng
Che dấu nằm sâu dưới đất liền.
2389. Yo ve dassanti vatvāna adāne kurute mano, pāpā pāpataro hoti sampatto yamasādhanaṃ.
2389. Thật vậy, người nào sau khi nói rằng: ‘Tôi sẽ bố thí,’ rồi có ý định không bố thí nữa, người ấy còn xấu xa hơn cả kẻ xấu xa, bị đọa vào chốn đọa đày của Diêm Vương.
11- Tâm nào đã thệ nguyện thi ân,
Sau lại thấy lòng chẳng thuỷ chung,
Thật lỗi lầm hơn là tội ác,
Phải đày đọa ngục Dạ ma cung.
2390. Yaṃ hi yāce taṃ hi dade yaṃ na yāce na taṃ dade, svāhaṃ tameva dassāmi yaṃ maṃ yācati brāhmaṇo.
2390. Nên bố thí vật mà người ta cầu xin. không nên bố thí vật mà người ta không cầu xin. Trẫm đây sẽ bố thí vật mà người Bà-la-môn cầu xin trẫm.”
12- Ðừng cho gì nếu chẳng ai xin,
Cũng chớ cho ai thứ chẳng thèm,
Vậy vật này đây hành khất muốn
Cầu xin, trẫm bố thí ngay liền.
2391. Āyuṃ nu vaṇṇaṃ nu sukhaṃ balaṃ nu kiṃ patthayāno nu janinda desi, kathaṃ hi rājā sivinaṃ anuttaro cakkhūni dajjā paralokahetu.
2391. “Tâu vị chúa của loài người, trong khi ước nguyện điều gì mà bệ hạ bố thí? Có phải là tuổi thọ, sắc đẹp, hạnh phúc, hay sức mạnh? Tại sao đức vua vô thượng của xứ Sivi lại bố thí hai con mắt vì nguyên nhân là thế giới (tái sanh) khác?”
13- Thọ mạng, sắc, quyền lực, lạc hoan,
Ðâu là phần thưởng, tấu Minh quân?
Lực nào thúc dục Ngài hành động,
Chúa thượng Sivi của quốc dân,
Sao lợi gì cho đời kế vậy,
Ngài đành bỏ cặp mắt mình vàng?
2392. Nacāhametaṃ yasasā dadāmi na puttamicche na dhanaṃ na raṭṭhaṃ, satañca dhammo carito purāṇo icceva dāne ramate mano mamaṃ.
2392. “Ta bố thí vật ấy không vì danh tiếng, không vì ước muốn con trai, không vì tài sản, không vì vương quốc. Đây là pháp đã được thực hành thời xa xưa của các bậc thiện nhân, chính vì như thế mà tâm ý của trẫm vui thích trong việc bố thí.”
14- Như vậy, trong khi muốn cúng dường,
Ðích ta chẳng nhắm đạt vinh quang,
Nhiều con, nhiều của, nhiều vương quốc,
Ðể nắm quyền cai trị thế gian.
Ðây chính là con đường Thánh thiện,
Từ xưa của các bậc Hiền nhân;
Tâm ta nồng nhiệt hằng mong ước
Ðem mọi thí tài để phát ban.
2393. Na me dessā ubho cakkhū attānaṃ me na dessiyaṃ, sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā cakkhuṃ adāsahaṃ.
2393. “Hai con mắt không có bị ta ghét bỏ, bản thân không có bị ta ghét bỏ; đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý, vì thế ta đã bố thí con mắt.
2394. Sakhā ca mitto ca mamāsi sīvaka susikkhito sādhu karohi me vaco, uddhatva cakkhūni mamaṃ jigiṃsato hatthesu āvesi vaṇibbakassa.
2394. Này Sīvaka, khanh là người cộng sự và là bạn bè của trẫm. Là người đã được học tập rành rẽ, khanh hãy thực hiện tốt đẹp lời nói của trẫm. Trẫm mong muốn khanh hãy móc ra hai con mắt của trẫm rồi đặt vào ở hai bàn tay của lão ăn mày.”
15- Bạn hiền, chí thiết, Sivaka,
Xin hãy làm theo lệnh của ta,
Bạn có đầy tài năng kỹ xảo,
Xin đem liền cặp mắt ta ra,
Vì đây là chính điều tâm nguyện,
Và tặng vào tay khất sĩ già.
2395. Codito sivirājena sīvako vacanaṃkaro, rañño cakkhūni uddhatvā brāhmaṇassūpanāmayi,
sacakkhu brāhmaṇo āsi andho rājā upāvisi.
2395. “Được khuyến khích bởi đức vua Sivi, Sīvaka, người thực hiện lời nói, đã móc ra hai con mắt của đức vua rồi trao cho vị Bà-la-môn. Vị Bà-la-môn đã trở nên có mắt sáng, còn đức vua đã rơi vào cảnh mù lòa.”
16- Si vi chúa tể giục Si va
Hoàn tất tâm nguyện của đức vua,
Trao tặng Bà la môn tài thí vật,
Y sư lấy cặp mắt ngài ra,
Bà la môn có liền đôi mắt,
Chúa thượng giờ đây phải tối lòa.
2396. Tato so katipāhassa uparūḷhesu cakkhusu, sūtaṃ āmantayī rājā sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhano.
2396. Sau đó vài ngày, khi hai con mắt đã được phục hồi, vị vua ấy, bậc làm hưng thịnh vương quốc Sivi, đã bảo người đánh xe rằng:
17- Vài ngày qua cặp mắt vừa lành,
Bình phục dần nên lại hiện hình,
Ðại đế Sivi nuôi quốc độ
Triệu quan điều ngự của riêng mình;
2397. Yojehi sārathi yānaṃ yuttañca paṭivedaya, uyyānabhūmiṃ gacchāma pokkharañño vanāni ca.
2397. “Này xa phu, khanh hãy thắng ngựa vào cỗ xe, và hãy thông báo khi đã làm xong. Chúng ta sẽ đi đến khu vườn giải trí, hồ sen, và các khu rừng.”
18- “Ngự quan, chuẩn bị chiếc vương xa,
Rồi đến đây trình báo với ta,
Ta muốn vào khu rừng, thượng uyển,
Ðầy hồ sen súng mọc chen hoa”.
2398. So ca pokkharaṇiyā tīre pallaṅkena upāvisi, tassa sakko pāturahu devarājā sujampati.
2398. Và đức vua đã đi đến bờ hồ bằng chiếc kiệu khiêng. Đấng Thiên Vương Sakka, chồng của nàng Sujā, đã hiện ra trước đức vua.
19- Quan đặt vua vào chiếc kiệu hoa,
Và đây, dừng kiệu ở bên bờ,
Su-ja Phu tướng, ngài Thiên chủ,
Xuất hiện, chính là Ðại Sakka.
2399. Sakkohamasmi devindo āgatosmi tavantike, varaṃ varassu rājīsi yaṃ kiñci manasicchasi.
2399. “Ta là Sakka, chúa tể của chư Thiên, đã đi đến bên cạnh bệ hạ. Tâu vị ẩn sĩ vương, xin bệ hạ hãy chọn một ân huệ về bất cứ điều gì bệ hạ mong muốn ở trong tâm.”
20- Chính ta là Thượng đế Sakka,
Ta đến đây tham kiến nhà vua,
Hãy chọn hồng ân, này Thánh chúa,
Điều gì ngài ước, nói cùng ta.
2400. Pahūtaṃ me dhanaṃ sakka balaṃ koso canappako, andhassa me satodāni maraṇaññeva ruccati.
2400. “Thưa Sakka, tài sản của trẫm có nhiều, sức mạnh và kho báu không phải là ít. Giờ đây, đối với trẫm, trong khi bị mù lòa, chỉ có cái chết là được ưa thích.”
21-Sinh lực, kho vô tận, bảo châu,
Ta đều bỏ lại hết đằng sau,
Thiên hoàng, ta chẳng mong gì nữa
Trừ chết, vì ta có mắt đâu!
2401. Yāni saccāni dipadinda tāni bhāsassu khattiya, saccante bhaṇamānassa puna cakkhuṃ bhavissati.
2401. “Tâu chúa tể của loài người, những gì là sự thật, tâu vị Sát-đế-lỵ, xin bệ hạ hãy nói ra những điều ấy. Trong khi bệ hạ nói ra sự thật, con mắt sẽ có trở lại cho bệ hạ.”
22- Chúa tể của loài lưỡng túc nhân,
Hãy nguyền nói đúng lẽ toàn chân,
Nếu ngài tuyên bố lời chân thật,
Ðôi mắt ngài nay sẽ phục hoàn.
2402. Ye maṃ yācitumāyanti nānāgottā vaṇibbakā, yopi maṃ yācate tattha sopi me manaso piyo, etena saccavajjena cakkhumme upapajjatha.
2402. “Những người đi đến cầu xin trẫm là những kẻ ăn mày có dòng họ khác nhau. Kẻ nào cầu xin trẫm ở tại nơi ấy, trẫm đều có tâm yêu quý đối với kẻ ấy. Do lời nói chân thật này, mong rằng con mắt hãy sanh lên cho trẫm.23- Loài nào bất kể, muốn cầu ân,
Hễ có ai nài nỉ lại gần,
Ai đến bất kỳ, xin bố thí,
Lòng ta cũng thấy thật thương thân:
Nếu lời Ðại nguyện này chân thật,
Cầu mắt ta nay sẽ hiện dần.
2403. Yaṃ maṃ so yācituṃ āga dehi cakkhunti brāhmaṇo, tassa cakkhūni pādāsiṃ brāhmaṇassa vaṇibbino.
2403. Về việc lão Bà-la-môn ấy đã đi đến cầu xin trẫm rằng: ‘Xin bệ hạ hãy bố thí con mắt,’ trẫm đã ban cho lão Bà-la-môn ăn mày ấy hai con mắt.
24-Một đạo sĩ kia đến viếng ta,
Chỉ cần xin một mắt thôi mà,
Ta đà đem trọn đôi con mắt,
Bố thí La môn khất sĩ già.
2404. Bhiyyo maṃ āvisi pīti somanassañcanappakaṃ, etena saccavajjena dutiyamme upapajjatha.
2404. Sự hoan hỷ đã khởi lên ở trẫm nhiều hơn nữa, sự vui mừng đã sanh lên không phải là ít. Do lời nói chân thật này, mong rằng con mắt thứ hai hãy sanh lên cho trẫm.”
25- Hoan hỉ càng nhiều, lạc thọ tăng,
Chính hành động ấy đã ban phần,
Nếu lời Nguyện ước này Chân thật,
Mong được mắt kia cũng phục hoàn.
2405. Dhammena bhāsitā gāthā sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhana, etāni tava nettāni dibbāni paṭidissare.
2405. “Thưa bậc làm hưng thịnh vương quốc Sivi, các kệ ngôn đã được nói đúng với bản thể. Cặp mắt thuộc cõi Trời này được hiện ra cho bệ hạ.
26- Ðại đế Sivi bảo dưỡng dân!
Bài ca thánh thiện của Minh quân
Cho ngài được hưởng phần ân huệ
Vô giá này, đây cặp mắt thần.
2406. Tiro kuḍḍaṃ tiro selaṃ samatiggayha pabbataṃ, samantā yojanasataṃ dassanaṃ anubhontu te.
2406. Mong rằng bệ hạ đạt được việc nhìn thấy xuyên qua bức tường, xuyên qua tảng đá, băng qua núi non, và một trăm do-tuần ở xung quanh.”
27- Xuyên qua tường, núi, đá, đồng bằng,
Bất cứ vật gì đứng cản ngăn,
Ðôi mắt ngài đây đều thấy suốt
Khoảng chừng trăm dặm ở mười phương.
2407. Konīdha vittaṃ na dadeyya yācito api visiṭṭhaṃ supiyampi attano, tadiṅgha sabbe sivayo samāgatā
dibbāni nettāni mamajja passatha.
2407. “Người nào ở thế gian này, khi không được cầu xin, mà có thể bố thí của cải, thậm chí là vật tuyệt vời nhất, thậm chí là vật vô cùng yêu quý đối với bản thân? Nào, tất cả dân chúng xứ Sivi đã tụ tập lại, các người hãy nhìn xem cặp mắt thuộc cõi Trời của trẫm.
28. Nếu mình được gợi ý thi ân,
Nào ai có từ chối được chăng,
Dù đó là phần cao quý nhất,
Của mình, bảo vật giá vô ngần.
29- Dân chúng Sivi hội họp đoàn,
Ðến đây, nhìn cặp mắt trời ban!
2408. Tiro kuḍḍaṃ tiro selaṃ samatiggayha pabbataṃ, samantā yojanasataṃ dassanaṃ anubhonti me.
2408. Trẫm đạt được việc nhìn thấy xuyên qua bức tường, xuyên qua tảng đá, băng qua núi non, và một trăm do-tuần ở xung quanh.
Xuyên qua tường đá , đồi, thung lũng
Bất cứ vật gì đứng cản ngăn
Ðôi mắt ta đều trông thấy suốt
Một trăm dặm trải khắp mười phương
2409. Na cāgamattā paramatthi kiñci maccānaṃ idha jīvite, datvā mānusakaṃ cakkhuṃ laddhaṃ me cakkhuṃ amānusaṃ.
2409. Không có bất cứ việc gì cao hơn sự việc xả thí ở nơi này, ở cuộc sống của con người. Sau khi bố thí con mắt thuộc nhân loại, trẫm nhận được con mắt thuộc cõi Trời.
30- Từ bỏ thân mình giữa thế nhân
Là điều cao quý nhất trên trần,
Ta đem bố thí mắt phàm tục,
Nên được trời cho cặp mắt thần.
2410. Etampi disvā sivayo detha dānāni bhuñjatha datvā ca bhutvā ca yathānubhāvaṃ aninditā saggamupetha ṭhānanti.
2410. Này các người dân xứ Sivi, sau khi nhìn thấy việc này, các người hãy bố thí các vật thí, các ngươi hãy thụ hưởng. Sau khi bố thí và thụ hưởng tùy theo khả năng, là những người không bị chê trách, các người sẽ đạt đến vị thế cõi Trời.”
31- Dân chúng này xem, hãy phát ban,
Nhường phần cho kẻ khác khi ăn,
Nếu làm việc ấy đầy tâm thiện,
Người sẽ sinh thiên chẳng lỗi lầm.
Câu chuyện 499
Sivijātakaṃ.
***
Bổn Sanh Đức Vua Sivi. [499]
***
▪ 4. SIRIMANDAJĀTAKAṂ
▪ 4. BỔN SANH SIRIMANDA
500. Chuyện Thần Nữ Cát Tường
(Tiền thân Sirimanda)
2411. Paññāyupetaṃ siriyā vihīnaṃ yasassinañvāpi apetapaññaṃ, pucchāmi taṃ senaka etamatthaṃ
kamettha seyyo kusalā vadanti.
2411. “Người có trí tuệ nhưng thiếu về uy quyền, hay là người có danh vọng mà không có trí tuệ, này Senaka, trẫm hỏi ngài về sự việc này, các bậc thiện xảo nói người nào trong hai người này là tốt hơn?”
17. Có trí khôn nhưng thiếu bạc vàng,
Hoặc giàu tiền lại kém khôn ngoan,
Se-na-ka, trẫm hỏi khanh nhé:
Bậc trí gọi ai tốt đẹp hơn?
2412. Dhīrā ca bālā ca have janinda sippūpapannā ca asippino ca, sujātimantopi ajātimassa
yasassino pessakarā bhavanti, etampi disvāna ahaṃ vadāmi pañño nihīno sirimāva seyyo.
2412. “Tâu vị chúa của loài người, thật vậy, những bậc trí và những kẻ ngu, những người có kiến thức và không có kiến thức, dầu cho có dòng dõi cao quý, cũng trở thành những người làm công việc phục vụ cho kẻ không có dòng dõi cao quý nhưng có danh vọng. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: người có trí tuệ thấp kém nhưng có uy quyền là tốt hơn.”
18. Quả thật, kẻ ngu hoặc trí nhân,
Vô văn phàm tục, hoặc đa văn,
Đều hầu hạ những người giàu có,
Dù họ cao sang hoặc hạ tầng,
Nhìn thấy điều này, thần mới nói:
Trí nhân thua kém kẻ giàu sang.
2413. Tavampi pucchāmi anomapañña mahosadha kevaladhammadassi, bālaṃ yasassiṃ paṇḍitaṃ appabhogaṃ kamettha seyyo kusalā vadanti.
2413. “Trẫm cũng hỏi luôn cả khanh nữa, này Mahosadha, vị có trí tuệ tuyệt đỉnh, có sự nhìn thấy tất cả các pháp, các bậc thiện xảo nói người nào trong hai người này là tốt hơn?”
19. Ta cũng hỏi con, Đại trí nhân,
Bậc tinh thông vạn pháp trên trần:
Kẻ ngu lắm của, người khôn khó,
Bậc trí gọi ai tốt bội phần?
2414. Pāpāni kammāni karoti bālo idameva seyyo iti maññamāno, idhalokadassī paralokaṃ adassī
ubhayattha bālo kalimaggahesi, etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova seyyo na yasassi bālo.
2414. “Kẻ ngu làm các hành động xấu xa nghĩ rằng: ‘Chính cái này (uy quyền) là tốt hơn.’ Có sự nhìn thấy đời này, không nhìn thấy đời sau, kẻ ngu gánh lấy tai họa trong cả hai đời. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”
20. Người ngu phạm tội, nghĩ suy rằng:
“Trên cõi đời, ta thắng thế hơn”,
Họ thấy đời này, không cõi kế,
Nên mang tai họa cả hai đường.
Điều này con thấy, nên con nói:
Bậc trí hơn xa trọc phú đần.
2415. Na sippametaṃ vidadhāti bhogaṃ na bandhavā na sarīrāvakāso, passeḷamūgaṃ sukhamedhamānaṃ sirihīnaṃ bhajate gorimandaṃ, etampi disvāna ahaṃ vadāmi pañño nihīno sirimāva seyyo.
2415. “Không phải kiến thức này đem lại của cải, không phải các thân quyến, không phải ưu thế về cơ thể (đem lại của cải). Bệ hạ hãy nhìn xem gã Gorimanda ngu dốt đang tràn trề hạnh phúc, bởi vì uy quyền thân cận với gã. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thì bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”
21. Kiến thức không đem lại bạc vàng,
Cũng không gia thế hoặc dung nhan,
Hãy nhìn ngốc tử Go-ri ấy,
Đang hưởng vinh hoa, đại phú cường,
Vì Đại vận chìu người hạ tiện.
Điều này thần thấy, mới thưa rằng:
Bậc hiền trí chịu phần hèn mọn,
Còn kẻ giàu tiền thắng thế hơn.
2416. Laddhā sukhaṃ majjati appapañño dukkhena phuṭṭhopi pamohameti āgantunā sukhadukkhena phuṭṭho, pavedhati vāricarova ghamme etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova seyyo na yasassi bālo.
2416. Sau khi đạt được hạnh phúc, kẻ thiểu trí bị say mê. Còn người bị tác động bởi khổ đau, cũng đi đến sự mê muội. Bị tác động bởi hạnh phúc hay khổ đau xảy đến, con người run rẩy tựa như loài thủy tộc giãy giụa ở nơi nóng bức. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”
22. Một người tiểu trí hóa mê man.
Bị nhiễm độc khi hưởng bạc vàng:
Nếu gặp tai ương, thành ngớ ngẩn,
Rủi may số phận đến không lường,
Nó vùng như cá phơi ngoài nắng,
Khi thấy điều trên, trẻ nói rằng:
Người trí hơn xa người có của,
Giàu tiền nhưng trí óc ngu đần.
2417. Dumaṃ yathā sāduphalaṃ araññe samantato sabbhi caranti pakkhī evampi aḍḍhaṃ sadhanaṃ sabhogaṃ, bahujjano bhajati atthahetu etampi disvāna ahaṃ vadāmi pañño nihīno sirimāva seyyo.
2417. “Giống như cây có trái ngọt ở trong rừng, các con chim lai vãng ở xung quanh, cũng tương tự như thế, số đông người thân cận với kẻ giàu sang, có tài sản, có của cải, vì nguyên nhân lợi lộc. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thì bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”
23. Trong rừng, chim chóc tự mười phương,
Tụ tập trên cây có trái ngon,
Cũng vậy, người nhiều tiền lắm của,
Đám đông hám lợi đến quây quần.
Thấy vầy, thần nói: người hiền trí,
Hèn kém, kẻ giàu thắng thế hơn.
2418. Na sādhu balavā bālo sāhasaṃ vindate dhanaṃ kandantameva dummedhaṃ kaḍḍhanti niraye bhusaṃ, etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova seyyo na yasassi bālo.
2418. “Chẳng tốt lành gì việc kẻ ngu có quyền thế tìm kiếm tài sản bằng bạo lực. Các viên quan canh giữ địa ngục kéo lôi kẻ ngu muội còn đang than khóc vào địa ngục vô số kể. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”
24. Kẻ ngu quyền thế chẳng hiền lương,
Dùng bạo lực khi chiếm bạc vàng,
Nó rống thật to tùy ý thích,
Quỷ nhân kéo nó xuống âm cung!
Thấy điều này, tiểu nhi xin nói:
Bậc trí hơn xa trọc phú đần.
2419. Yā kāci najjo gaṅgamabhissavanti sabbāva tā nāmagottaṃ jahanti gaṅgā samuddaṃ paṭipajjamānā na khāyate iddhiparo hi loke, etampi disvāna ahaṃ vadāmi pañño nihīno sirimāva seyyo.
2419. “Mọi dòng sông đều chảy vào sông Gaṅgā; tất cả các dòng sông ấy đều từ bỏ danh xưng và gốc gác. Trong khi đạt đến biển cả, sông Gaṅgā không còn được biết đến; bởi vì kẻ khác có quyền lực hiện diện ở trên đời, (người trí không còn được biết đến). Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thì bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”
25. Mọi dòng nước đổ xuống sông Hằng,
Đều mất tánh danh với giống dòng,
Đổ xuống biển, sông Hằng cũng sẽ,
Không còn phân biệt được thành phần.
Vậy đời phục vụ người giàu của;
Nhìn thấy điều trên, thần nói rằng:
Người có trí chịu phần thấp kém,
Còn người giàu của chiếm phần hơn.
2420. Yametamakkhā udadhiṃ mahantaṃ savanti najjo sabbakālaṃ asaṅkhaṃ, so sāgaro niccamuḷāravego velaṃ na acceti mahāsamuddo.
2420. “Biển cả to lớn mà vị Senaka đã nói đến có các dòng sông luôn chảy vào không kể xiết, biển cả ấy, là đại dương, thường xuyên có lực đẩy khủng khiếp, nhưng không tràn qua bờ.
26-27. Biển cả, người kia nói, lệ thường,
Muôn sông đổ xuống, đập không ngừng,
Vào bờ, nhưng chẳng bao giờ vượt,
Bờ nọ, dù hùng vĩ đại dương.
2421. Evampi bālassa pajappitāni paññaṃ na acceti sirī kadāci, etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova seyyo na yasassi bālo.
2421. Cũng tương tự như vậy, những lời nói làm nhảm của kẻ ngu (không qua mặt được người trí); uy quyền không bao giờ vượt hơn trí tuệ. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.
”Cũng vậy, lời người ngu nhảm nhí,
Phồn vinh không thể vượt hiền nhân,
Thấy điều này, tiểu nhi xin nói:
Người trí hơn xa trọc phú đần.
2422. Asaññato cepi paresamatthaṃ bhaṇāti santhānagatā yasassī, tasseva taṃ rūhati ñātimajjhe sirihīnaṃ tārayate na paññā, etampi disvāna ahaṃ vadāmi pañño nihīno sirimāva seyyo.
2422. “Nếu kẻ có danh vọng, đã đạt được địa vị, dẫu cho không có giới hạnh, trình bày sự việc cho những người khác, lời nói của chính kẻ ấy có giá trị ở giữa các thân quyến; chính uy quyền giúp cho gã ấy vượt lên, không phải trí tuệ. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thì bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”
28. Người giàu ở địa vị cao sang,
Có thể thiếu phòng hộ bản thân,
Nhưng nếu nói gì cùng kẻ khác,
Lời kia giá trị giữa nhân quần.
Trí khôn không thể gây uy tín,
Cho kẻ nào không có bạc vàng.
Thấy vầy thần nói: người hiền trí,
Thấp kém, người giàu thắng thế hơn.
2423. Parassa vā attano vāpi hetu bālo musā bhāsati appapañño, so nindito hoti sabhāya majjhe
peccāpi so duggatigāmi hoti, etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova seyyo na yasassi bālo.
2423. “Dẫu cho vì nguyên nhân của người khác hay của bản thân, kẻ ngu, kém trí tuệ, nói lời dối trá, kẻ ấy bị chê bai ở giữa hội chúng. Thậm chí sau khi chết, kẻ ấy còn bị đi đến chốn khổ đau. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”
29. Vì kẻ khác hay chính bản thân,
Kẻ ngu thường chẳng nói chân ngôn,
Chịu ô nhục giữa nơi quần chúng,
Đời kế nó rơi cảnh khổ buồn.
Vì thấy điều này, con trẻ nói:
Trí nhân hơn trọc phú ngu đần.
2424. Atthampi ce bhāsati bhūripañño anāḷhiyo appadhano daḷiddo, na tassa taṃ rūhati ñātimajjhe
sirī ca paññāṇavato na hoti, etampi disvāna ahaṃ vadāmi pañño nihīno sirimāva seyyo.
2424. “Nếu người có trí tuệ uyên bác, không dư dả, có ít tài sản, nghèo khó, trình bày sự việc, lời nói của người ấy không có giá trị ở giữa các thân quyến; và uy quyền không thuộc về người có trí tuệ. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thì bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”
30. Cho dù người Đại trí khôn ngoan,
Thiếu gạo thóc, lâm cảnh khốn nàn,
Nếu có nói điều gì phải trái,
Cũng không giá trị giữa thân nhân,
Phồn vinh không đến nhờ tri kiến.
Nhìn thấy điều trên, thần nói rằng:
Người trí phải chịu phần thấp kém,
Còn người giàu của thắng phần hơn.
2425. Parassa vā attano vāpi hetu na bhāsati alikaṃ bhūripañño, so pūjito hoti sabhāya majjhe
peccaṃ ca so suggatigāmi hoti, etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova seyyo na yasassi bālo.
2425. “Dẫu cho vì nguyên nhân của người khác hay của bản thân, người có trí tuệ uyên bác không nói lời không đúng sự thật, người ấy được tôn vinh ở giữa hội chúng. Và sau khi chết, người ấy được đi đến chốn an vui. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”
31. Chẳng vì mình, cũng chẳng vì người,
Bậc Đại trí nhân phải dối lời,
Người được tôn sùng trong hội chúng,
Đời sau hưởng hạnh phúc an vui.
Thấy điều này trẻ thơ xin nói:
Bậc trí hơn người trọc phú thôi.
2426. Hatthīgavāssā maṇikuṇḍalā ca nāriyo ca iddhesu kulesu jātā, sabbāva tā upabhogā bhavanti
iddhassa posassa aniddhimanto, etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova nihīno sirimāva seyyo.
2426. “Các con voi, bò, ngựa, các bông tai ngọc ma-ni, và các nữ nhân được phát hiện ở các gia tộc giàu có; toàn bộ tất cả các nàng ấy là vật sở hữu. Những người không có quyền thế là thuộc về người có quyền thế. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thì bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”
32. Voi, ngựa, bò, vòng ngọc, nữ nhân,
Thấy nhiều trong các hộ giàu sang,
Để dành cho các người giàu hưởng,
Mà chẳng cần uy lực thánh thần,
Nhìn thấy điều này, thần dám nói:
Bậc hiền thấp kém, phú gia hơn.
2427. Asaṃvihitakammantaṃ bālaṃ dummantamantinaṃ, sirī jahati dummedhaṃ jiṇṇaṃva urago tacaṃ, etampi disvāna ahaṃ vadāmi pañño seyyo na yasassi bālo.
2427. “Uy quyền từ bỏ kẻ ngu muội, kẻ có việc làm không được sắp xếp, kẻ ngu dốt có suy nghĩ xấu xa, tựa như con rắn từ bỏ lớp da đã bị già cỗi. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”
33. Người ngu hành động thiếu suy tư,
Nói những lời ngu xuẩn, dại rồ;
Vô trí bị quăng vì Đại vận,
Như con rắn bỏ lớp da khô.
Thấy điều này, trẻ thơ xin nói:
Bậc trí hơn xa phú hộ ngu.
2428. Pañca paṇḍitā mayaṃ bhadante sabbe pañjalikā upaṭṭhitā, tvaṃ no abhibhuyya issarosi
sakko bhūtapatīva devarājā, etampi disvāna ahaṃ vadāmi pañño nihīno sirimāva seyyo.
2428. “Tâu bậc tôn kính, năm người sáng suốt chúng thần, tất cả đều chắp tay hầu cận. Ngài đã khuất phục chúng thần và là vị chúa tể, tựa như Sakka là người chủ quản của các sanh linh, vị chúa của chư Thiên. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thì bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”
34. Năm trí nhân là bọn chúng thần,
Thảy đều hầu cận đấng tôn quân,
Hết lòng kính trọng ngài là chúa,
Là chủ nhân ông của thứ dân.
Như Đế Thích là vua vạn vật,
Chính là chúa tể của thiên nhân.
Thấy vầy thần nói: người hiền trí,
Thấp kém, người giàu thắng thế hơn.
2429. Dāso va paññassa yasassi bālo atthesu jātesu tathāvidhesu, yaṃ paṇḍito nipuṇaṃ saṃvidheti sammohamāpajjati tattha bālo, etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova seyyo na yasassi bālo.
2429. “Kẻ ngu có danh vọng chính là nô lệ của người trí. Khi các công việc thuộc loại như thế ấy sanh khởi, người sáng suốt xếp đặt công việc một cách khéo léo, trong trường hợp ấy kẻ ngu đi đến sự rối loạn. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.
35. Người ngu nô lệ của người hiền,
Khi vấn đề này phát khởi lên,
Bậc trí giải đề khôn khéo lắm,
Kẻ ngu rối trí tựa cuồng điên.
Thấy điều này, trẻ thơ xin nói:
Bậc trí hơn xa kẻ lắm tiền.
2430. Addhā hi paññāva sataṃ pasatthā kantā sirī bhogaratā manussā, ñāṇañca buddhānamatulyarūpaṃ
paññaṃ na acceti sirī kadāci.
2430. Thật vậy, bởi vì chính trí tuệ đã được các bậc thiện nhân ca tụng, còn loài người ưa thích của cải, uy quyền được chúng yêu mến. Và trí của chư Phật là không thể sánh bằng. Uy quyền không bao giờ vượt hơn trí tuệ.”
36. Trí tuệ được sùng bởi thiện nhân,
Bạc vàng được chuộng bởi người trần,
Đắm say hưởng thụ bao tham dục.
Tri kiến Phật-đà thật tuyệt luân;
Vàng bạc chẳng bao giờ vượt quá
Trí cao siêu việt, tấu vương quân.
2431. Yaṃ taṃ apucchimha akittayī no mahosadha kevaladhammadassi, gavaṃ sahassaṃ usabhañca nāgaṃ ājaññayutte ca rathe dasa ime,pañhassa veyyākaraṇena tuṭṭho dadāmi te gāmavarāni soḷasā ”ti.
2431. “Điều mà chúng ta đã hỏi khanh, khanh đã trả lời cho chúng ta. Này Mahosadha, vị có sự nhìn thấy tất cả các pháp, được hài lòng với việc giải thích câu hỏi, ta ban cho khanh một ngàn bò cái, một bò mộng, và một con voi, với mười cỗ xe kéo đã được thắng vào những con ngựa thuần chủng này, và ân huệ là mười sáu ngôi làng.”
37. Con đáp mọi câu hỏi của ta,
Pháp Sư độc nhất, Ma-ho-sa,
Ngàn bò cái, một voi, bò đực,
Tuấn mã kéo mười cỗ đại xa,
Mười sáu ngôi làng giàu đẹp nhất,
Hân hoan ta tặng thưởng con thơ.
Câu chuyện 500
Sirimandajātakaṃ.
***
Bổn Sanh Sirimanda. [500]
***
▪ 5. ROHANTAMIGAJĀTAKAṂ
▪ 5. BỔN SANH NAI ROHANTA
501. Chuyện Lộc Vương Rohanta
(Tiền thân Rohanta Miga)
2432. Ete yūthā paṭiyanti bhītā maraṇassa cittaka, gaccha tuvampi mā kaṅkhi jīvissanti tayā saha.
2432. “Này Cittaka, bầy hươu này kinh sợ sự chết, nên bỏ đi. Em cũng hãy đi đi, chớ nghi ngại. Bầy hươu sẽ sống với em.”
1- Hãi kinh thần chết, hỡi Citta,
Cả đám hươu kia chạy thoát xa
Hiền đệ hãy đi, vì bọn chúng
Cùng em sẽ sống, chớ chần chờ.
2433. Nāhaṃ rohanta gacchāmi hadayamme avakassati, na taṃ ahaṃ jahissāmi idha hessāmi jīvitaṃ.
2433. “Anh Rohanta, em không đi. Trái tim em níu em lại. Em sẽ không lìa bỏ anh. Em sẽ buông bỏ mạng sống ở đây.”
2- Em chẳng đi đâu, hỡi Lỗ hân,
Tim em đã kéo bước em gần,
Chẳng lìa anh tại nơi này nữa,
Em sẵn sàng từ bỏ tấm thân.
2434. Te hi nūna marissanti andhā aparināyakā, gaccha tuvampi mā kaṅkhi jīvissanti tayā saha.
2434. “Bởi vì mẹ và cha thì mù lòa, không người dẫn dắt, có lẽ họ sẽ phải chết. Em cũng hãy đi đi, chớ nghi ngại. Mẹ và cha sẽ sống với em.”
3- Chẳng ai bảo dưỡng lại mù lòa,
Phải chết song thân, mẹ lẫn cha,
Em hãy về ngay cùng phụ mẫu,
Hỡi em đừng nấn ná gần ta.
2435. Nāhaṃ rohanta gacchāmi hadayamme avakassati, na taṃ baddhaṃ jahissāmi idha hessāmi jīvitaṃ.
2435. “Anh Rohanta, em không đi. Trái tim em níu em lại. Em sẽ không lìa bỏ anh đang bị trói buộc. Em sẽ buông bỏ mạng sống ở đây.”
4- Em chẳng đi đâu, hỡi Lỗ hân,
Tim em đã kéo bước em gần,
Chẳng rời anh ở nơi này nữa,
Em sẵn sàng từ bỏ tấm thân.
2436. Gaccha bhīru palāyassu kūṭe baddhosmi āyase, gaccha tuvampi mā kaṅkhi jīvissanti tayā saha.
2436. “Này em gái nhút nhát, em hãy đi đi, hãy tẩu thoát đi. Anh bị trói chặt vào cái cùm sắt rồi. Em cũng hãy đi đi, chớ nghi ngại. (Ba người) họ sẽ sống với em.”
5- Hươu nhút nhát, mau chạy trốn xa,
Bạo tàn thòng lọng siết chân ta,
Hãy đi theo chúng đừng lưu luyến,
Em phải sống cùng với mẹ cha.
2437. Nāhaṃ rohanta gacchāmi hadayamme avakassati, na taṃ ahaṃ jahissāmi idha hessāmi jīvitaṃ.
2437. “Anh Rohanta, em không đi. Trái tim em níu em lại. Em sẽ không lìa bỏ anh. Em sẽ buông bỏ mạng sống ở đây.”
6- Em chẳng đi đâu, hỡi Lỗ hân,
Tim em đã kéo bước em gần,
Chẳng rời anh ở nơi này nữa,
Em sẵn sàng từ bỏ tấm thân.
2438. Te hi nūna marissanti andhā aparināyakā, gaccha tuvampi mā kaṅkhi jīvissanti tayā saha.
2438. “Bởi vì mẹ và cha thì mù lòa, không người dẫn dắt, có lẽ họ sẽ phải chết. Em cũng hãy đi đi, chớ nghi ngại. Mẹ và cha sẽ sống với em.”
7- Chẳng ai bảo dưỡng lại mù lòa,
Phải chết song thân, mẹ lẫn cha,
Em hãy về ngay cùng phụ mẫu,
Hỡi em đừng nấn ná gần ta.
2439. Nāhaṃ rohanta gacchāmi hadayamme avakassati, na taṃ baddhaṃ jahissāmi idha hessāmi jīvitaṃ.
2439. “Anh Rohanta, em không đi. Trái tim em níu em lại. Em sẽ không lìa bỏ anh đang bị trói buộc. Em sẽ buông bỏ mạng sống ở đây.”
8- Em chẳng đi đâu, hỡi Lỗ hân,
Tim em đã kéo bước em gần,
Em liều mất mạng, song không thể
Bỏ mặc anh sa bẫy buộc chân.
2440. Ayaṃ so luddako eti ruddarūpo sahāvudho, so no vadhissati ajja usunā sattiyāmapi.
2440. “Gã thợ săn kia đi đến kìa, với dáng vẻ dữ tợn, có vũ khí. Hôm nay, gã ấy sẽ giết chết chúng ta bằng giươm, thậm chí bằng giáo.”
9- Thợ săn hung dữ, dáo trong tay
Nhìn gã, kìa đang bước đến đây!
Rồi với mũi tên hay ngọn giáo,
Chúng mình, gã giết nội, ngày nay!
2441. Sā muhuttaṃ palāyitvā bhayaṭṭā bhayatajjitā, sudukkaraṃ akarā bhīru maraṇāyupanivattatha.
2441. Bị áp đảo vì nỗi sợ hãi, bị kinh hoàng vì nỗi sợ hãi, con hươu cái nhỏ đã bỏ chạy một chốc lát, rồi đã quay trở lại chấp nhận cái chết; nó đã làm một việc vô cùng khó làm.
10- Hươu non mềm yếu quá kinh hoàng,
Sợ hãi chạy quanh cố kiếm đường,
Rồi có hành vi đầy quyết liệt:
Vì nàng đành chịu phận đau thương.
2442. Kinnu te me migā honti muttā baddhaṃ upāsare, na taṃ cajitumicchanti jīvitassapi kāraṇā.
2442. “Hai con nai này được tự do, lại luẩn quẩn ở bên con nai bị mắc bẫy, phải chăng chúng không muốn bỏ rơi con nai ấy, thậm chí vì lý do của mạng sống?”
11- Đôi lộc dù không bị buộc chân,
Là ai, chầu chực cạnh tù nhân,
Không đành bỏ mặc chàng Hươu chúa,
Và chạy trốn đi để thoát thân?
2443. Bhātaro honti me ludda sodariyā ekamātukā, na maṃ cajitumicchanti jīvitassapi kāraṇā.
2443. “Này thợ săn, chúng là hai đứa em có cùng xuất xứ, có chung một mẹ với ta. Chúng không muốn bỏ rơi ta, thậm chí vì lý do của mạng sống.”
12- Em gái, em trai ấy thật là,
Cùng chung một mẹ đã sinh ra,
Không đành phận được riêng mình sống,
Bỏ mặc ta trơ trọi đấy mà.
2444. Te hi nūna marissanti andhā aparināyakā, pañcannaṃ jīvitaṃ dehi bhātaraṃ muñca luddaka.
2444. “Bởi vì mẹ và cha thì mù lòa, không người dẫn dắt, có lẽ họ sẽ phải chết. Này thợ săn, xin ông hãy tha mạng sống cho năm người, xin ông hãy phóng thích anh trai của ta.”
13- Chẳng ai chăm sóc lại mù lòa,
Đành phải chết luôn cả mẹ cha,
Thiện hữu hãy tha năm mạng ấy,
Và xin thiện hữu thả anh ta.
2425. So vo ahaṃ pamokkhāmi mātāpettibharaṃ migaṃ, nandantu mātāpitaro muttaṃ disvā mahāmigaṃ.
2445. “Ta đây sẽ phóng thích con nai đang phụng dưỡng mẹ cha. Mong rằng nai mẹ và nai cha được vui mừng, sau khi nhìn thấy con nai vĩ đại được tự do.”
14- Thôi được, này xem ta thả ra,
Chúa Hươu hiếu dưỡng mẹ cùng cha,
Khi nhìn con bảo toàn thân mạng,
Cha mẹ vui mừng sẽ múa ca.
2446. Evaṃ luddaka nandassu saha sabbehi ñātibhi, yathāhamajja nandāmi muttaṃ disvā mahāmigaṃ.
2446. “Này thợ săn, mong rằng ông được vui mừng như vậy cùng với tất cả thân quyến, giống như ta hôm nay được vui mừng, sau khi nhìn thấy con nai vĩ đại được tự do.”
15- Chú thợ, cầu mong phước lộc tràn,
Ước ao hạnh phúc cả thân bằng,
Như ta hạnh phúc khi nhìn ngắm
Đại lộc vương nay được thoát nàn.
2447. Kathaṃ pamokkho āsi upanītasmiṃ jīvite, kathaṃ putta amocesi kūṭā pāsamhā luddako.
2447. “Làm thế nào con có được sự phóng thích khi mạng sống đã bị dẫn dắt đi? Này con trai, tại sao người thợ săn đã giải thoát cho con khỏi cái cùm, khỏi cái bẫy?”
16- Làm thế nào con được tự do,
Khi đời con suýt dứt đường tơ?
Sao người săn nọ cho con thoát,
Chiếc bẫy giăng kia đã phỉnh lừa?
2448. Bhaṇaṃ kaṇṇasukhaṃ vācaṃ hadayaṅgaṃ hadayanissitaṃ, subhāsitāhi vācāhi cittako maṃ amocayi.
2448. “Trong khi thốt lên lời nói làm khoái lỗ tai, đâm vào trái tim, lắng đọng ở tim, Cittaka đã giải thoát cho con bằng những lời nói được khéo nói.
17- Citta đã giải thoát cho con
Bằng những lời rung động tâm hồn,
Mê mẩn đôi tai, xuyên thấu dạ,
Lời đưa trong sáng thật du dương.
2449. Bhaṇaṃ kaṇṇasukhaṃ vācaṃ hadayaṅgaṃ hadayanissitaṃ, subhāsitāhi vācāhi sutanā maṃ amocayi.
2449. Trong khi thốt lên lời nói làm khoái lỗ tai, đâm vào trái tim, lắng đọng ở tim, Sutanā đã giải thoát cho con bằng những lời nói được khéo nói.
18- Suta đã giải thoát cho con,
Bằng những lời rung động tâm hồn,
Mê mẩn đôi tai, xuyên thấu dạ,
Lời đưa trong sáng thật du dương.
2450. Sutvā kaṇṇasukhaṃ vācaṃ hadayaṅgaṃ hadayanissitaṃ, subhāsitāhi sutvāna luddako maṃ amocayi.
2450. Sau khi lắng nghe lời nói làm khoái lỗ tai, đâm vào trái tim, lắng đọng ở tim, sau khi lắng nghe những lời khéo nói, người thợ săn đã giải thoát cho con.”
19- Chú thợ kia đã giải thoát con,
Khi nghe lời nói thật mê hồn,
Thấm sâu tâm trí, xuyên vào dạ,
Lời lẽ thanh tao dịu ngọt tuôn.
2451. Evaṃ ānandito hotu saha dārehi luddako, yathā mayajja nandāma disvā rohantamāgataṃ.
2451. “Mong rằng người thợ săn được vui mừng như vậy cùng với những người vợ, giống như chúng ta hôm nay được vui mừng, sau khi nhìn thấy Rohanta trở về.”
20- Ta chúc người, gia quyến, vợ con,
Cầu mong các vị phước duyên tròn,
Như ta hạnh phúc khi nhìn ngắm
Nay chúa Lỗ hân được thoát nàn.
2452. Nanu tvaṃ avacā ludda migacammāni āhariṃ, atha kena nu vaṇṇena migacammāni nāhari.
2452. “Này thợ săn, chẳng phải khanh đã nói rằng: ‘Thần sẽ mang về con nai hoặc tấm da nai’? Vậy thì vì lý do gì mà khanh đã không mang về con nai hay tấm da nai?”
21- Lạp hộ, mau lên , nói trẫm hay,
Nhà ngươi có phải muốn thưa vầy
“Tâu hoàng thượng, tấm da hươu chúa,
Nay tiểu thần dâng ngự lãm ngay”.
Hoặc giả da hươu ngươi chẳng có
Để dâng, vì cớ sự gì đây?
2453. Āgamāceva hatthatthaṃ kūṭapāsañca so migo, abajjhi tañca migarājaṃ tañca muttā upāsare.
2453. “Con nai ấy đã ở trong tay, và nó thật sự đã đi vào đã cái cùm, cái bẫy. Nó đã bị bắt, và nó là con nai chúa. Hai con khác, được tự do, đã luẩn quẩn ở bên con nai ấy.
22- Chúa Hươu đã đến tận tay rồi
Vào bẫy nằm sâu kín của tôi.
Bị bắt liền, song đôi lộc khác
Thong dong chầu chực một bên ngài.
2454. Tassa me ahu saṃvego abbhuto lomahaṃsano, imaṃ cāhaṃ migaṃ haññe ajja hessāmi jīvitaṃ.
2454. Sự chấn động, sự dựng đứng lông trước đây chưa từng có, đã xảy ra ở thần đây. Và nếu thần giết chết con nai này, thần sẽ buông bỏ mạng sống ngày hôm nay.”
23- Xót thương, thần rợn cả làn da
Từ mẫn lạ thường mới khởi ra:
“Nếu giết Hươu này (thần nghĩ ngợi),
Đời thần ắt cũng hóa ra ma!”
2455. Kīdisā te migā ludda kīdisā dhammikā migā, kathaṃ vaṇṇā kathaṃ sīlā bāḷhaṃ kho te pasaṃsasi.
2455. “Này thợ săn, những con nai ấy là như thế nào, các con nai có đạo đức như thế nào, màu sắc ra sao, tánh hạnh ra sao mà khanh ca ngợi chúng lắm thế?”
24- Lạp hộ, bầy hươu ấy thế nào,
Phong tư, cốt cách chúng ra sao,
Màu lông, đặc tính gì trong chúng
Xứng đáng lời kia tán tụng cao?
2456. Odātasiṅgā sucivāḷā jātarūpatacūpamā, pādā lohitakā tesaṃ añjitakkhā manoramā.
2456. “Chúng có cặp sừng trắng sáng, chùm lông đuôi sạch sẽ, làn da tựa như vàng, các móng chân màu đỏ sẫm, hai con mắt long lanh, đáng yêu.
25- Đôi sừng như bạc, dáng cao sang,
Với bộ lông da sáng rỡ ràng,
Chân đỏ, mắt ngời sao chói lọi,
Toàn thân tuyệt mỹ giữa trần gian.
2457. Edisā te migā deva edisā dhammikā migā, mātāpettibharā deva na te so abhihārayuṃ.
2457. Tâu bệ hạ, các con nai ấy là như thế ấy, là các con thú có đạo đức như thế ấy. Tâu bệ hạ, chúng đang phụng dưỡng mẹ cha. Thần đây đã không bắt chúng đem đi.”
26- Phong tư, cốt cách chúng như vầy,
Tâu Chúa công, là đám lộc này,
Chúng vẫn tìm mồi nuôi phụ mẫu,
Thần không đem được chúng về đây.
2458. Dammi nikkhasataṃ ludda thullañca maṇikuṇḍalaṃ, catuddasañca pallaṅkaṃ ummāpuppha sirinnibhaṃ.
2458. “Này thợ săn, trẫm sẽ ban thưởng một trăm tiền vàng lớn, bông tai ngọc ma-ni loại lớn, kiệu khiêng bốn bên đều lót nệm có màu sắc rực rỡ giống như màu hoa của cây bông vải, –
38- Nạm ngọc vòng tai, trẫm muốn ban,
Tặng khanh cùng với sáu cân vàng,
Xinh tươi, bảo tọa như hoa tấm
Với nệm nằm chen cả bốn hàng.
2459. Dve ca sādisiyo bhariyā usabhañca gavaṃ sataṃ, dhammena rajjaṃ kāressaṃ bahukāro mesi luddaka.
2459. –thêm hai người vợ tương xứng, cùng với bò mộng và bò cái một trăm con. Này thợ săn, khanh là người có nhiều công đức đối với trẫm. Trẫm sẽ trị vì vương quốc một cách công minh.
39- Hai vợ cùng giai cấp xứng đôi,
Trâu bò thường đúng một trăm rồi
Trẫm nguyền sẽ trị dân công chính
Mãi mãi, ân nhân của trẫm ôi!
2460. Kasī vaṇijjā iṇadānaṃ uñchācariyāya luddaka, etehi dāraṃ posehi mā pāpaṃ akarā punan ”ti.
2460. Này thợ săn, có các nghề trồng trọt, buôn bán, cho vay nợ, lượm lặt để mưu sinh, khanh hãy cấp dưỡng vợ bằng các nghề ấy, chớ có làm điều ác nữa.”
40- Cho vay, cày ruộng hoặc kinh doanh,
Hễ đó là nghề nghiệp của khanh,
Trẫm thấy khanh không làm việc ác,
Song nhờ đó cấp dưỡng gia đình.
Câu chuyện 501
Rohantamigajātakaṃ.
***
Bổn Sanh Nai Rohanta. [501]
***
▪ 6. CŪḶAHAṂSAJĀTAKAṂ
▪ 6. TIỂU BỔN SANH THIÊN NGA
502. Chuyện Chúa Thiên Nga
(Tiền thân Hamsa)
2461. Ete haṃsā pakkamanti vakkaṅgā bhayameritā, harittaca hemavaṇṇa kāmaṃ sumukha pakkama.
2461. “Các con thiên nga ấy bay đi rồi, các con chim run rẩy vì sợ hãi. Này Sumukha có lông vàng, có sắc vàng, ngươi hãy bay đi như ý muốn.
1- Kìa đám hồng nga cất cánh bay,
Cả bầy hốt hoảng hãi kinh đầy,
Đi ngay, Sư mục lông vàng óng,
Khanh muốn gì chăng ở chốn này.
2462. Ohāya maṃ ñātigaṇā ekaṃ pāsavasaṃ gataṃ, anapekkhamānā gacchanti kiṃ eko avahīyasi.
2462. Đám thân quyến đã bỏ lại ta, ra đi không chờ đợi, khi một mình ta đã bị rơi vào bẫy, việc gì một mình ngươi còn ở lại?
2- Họ hàng ta đã bỏ rơi ta!
Bọn chúng đều cao chạy vút xa,
Đào tẩu ngay, không hề nghĩ lại,
Sao khanh đơn độc ở đây mà?
2463. Pateva patataṃ seṭṭha natthi baddhe sahāyatā, mā anīghāya hāpesi kāmaṃ sumukha pakkama.
2463. Này con chim cao cả, ngươi phải bay đi thôi! Không có tình bạn ở người bị giam cầm. Ngươi chớ bỏ lỡ cơ hội khi chưa bị nguy khốn. Này Sumukha, ngươi hãy bay đi như ý muốn.”
3- Thiên nga cao thượng hãy bay về,
Tù tội, thân không có bạn bè,
Lúc được tự do, Sư mục hỡi,
Bay đi! Đừng bỏ dịp may kề.
2464. Nāhaṃ dukkhaparetoti dhataraṭṭha tuvaṃ jahe, jīvitaṃ maraṇaṃ vā me tayā saddhiṃ bhavissati.
2464. “Thưa Dhataraṭṭha, (nghĩ rằng): ‘Ngài lâm cảnh khổ đau,’ tôi không thể bỏ rơi ngài. Tôi sẽ cùng sống hay cùng chết chung với ngài.”
4- Không, thần sẽ chẳng bỏ Nga vương,
Khi đến gần tai họa thảm thương,
Song ở lại đây, thần đã quyết
Bên ngài, dù sống chết không màng.
2465. Etadariyassa kalyāṇaṃ yaṃ tvaṃ sumukha bhāsasi, tañca vīmaṃsamānohaṃ patatetaṃ avassajiṃ.
2465. “Này Sumukha, điều ngươi nói là lời nói tốt lành của người thánh thiện. Và trong khi xem xét về ngươi, ta đã nói lời nói này: ‘Ngươi hãy bay đi.’”
5- Những lời khanh nói thật anh hùng,
Đại tướng ôi, cao cả tấm lòng!
Vì muốn thử lòng hiền hữu đó,
Trẫm đà bảo bạn hãy phi thân!
2466. Apadena padaṃ yāti antalikkhe caro dijo, ārā pāsaṃ na bujjhi tvaṃ haṃsānaṃ pavaruttamo.
2466. “Loài chim di chuyển ở không trung, tiến tới một bước không phải dùng chân. Ngươi là ưu tú nhất trong số các con chim thiên nga, tại sao từ đàng xa ngươi đã không phát hiện ra cái bẫy?”
6- Bọn chúng đều co cẳng vút bay,
Bầy chim tung cánh giữa trời mây,
Thiên nga vương giả, sao chim chẳng
Trông thấy từ xa chiếc bẫy này?
2467. Yadā parābhavo hoti poso jīvitasaṅkhaye, atha jālañca pāsañca āsajjāpi na bujjhati.
2467. “Khi con người có sự tiêu vong, ở vào giai đoạn cuối của mạng sống, thậm chí đã đến gần bên lưới giăng và bẫy sập cũng không nhận biết.”
7- Khi đời sắp sửa phút lâm chung,
Giờ tử thần đang tiến lại gần,
Dù bạn đứng kề bên chiếc bẫy,
Cũng không thấy bẫy đặt, dây giăng!
2468. Ete haṃsā pakkamanti vakkaṅgā bhayameritā, harittaca hemavaṇṇa tvañca taṃ avahīyasi.
2468. “Các con thiên nga ấy bay đi rồi, các con chim run rẩy vì sợ hãi. Này chim có lông vàng, có sắc vàng, có phải ngươi ở lại với chim kia?
8- Kìa đám hằng nga cất cánh bay,
Cả bầy hốt hoảng hãi kinh thay,
Còn Thiên nga có sắc vàng óng,
Bị bỏ rơi, còn nán đợi đây.
2469. Ete bhutvā pivitvā ca pakkamanti vibhaṅgamā, anapekkhamānā vakkaṅga tvaññeveko upāsasi.
2469. Này chim, các con chim ấy, sau khi ăn và uống xong, bay đi không chờ đợi, chỉ còn một mình ngươi hầu cận.
9- Cả đám hồng nga đã uống ăn,
Rồi bay về hết, chẳng quan tâm,
Qua không gian chúng lao vùn vụt,
Và bỏ mặc chim chỉ một thân!
2470. Kinnu tāyaṃ dijo hoti mutto baddhaṃ upāsasi, ohāya sakuṇā yanti kiṃ eko avahīyasi.
2470. Vậy con chim này là gì đối với ngươi? Ngươi được tự do, sao lại hầu cận kẻ bị giam cầm? Các con chim đã bỏ lại rồi ra đi, tại sao một mình ngươi hầu cận?”
10- Có gì quan hệ với chim này,
Khi cả đàn ruồng rẫy vụt bay,
Dù được tự do, chim ở lại,
Một mình kết bạn với kẻ tù đây?
2471. Rājo me so dijo mitto sakhā pāṇasamo ca me, neva naṃ vijahissāmi yāva kālassa pariyāyaṃ.
2471. “Chim ấy là vua, bạn bè, thân hữu của tôi, và sánh bằng mạng sống của tôi. Tôi sẽ không bao giờ rời bỏ chim ấy cho đến cuối cuộc đời.”
11- Chim chúa là đây, bạn chí tình,
Thiết thân như chính cuộc đời mình,
Bỏ ngài ư?- Chẳng bao giờ có,
Dù lúc tử thần gọi đích danh!
2472. Yo ca tvaṃ sakhino hetu pāṇaṃ cajitumicchasi, so te sahāyaṃ muñcāmi hotu rājā tavānugo.
2472. “Vì nguyên nhân bạn bè mà ngươi đây muốn từ bỏ mạng sống, ta đây trả tự do cho bạn của ngươi. Chim thiên nga chúa hãy đi cùng với ngươi.”
12- Thấy rằng vì trọng nghĩa thân bằng,
Chim sẵn sàng từ bỏ tấm thân,
Ta thả chúa chim đồng mệnh ấy
Để cùng nhau khắp chốn đằng vân.
2473. Evaṃ luddaka nandassu saha sabbehi ñātibhi, yathāhamajja nandāmi muttaṃ disvā dijādhipaṃ.
2473. “Này thợ săn, mong rằng ông được vui mừng như vậy cùng với tất cả thân quyến, giống như ta hôm nay được vui mừng, sau khi nhìn thấy chim thủ lãnh được tự do.”
13- Lạp hộ, cùng thân hữu, họ hàng,
Cầu mong các vị phước ân tràn,
Như ta hạnh phúc khi nhìn ngắm
Chúa chim giờ đây thoát buộc ràng.
2474. Kaccinnu bhoto kusalaṃ kacci bhoto anāmayaṃ, kacci raṭṭhamidaṃ phītaṃ dhammena manusāsasi.
2474. “Bệ hạ có được an khang không? Bệ hạ có được khỏe mạnh không? Xứ sở này có được phồn thịnh không, và bệ hạ có trị vì một cách công minh không?”
14- Đại vương, ngọc thể có khang an,
Quý quốc giờ đây có hưởng tràn
Hạnh phúc, giàu sang cùng thịnh vượng,
Và ngài trị nước thật công bằng!
2475. Kusalaṃ ceva me haṃsa atho haṃsa anāmayaṃ, atho raṭṭhamidaṃ phītaṃ dhammena manusāsahaṃ.
2475. “Này chim thiên nga, trẫm được an khang. Và này chim thiên nga, trẫm được khỏe mạnh. Còn xứ sở này được phồn thịnh, và trẫm trị vì một cách công minh.”
15- Thiên nga, đây trẫm được khang an,
Và bổn quốc đây được vẹn toàn
Hạnh phúc, giàu sang cùng thịnh vượng,
Với nền cai trị thật công bằng.
2476. Kacci bhoto amaccesu doso koci na vijjati, kacci ārā amittā te chāyā dakkhiṇatoriva.
2476. “Có phải bất cứ lỗi lầm nào đều không tìm thấy ở các quan đại thần của bệ hạ? Có phải các kẻ thù đều tránh xa bệ hạ, tựa như bóng nắng không chiếu về phía nam?”
16- Triều đình ngài chẳng phạm sai lầm,
Và đám quốc thù vẫn biệt tăm,
Bọn chúng chẳng bao giờ xuất hiện,
Khác nào bóng tối hướng Nam chăng?
2477. Athopi me amaccesu doso koci na vijjati, atho ārā amittā te chāyā dakkhiṇatoriva.
2477. “Bất cứ lỗi lầm nào cũng đều không tìm thấy ở các quan đại thần của trẫm. Và các kẻ thù đều tránh xa trẫm, tựa như bóng nắng không chiếu về phía nam.”
17- Triều thần trẫm chẳng thấy sai lầm,
Và đám quốc thù vẫn bặt tăm,
Bọn chúng chẳng bao giờ xuất hiện,
Khác nào bóng tối ở phương Nam!
2478. Kacci te sādisī bhariyā assavā piyabhāṇinī, puttarūpayasūpetā tava chandavasānugā.
2478. “Có phải người vợ tương xứng với bệ hạ có sự vâng lời, có lời nói đáng yêu, có được con trai, sắc đẹp, danh tiếng, và tuân theo ý muốn và quyền uy của bệ hạ?”
18- Phải chăng chánh hậu cũng chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chiều mọi Thánh ý chờ mong?
2479. Atho me sādisī bhariyā assavā piyabhāṇinī, puttarūpayasūpetā mama chandavasānugā.
2479. “Còn người vợ tương xứng với trẫm có sự vâng lời, có lời nói đáng yêu, có được con trai, sắc đẹp, danh tiếng, và tuân theo ý muốn và quyền uy của trẫm.”
19- Thưa vâng, chánh hậu cũng chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chiều mọi ý trẫm hằng mong!
2480. Kacci te bahavo puttā sujātā raṭṭhavaḍḍhana, paññājavena sampannā sammodanti tato tato.
2480. “Tâu bậc làm hưng thịnh đất nước, có phải bệ hạ có nhiều con trai có dòng dõi cao sang, được thành tựu trí tuệ nhạy bén, và hòa hiếu ở mọi nơi?”
20- Đại đế nuôi dân! Ngài có đông
Hoàng nam được dưỡng dục oai phong,
Thông minh ứng đối, người nhu thuận,
Bất cứ việc gì cũng gắng công?
2481. Sataṃ eko ca me puttā dhataraṭṭha mayā sutā, tesaṃ tvaṃ kiccamakkhāhi nāvarajjhanti te vaco.
2481. “Này Dhataraṭṭha, trẫm có một trăm lẻ một người con trai, được nổi tiếng nhờ vào trẫm. Ngài hãy nói về phận sự của chúng, chúng không xao lãng lời nói của ngài.”
21- Nga vương, trẫm có đủ hoàng nam,
Nổi tiếng một trăm lẻ một chàng,
Dạy bảo chúng làm tròn phận sự,
Chúng không bỏ dở các lời vàng.
2482. Upapannopi ce hoti jātiyā vinayena vā, atha pacchā kurute yogaṃ kicce āpāsu sīdati.
2482. “Dầu đã được sanh ra với dòng dõi hay tánh hạnh, mà thực hành việc rèn luyện chậm trễ thì sẽ đầu hàng khi có khó khăn, khi có các sự bất hạnh.
22- Kẻ hoãn trì cho quá muộn màng
Thiện hành mà chẳng gắng công làm,
Dù nhiều đức tính, dòng cao quý,
Cũng vẫn chìm sâu xuống dưới dòng.
2483. Tassa saṃhīrapaññassa vivaro jāyate mahā, nattamandhova rūpāni thullāni manussati.
2483. Đối với người có trí tuệ bị suy giảm ấy, nghịch cảnh nảy sanh được quan trọng hóa, giống như người bị quáng gà, vào ban đêm nhìn thấy các hình thể được phóng đại.
23- Người kia tri kiến cứ tàn dần
Tổn hại lớn lao, nó lãnh phần
Như kẻ quáng gà vì bóng tối,
Khi nhìn mọi vật hóa phồng căng,
Gấp đôi tầm cỡ thường nơi chúng,
Vì có nhãn quang chẳng vẹn toàn.
2484. Asāre sārayogaññū matiṃ natveva vindati, sarabhova giriduggasmiṃ antarāyeva sīdati.
2484. Người lầm tưởng cốt lõi ở điều không phải cốt lõi chẳng bao giờ đạt được sự hiểu biết, tựa như nai rừng gánh lấy tai họa ở khe núi hiểm trở.
24. Ai nhìn hư vọng thấy toàn chân,
Chẳng đạt chút nào trí tuệ thông,
Như thể trên đường đèo lởm chởm,
Bầy hươu nai vẫn té nhào lăn.
2485. Hīnajaccopi ce hoti uṭṭhātā dhitimā naro, ācārasīlasampanno nise aggīva bhāsati.
2485. Dầu có dòng dõi thấp kém, mà là người cầu tiến, có nghị lực, đầy đủ hạnh kiểm và giới luật, vẫn tỏa sáng tựa như ngọn lửa trong bóng đêm.
25. Nếu người nào dũng cảm can cường,
Ðức hạnh mến yêu, giữ đúng đường,
Dù chỉ là người dòng hạ liệt,
Cũng bừng lên tựa lửa đêm trường.
2486. Etaṃ me upamaṃ katvā putte vijjāsu vācaya, saṃvirūḷhetha medhāvī khettabījaṃva vuṭṭhiyā ”ti.
2486. Hãy sử dụng ví dụ ấy của tôi và cho các con học tập các kiến thức. Người thông minh có thể trưởng thành, tựa như hạt giống ở thửa ruộng với cơn mưa.”
26. Cứ dùng ngay ví dụ trên này
Chân lý hiền nhân, hãy giải bày,
Dưỡng dục hoàng nam thành bậc trí,
Như mầm non gặp lúc mưa đầy.
Câu chuyện 502
Cūḷahaṃsajātakaṃ.
***
Tiểu Bổn Sanh Thiên Nga. [502]
***
▪ 7. SATTIGUMBAJĀTAKAṂ
▪ 7. BỔN SANH CHIM KÉT SATTIGUMBA
503. Chuyện anh vũ Sattigumba
(Tiền thân Sattigumba)
2487. Migaluddo mahārājā pañcālānaṃ rathesabho, nikkhanto saha senāya ogaṇo vanamāgamā.
2487. Vị đại vương, đấng thủ lãnh xa binh của xứ Pañcāla, thích săn bắt nai, trong khi xuất hành cùng với đoàn quân, đã rời đám đông đi vào khu rừng.
1. Vua xứ Pãn-ca với đạo quân
Lên đường săn bắn lũ nai rừng,
Trong rừng sâu thẳm vua đi lạc,
Chẳng có một ai ở kế gần.
2488. Tatthaddasā araññasmiṃ takkarānaṃ kuṭiṃ kataṃ, tassā kuṭiyā nikkhamma suvo luddāni bhāsati.
2488. Ở nơi ấy, trong khu rừng, đức vua đã nhìn thấy căn chòi đã được dựng lên của bọn cướp. Từ trong căn chòi ấy, có con két bước ra và nói những lời hung dữ:
2. Kìa, ngài trông thấy ở trong rừng
Bọn cướp đã làm chốn ẩn thân,
Anh vũ, một chim đang tiến bước,
Tức thì lời ác nó kêu vang:
2489. Sampannavāhano poso yuvā sammaṭṭhakuṇḍalo, sobhati lohituṇhīso divāsuriyova bhāsati.
2489. “Người nam, còn trẻ tuổi, có cỗ xe hoàn hảo, có bông tai được đánh bóng, có khăn đội đầu màu đỏ, tỏa sáng, tựa như mặt trời chiếu sáng vào ban ngày.
3. “Ngồi trên xe nọ, một nam trang,
Châu báu nhiều sao, lắm ngọc vàng,
Vương miện trên đầu vàng óng ánh
Chiếu hồng như thể ánh trời quang!
2490. Majjhantike sampaṭike sutto rājā sasārathi, handassābharaṇaṃ sabbaṃ gaṇhāma sahasā mayaṃ.
2490. Bây giờ, vào lúc giữa trưa, vua với người đánh xe đã ngủ. Nào, chúng ta hãy dùng bạo lực đoạt lấy tất cả đồ trang sức của người này.
4. Ngự quan cùng chúa ngủ say sưa,
Nằm đó lúc trời nắng giữa trưa,
Ta hãy cướp ngay đồ báu vật,
Nhanh lên, cất dấu hết bây giờ!
2491. Nisīthepi rahodāni sutto rājā sasārathi, ādāya vatthaṃ maṇikuṇḍalañca hantvāna sākhāhi apattharāma.
2491. Bây giờ vắng vẻ cũng như lúc nửa đêm, vua với người đánh xe đã ngủ. Chúng ta hãy lấy đi y phục và bông tai bằng ngọc ma-ni, rồi giết chết họ, và vùi lấp bằng những cành cây.”
5. Cảnh lặng yên như lúc nửa đêm,
Ngự quan cùng chúa ngủ nằm yên,
Bạc vàng châu báu, nào ta lấy,
Giết họ, rồi ta chất củi lên!”.
2492. Kinnu ummattarūpova sattigumba pabhāsasi, durāsadā hi rājāno aggi pajjalito yathā.
2492. “Này chim két Sattigumba, ngươi nói cái gì như là kẻ bị điên khùng vậy? Bởi vì, các vị vua là khó lại gần, giống như ngọn lửa đã bùng cháy.”
6. Này Sat-ti, có phát điên khùng?
Lời lẽ nào nghe mới nói chăng?
Vua chúa giống như vầng lửa cháy,
Vô cùng nguy hiểm, nếu ta gần.
2493. Atha tvaṃ patikoḷamba matto thullāni gacchasi, mātari mayha naggāya kinnu tvaṃ vijigucchase.
2493. “Này Patikoḷamba, giờ ngươi lại say sưa, nói năng thô tháo. Trong khi mẹ của chúng ta bị thiếu thốn, vậy ngươi còn ghê tởm điều gì? 7. Ngu dại Pa-ti nói chuyện này
Và ông điên, chẳng phải ta đây,
Mẹ ta trần trụi, sao khinh bỉ
Nghề nghiệp nhà ta sống thuở rày?
2494. Uṭṭhehi samma taramāno rathaṃ yojehi sārathi, sakuṇā me na ruccanti aññaṃ gacchāma assamaṃ.
2494. “Này khanh, hãy mau dậy đi. Này xa phu, hãy thắng ngựa vào cỗ xe. Các con chim không làm ta vui thích. Chúng ta hãy đi đến chốn ẩn cư khác.”
8. Dậy mau, hiền hữu quản xa này,
Vào cỗ xe, nào thắng ngựa ngay,
Chỗ khác, ta tìm nơi ẩn náu,
Vì ta chẳng thích chú chim đây.
2495. Yutto ratho mahārāja yutto ca balavāhano, adhitiṭṭha mahārāja aññaṃ gacchāma assamaṃ.
2495. “Tâu đại vương, cỗ xe đã được thắng ngựa, phương tiện di chuyển có năng lực đã được sẵn sàng. Tâu đại vương, xin ngài bước lên. Chúng ta đi đến chốn ẩn cư khác.”
9. Xa mã thắng rồi, tâu Ðại vương!
Sẵn sàng đã buộc đủ dây cương,
Ðại vương, xin ngự vào xa giá,
Nơi khác, ta tìm để náu nương.
2496. Konu meva gatā sabbe ye asmiṃ paricārakā, esa gacchati pañcālo mutto tesaṃ adassanā.
2496. “Những kẻ nào sống ở nơi này, tất cả bọn ấy đã đi đâu rồi? Vua xứ Pañcāla ấy ra đi tự do, thoát khỏi tầm nhìn của chúng rồi.
10. Này đi đâu cả đám râu mày,
Họ vẫn thường lai vãng chốn đây?
Vua nước Pãn-cà vừa chạy mất,
Chúng không thấy nữa, hãy đi ngay!
2497. Kodaṇḍakāni gaṇhatha sattiyo tomarāni ca, esa gacchati pañcālo mā vo muñcittha jīvitaṃ.
2497. Các ngươi hãy cầm lấy các cây cung, các gươm đao, và các cây giáo. Vua xứ Pañcāla ấy ra đi rồi. Chớ để gã thoát khỏi các ngươi, còn sống sót.”
11. Vua ấy thoát thân có được chăng?
Hãy cầm lao, dáo với tên, cung;
Kìa Pãn-ca chúa vừa bay mất,
Này, chớ cho vua ấy thoát thân!
2498. Athāparo paṭinandittha suvo lohitatuṇḍako, svāgataṃ te mahārāja atho te adurāgataṃ, issarosi anuppatto yaṃ idhatthi pavedaya.
2498. Rồi, một con chim két khác, có mỏ đỏ, đã vui mừng đón tiếp: ‘Tâu đại vương, chào mừng ngài đã đến, và hoan nghênh ngài đã đến! Là bậc quân vương, bệ hạ ngự đến nơi này có việc gì, xin bệ hạ cho biết.
12. Chim Anh vũ với mỏ tươi hồng
Cung cách ân cần đã nói năng:
“Vạn tuế Ðại vương! Duyên hạnh ngộ
Ðưa đường ngài ngự đến đây chăng!
Vinh quang Ðại đế đầy uy lực,
Chúa thượng cần gì phải giáng lâm?
2499. Tindukāni piyālāni madhuke kāsumāriyo, phalāni khuddakappāni bhuñja rāja varaṃ varaṃ.
2499. Tâu bệ hạ, xin ngài chọn lấy trái ngon nhất và hãy thưởng thức các trái cây ngọt như mật ong, các trái tinduka, piyāla, madhuka,kāsumārī.
13. Tin-dook, Pi-yal, các lá cây,
Cùng Ka-su quả ngọt ngào thay,
Dù còn ít ỏi, tâu Hoàng thượng,
Chọn thức tối ưu, đó sẵn bày.
2500. Idampi pānīyaṃ sītaṃ ābhataṃ girigabbharā, tato piva mahārāja sace tvaṃ abhikaṅkhasi.
2500. Tâu đại vương, còn đây là nước uống mát lạnh đã được mang lại từ hang núi. Sau đó, bệ hạ hãy uống nước, nếu ngài mong muốn.
14. Nước mát từ hang núi thật sâu
Ẩn mình bên dưới ngọn đồi cao,
Oai hùng Ðại đế, tâu ngài ngự,
Ẩm thức tùy nghi thỏa khát khao.
2501. Araññaṃ uñchāya gatā ye asmiṃ paricārakā, sayaṃ uṭṭhāya gaṇhavho hatthā me natthi dātave.
2501. Những người sống ở nơi này đã đi vào rừng nhặt trái cây. Xin bệ hạ hãy tự mình đứng dậy và chọn lấy, thần không có tay để dâng lên.”
15. Mọi người đang lượm trái trong rừng,
Các vị nơi này vẫn trú thân,
Xin Chúa đích thân cầm ngự thiện,
Tay thần chẳng có để cung dâng!”
2502. Bhadrako vata yaṃ pakkhī dvijo paramadhammiko, atheso itaro pakkhī suvo luddāni bhāsati.
2502. “Con chim này quả thật là hiền thiện! Là con chim có đạo đức tuyệt vời. Còn con chim ấy ở nơi kia, con chim két nói những lời hung dữ rằng:
16. Chưa có chim nào ưu tú hơn,
Trên đời, Anh vũ quả thuần chơn,
Còn chim Anh vũ đằng kia ấy
Ðã nói bao điều thật ác ngôn:
2503. Etaṃ hanatha bandhatha mā vo muñcittha jīvitaṃ, iccevaṃ vipalantassa sotthiṃ pattosmi assamaṃ.
2503. ‘Các ngươi hãy giết chết gã ấy, hãy bắt lấy gã, Chớ để gã thoát khỏi các ngươi, còn sống sót.’ Trong khi nó lảm nhảm như vậy, trẫm đã đến được chốn ẩn cư này một cách an toàn.”
17. “Ðừng để nhà vua chạy thoát thân,
Ðến mau! Trói giết!” nó kêu vang,
Trẫm đi tìm đến am tu sĩ
Và thấy nơi này chốn vạn an.
2504. Bhātarosma mahārāja sodariyā ekamātukā, ekarukkhasmiṃ saṃvaḍḍhā nānākhettagatā ubho.
2504. “Tâu đại vương, cả hai chúng tôi là anh em, có cùng xuất xứ, có chung một mẹ, đã được lớn lên ở cùng một thân cây, rồi đã đi đến hai mảnh đất khác nhau.
18. Ðại đế! Chúng thần chính đệ huynh,
Cùng chung một mẹ đã khai sinh,
Cưu mang đôi trẻ trên cây nọ,
Song chốn khác nhau đã trưởng thành.
2505. Sattigumbo ca corānaṃ ahañca isinaṃ idha, asataṃ so sataṃ ahaṃ tena dhammena no vinā.
2505. Sattigumba ở với bọn cướp, còn thần ở nơi này với các vị ẩn sĩ. Nó ở giữa những kẻ xấu, thần giữa những người tốt, nên không thể không bị ảnh hưởng bởi tư cách của những người ấy.
19. Vì Sat-ti đến bọn cường gian,
Còn tiểu thần đi đến trí nhân,
Ác nọ, thiện đây, từ chỗ đó
Phát sinh lề thói chẳng cùng đàng.
2506. Tattha vadho ca bandho ca nikatī vañcanāni ca, ālopasahasākārā tāni so tattha sikkhati.
2506. Tại nơi ấy, có sự giết chóc, sự bắt bớ, sự tráo trở, và các sự gian lận, sự cướp giựt và các biểu hiện bạo lực; Sattigumba học theo các điều ấy ở nơi ấy.
20. Ðâm chém, xích xiềng, kế bất lương,
Những hành vi bịp bợm, tồi tàn,
Bao nhiêu bạo động và xung kích,
Chính đó là môn nó sở trường.
2507. Idha saccañca dhammo ca ahiṃsā saññamo damo, āsanūdakadāyīnaṃ aṅke vaddhosmi bhārata.
2507. Ở nơi này, có sự chân thật, có thiện pháp, và sự không hãm hại, có sự thu thúc, có sự rèn luyện. Tâu đức vua, thần đã được lớn lên trong sự bảo bọc của những người có thói quen bố thí chỗ ngồi và nước uống cho khách lạ.
21. Còn đây tiết độ, tự điều thân,
Nhân ái, công bằng với chánh chân,
Lữ khách uống ăn cùng trú ẩn,
Quây quần thần lớn giữa hiền nhân.
2508. Yaṃ yaṃ hi rāja bhajati sataṃ vā yadi vā asaṃ, sīlavantaṃ visīlaṃ vā vasaṃ tasseva gacchati.
2508. Tâu bệ hạ, bởi vì khi thân cận người nào, người ấy tốt hay xấu, có giới hạnh hay không có giới hạnh, ta sẽ chịu sự ảnh hưởng của chính người ấy.
22. Ðối với ác nhân hoặc thiện nhân
Mà người ta kính trọng tôn sùng,
Cho dù ác độc hay hiền đức,
Cũng khiến kẻ kia phải phục tùng.
2509. Yādisaṃ kurute mittaṃ yādisañcūpasevati, sopi tādisako hoti sahavāso hi tādiso.
2509. Khi kết bạn với người như thế nào, và thân cận với người như thế nào, ta đây cũng trở thành người như thế ấy; bởi vì sự cộng trú là như thế.
23. Khi ta ngưỡng mộ bạn tâm đồng,
Như một người tri kỷ, bạn lòng,
Người ấy sẽ đồng hành, kế cận
Bên mình ta đến phút sau cùng.
2510. Sevamāno sevamānaṃ samphuṭṭho samphusaṃ paraṃ, saro diddho kalāpaṃ va ālittamupalimpati, upalepabhayā dhīro neva pāpasakhā siyā.
2510. Người được hầu cận làm ô nhiễm người đang hầu cận mình, người được tiếp xúc làm ô nhiễm người khác đang tiếp xúc với mình, ví như mũi tên tẩm độc làm ô nhiễm túi tên còn chưa bị nhiễm độc. Do nỗi sợ hãi sự ô nhiễm, bậc sáng trí không bao giờ có bạn bè xấu xa.
24. Tình bạn kết giao thấm nhiễm dần,
Chuyện này ngài thấy quả là chân:
Cứ ngâm thuốc độc vào tên bắn,
Vỏ bọc cũng thành nhiễm độc luôn.
25. Người trí tránh bầu bạn ác nhân,
Vì e ô nhiễm chạm vào thân:
2511. Pūtimacchaṃ kusaggena yo naro upanayhati, kusāpi pūti vāyanti evaṃ bālūpasevanā.
2511. Người nào bao bọc con cá thối bằng ngọn cỏ, các ngọn cỏ cũng toát ra mùi hôi thối; tương tự như vậy, do việc thân cận với những kẻ ngu dốt (sẽ bị tổn hại danh tiếng).
Cá ươn, cứ gói trong chùm cỏ,
Sẽ thấy cỏ kia cũng thối nồng,
Những kẻ kết giao phường trí độn
Chính mình cũng sẽ hóa ngu đần.
2512. Tagarañca palāsena yo naro upanayhati, pattāpi surabhi vāyanti evaṃ dhīrūpasevanā.
2512. Người nào bao bọc gỗ thơm bằng lá cây, các chiếc lá cũng tỏa ra mùi thơm; tương tự như vậy, do việc thân cận với các bậc sáng trí (sẽ đạt được tiếng tốt).
26. Lá kia đem gói gỗ trầm hương,
Ngọn là liền thơm ngát dịu dàng,
Cũng vậy, nhiều người thành có trí,
Khi ngồi chầu các bậc hiền nhân.
2513. Tasmā phala puṭasseva ñatvā sampākamattano, asante nopaseveyya sante seveyya paṇḍito, asanto nirayaṃ nenti santo pāpenti suggatin ”ti.
2513. Vì thế, sau khi biết được hậu quả dành cho bản thân tương tự như kết quả của chiếc lá và vật chứa đựng, người sáng suốt không nên hầu cận những kẻ ác nhân, nên thân cận các bậc thiện nhân. Những kẻ ác nhân dẫn lối vào địa ngục, các bậc thiện nhân giúp cho đạt được cảnh giới an vui.”
27. Nhờ ví dụ này bậc trí nhân
Phải am tường lợi lạc riêng phần:
Tránh xa bầu bạn phường gian ác,
Và sánh vai cùng bậc chánh chân,
Thiên giới đợi chờ người chánh hạnh.
Đọa vào ngục tối bọn tà gian.
—————
Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh II“, do Tỳ-khưu Indacanda dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh II
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda