TIỂU BỘ – BỔN SANH III – NHÓM LỚN – BÀI 8

▪ 8. VIDHURAJĀTAKAṂ – BỔN SANH BẬC SÁNG SUỐT VIDHURA

545. CHUYỆN BẬC ĐẠI TRÍ VÔ SONG

(Tiền thân Vidhurapandita)

5476. Yo kopaneyye na karoti kopaṃ na kujjhati sappuriso kadāci, kuddhopi yo nāvikaroti kopaṃ taṃ ve naraṃ samaṇaṃ āhu loke.

1. Thiện nhân không cảm thấy hờn căm,
Đối với một ai đáng hận sân,
Không để nội tâm sân khởi dậy,
Vị nào dù lúc giận trong lòng,
Cũng không để lộ cho người thấy,
Người gọi đó là thanh tịnh nhân.

5477. Ūnūdaro yo sahate jighacchaṃ danto tapassī mitapāṇabhojano, āhārahetu na karoti pāpaṃ taṃ ve naraṃ samaṇaṃ āhu loke.

2. Người chịu đói, bụng đau rần,
Ẩn sĩ tự điều phục món ăn,
Không phạm ác hành vì thực phẩm,
Vị này, người gọi bậc Sa-môn.

5478. Khiḍḍaṃ ratiṃ vippajahetva sabbaṃ na cālikaṃ bhāsati kiñci loke, vibhūsanaṭṭhānā virato methunasmā taṃ ve naraṃ samaṇaṃ āhu loke.

3. Sau khi bỏ mọi thứ vui chơi,
Không nói lời gian dối giữa đời,
Vị ấy ghét xa hoa, nhục dục,
Như vầy người gọi Sa-môn rồi.

5479. Pariggahaṃ lohadhammañca sabbaṃ ye ve pariññāya pariccajanti, dantaṃ ṭhitattaṃ amamaṃ nirāsaṃ taṃ ve naraṃ samaṇaṃ āhu loke.

4. Bậc toàn trí bỏ hết hoàn toàn,
Mọi sở hữu và mọi dục tham,
Tự chế, kiên tâm, vô ngã chấp,
Vị này người gọi bậc Sa-môn.

5480. Pucchāma kattāraṃ anomapaññaṃ gāthāsu no viggaho atthi jāto, chindajja kaṅkhaṃ vicikicchitāni tayajja kaṅkhaṃ vitaremu sabbe.

5. Xin hỏi đại thần thượng trí minh,
Trong khi đàm đạo, khởi phân tranh,
Nhờ khanh xét, giải nghi nan ấy,
Hội chúng thoát nghi hoặc bởi khanh!

5481. Ye paṇḍitā atthadassā bhavanti bhāsanti te yoniso tattha kāle, kathannu gāthānaṃ abhāsitānaṃ atthaṃ nayeyyuṃ kusalā janinda.

6. Bậc trí biết chân tướng việc đời,
Nói năng khôn khéo, đúng theo thời,
Nhưng dù hiền trí, làm sao biết,
Ý nghĩa kệ chưa nói với tôi?

5482. Kathaṃ have bhāsati nāgarājā kathaṃ pana garuḷo venateyyo, gandhabbarājā pana kiṃ vadeti kathaṃ pana kurūnaṃ rājaseṭṭho.

Vương tử Vi-na, Kim sí điểu,
Long vương ấy nói thế nào rồi?
Thác- bà vương, tối cao Hoàng thượng,
Của xứ Câu-lâu, hãy mở lời!

5483. Khantiṃ have bhāsati nāgarājā appāhāraṃ garuḷo venateyyo, gandhabbarājā rativippahānaṃ akiñcanaṃ kurunaṃ rājaseṭṭho.

7. Kham nhẫn, Long vương thuyết giảng xong,
Vương tử Vi-na, Sí điểu vương,
Lại thuyết giảng về lòng tốt đẹp,
Thác-bà vương thuyết đoạn trừ tham,
Câu lâu Chúa thượng ly triền cái,
Để đạt đến công hạnh vẹn toàn.

5484. Sabbāni etāni subhāsitāni na hettha dubbāsitamatthi kiñci,
yasmiñca etāni patiṭṭhitāni arāva nābhyā susamohitāni, catubbhi dhammehi samaṅgibhūtaṃ taṃ ve naraṃ samaṇaṃ āhu loke.

8. Tất cả lời này chánh đáng thay,
Không gì sai trái ở nơi này,
Người nào thích hợp lời như thế,
Giống các tăm xe ở trục quay,
Người được gọi Sa-môn chánh hạnh,
Đủ đầy các đức tính trên đây.

5485. Tuvannu seṭṭho tvamanuttarosi tvaṃ dhammagū dhammavidū sumedho, paññāya pañhaṃ samadhiggahetvā acchecchi dhīro vicikicchitāni, acchecchi kaṅkhaṃ vicikicchitāni cundo yathā nāgadantaṃ kharena.

9. Khanh là bậc tối thắng, vô song,
Hộ pháp, tinh thông luật, trí nhân,
Khi hiểu vấn đề nhờ trí tuệ,
Với tài khéo cắt mọi nghi nan,
Giống như người thợ ngà voi nọ,
Cắt với lưỡi cưa thật dễ dàng!

5486. Nīluppalābhaṃ vimalaṃ anagghaṃ vatthaṃ imaṃ dhūmasamānavaṇṇaṃ, pañhassa veyyākaraṇena tuṭṭho dadāmi te dhammapūjāya dhīra.

Thế là cả bốn vị vua đều rất đẹp ý với lời giải thích vấn đề của ngài. Thiên chủ Sakka thưởng ngài chiếc cẩm y bằng gấm thiên đình,

5487. Suvaṇṇamālaṃ satapattaphullaṃ sakesaraṃ ratana sahassamaṇḍitaṃ, pañhassa veyyākaraṇena tuṭṭho dadāmi te dhammapūjāya dhīra.

Kim sí điểu vương tặng ngài tràng hoa bằng vàng,

5488. Maṇiṃ anagghaṃ ruciraṃ pabhassaraṃ kaṇṭhāvasattaṃ maṇibhūsitaṃ me, pañhassa veyyākaraṇena tuṭṭho dadāmi te dhammapūjāya dhīra.

Long vương Varuna tặng ngài hạt minh châu

5489. Gavaṃ sahassaṃ usabhañca nāgaṃ ājaññayutte ca rathe dasa ime, pañhassa veyyākaraṇena tuṭṭho dadāmi te gāmavarāni soḷasā ”ti. 

10. Một ngàn bò cái, trẫm truyền ban,
Một thớt voi, bò đực một chàng,
Mười cỗ xe và đàn ngựa quý,
Thêm mười sáu đệ nhất thôn làng,
Bởi vì trẫm thật đầy hoan hỷ,
Cách giải vấn đề của Trí nhân!

5490. Paṇḍu kisiyāsi dubbalā vaṇṇarūpaṃ na tavedisaṃ pure, vimale akkhāhi pucchitā kīdisī tuyhaṃ sarīravedanā.

11. Yếu gầy, ái hậu lại xanh xao,
Dung sắc chẳng như trước chút nào,
Nào hỡi Vi-ma-là, hãy đáp:
Nỗi đau này đến bởi vì sao?

5491. Dhammo manujesu mātinaṃ dohaḷo nāma janinda vuccati, dhammāhaṭaṃ nāgakuñjara vidhurassa hadayābhipatthaye.

12. Có một bệnh riêng của nữ nhân,
Gọi là ước vọng, tấu Long quân,
Thiếp mong đem đến đây không dối,
Tim của Vi-dhu-ra Trí nhân!

5492. Candaṃ kho tvaṃ dohaḷāyasi suriyaṃ vā athavāpi mālutaṃ, dullabhe hi vidhurassa dassane ko vidhuraṃ idhamānayissati.

13. Ái hậu ước trời, trăng, gió mây,
Gặp Hiền nhân ấy khó khăn thay!
Nào ai có đủ tài năng để,
Đem bậc hiền nhân ấy đến đây?

5493. Kinnu tāta tuvaṃ pajjhāyasi padumaṃ hatthagataṃva te mukhaṃ, kiṃ dummanarūposi issara mā tvaṃ soci amittatāpanā.

14. Thân phụ, sao cha dáng rối ren,
Long nhan như một đóa hoa sen,
Bị tay ngắt vụng, sao buồn khổ,
Bậc chiến thắng, xin chớ muộn phiền!

5494. Mātā hi tava irandatī vidhurassa hadayaṃ dhanīyati, dullabhe hi vidhurassa dassane ko vidhuraṃ idhamānayissati.

15. I-ran-da hỡi, mẫu thân con,
Ao ước trái tim bậc Trí nhân,
Diện kiến Vi-dhu-ra thật khó,
Triệu ngài, ai có đủ tài năng?

5495. Bhattupariyesanaṃ cara yo vidhuraṃ idhamānayissati, pituno ca sā sutvāna vākyaṃ rattiṃ nikkhamma avassutiṃ cari.

16. Này con, không có một triều thần,
Ðủ sức triệu Vi-dhu Trí nhân,
Con hãy hy sinh vì mẫu hậu,
Ði tìm ra một vị phu quân!

17. “Hãy tìm cho được một phu quân,
Chàng sẽ triệu hồi bậc Trí nhân.”
Công chúa đi ngay đêm tối ấy,
Ðể cho dòng dục vọng tuôn tràn.

5496. Ke gandhabbe ca rakkhase nāge kimpurise ca mānuse, ke paṇḍite sabbakāmade dīgharattaṃ bhattā me bhavissati.

18. Càn-thát-bà hay đại lực thần,
Long thần, quái vật hoặc tiên, nhân,
Bậc hiền, tài đủ ban điều ước,
Ai sẽ làm chồng tiện nữ chăng?

5497. Assāsa hessāmi te pati bhattā hessāmi anindalocane, paññā hi mama tathā vidhā assāsa hessasi bhariyā mamaṃ.

19. Long nữ có đôi mắt diệu huyền,
Hãy an tâm nhé, hỡi nàng tiên,
Quả nhiên tài trí ta như vậy,
Ta sẽ cùng nàng đẹp mối duyên.

5498. Atha naṃ avacāsi irandatī pubbapathānugatena cetasā, ehi gacchāma pitu mamantike esova te etamatthaṃ pavakkhati.

Thế là Irandatì trả lời, nàng suy nghĩ theo kinh nghiệm xa xưa của một lần được cầu hôn trong đời trước của nàng: – Xin chàng đến đây cùng với thiếp đi yết kiến phụ vương, ngài sẽ giải thích việc này cho chàng rõ.

5499. Alaṃkatā suvasanā mālinī candanussadā, yakkhaṃ hatthe gahetvāna pitu santikamupāgami.

Rồi điểm trang lộng lẫy với xiêm y rực rỡ, chói lòa, đeo tràng hoa, xức dầu đàn hương xong, nàng nắm tay thần Dạ-xoa đem đến yết kiến vua cha.

5500. Nāgavara vaco suṇohi me patirūpaṃ paṭipajja suṅkiyaṃ, patthemi ahaṃ irandatiṃ tāya samaṅgī karohi me tuvaṃ.

20. Long vương, nghe lấy lời cầu hôn,
Nhận sính lễ cân xứng quý nương,
Thần hỏi I-ran-da ngọc nữ,
Hãy ban công chúa thuộc về thần,

5501. Sataṃ hatthī sataṃ assā sataṃ assatarīrathā, sataṃ vaḷabhiyo puṇṇā nānāratanassa kevalā, te nāga paṭipajjassu dhītaraṃ dehi irandatiṃ.

Một trăm voi với trăm con ngựa,
Trăm cỗ xe và la một trăm,
Ngọc quý trăm kho, xin nhận hết,
Ban thần công chúa, tấu Long quân!

5502. Yāva āmantaye ñātī mitte ca suhadaṃ janaṃ, anāmantakataṃ kammaṃ taṃ pacchāmanutappati.

– Hãy đợi ta hỏi ý kiến vương tộc, thân bằng quyến thuộc; làm việc gì mà không hỏi ý kiến kẻ khác sẽ đem lại hối tiếc về sau.

5503. Tato so varuṇo nāgo pavisitvā nivesanaṃ, bhariyaṃ āmantayitvāna idaṃ vacanamabravi.

Long vương vào cung, hỏi ý kiến Vương hậu:

5504. Ayaṃ so puṇṇako yakkho yācatī maṃ irandatiṃ, bahunā vittalābhena tassa dema piyaṃ mamaṃ.

– Thần Dạ-xoa Punnaka muốn cầu hôn công chúa Irandatì, vậy ta có nên gả con để đổi lấy vô số của cải ấy không?

5505. Na dhanena na vittena labbhā amhaṃ irandatī, sace hi vo hadayaṃ paṇḍitassa dhammena laddhā idhamāhareyya, etena vittena kumāri labbhā nāññaṃ dhanaṃ uttariṃ patthayāma.

– Không ai chinh phục được công chúa Irandatì bằng ngọc vàng châu báu cả, nếu vị ấy có đủ tài năng đem trái tim của Trí nhân Vidhura đến đây thì sẽ chinh phục được công chúa bằng bảo vật ấy, chứ chúng ta không đòi thêm của cải nào khác.

5506. Tato so varuṇo nāgo nikkhamitvā nivesanā, puṇṇakāmantayitvāna idaṃ vacanamabravi.

Thế là Long vương Varuna bước ra khỏi cung, hội ý với Punnaka, và bảo chàng:

5507. Na dhanena na vittena labbhā amhaṃ irandatī, sace tuvaṃ hadayaṃ paṇḍitassa dhammena laddhā idhamāharesi, etena vittena kumāri labbhā nāññaṃ dhanaṃ uttariṃ patthayāma.

– Công chúa Irandatì không thể được chinh phục bằng ngọc vàng châu báu, nếu chàng có đủ tài năng đem lại đây quả tim của Trí nhân Vidhura, chàng sẽ chiếm được công chúa bằng bảo vật đó, chúng ta không đòi thêm của cải gì.

5508. Yaṃ paṇḍitotyeke vadanti loke tameva bāloti punāhu aññe akkhāhi me vippavadanti ettha, kaṃ paṇḍitaṃ nāga tuvaṃ vadesi.

Punnaka đáp lời: – Có người được kẻ này gọi là hiền nhân thì kẻ khác lại gọi là “ngốc tử”, vì nhân thế có nhiều ý kiến khác nhau về một vấn đề như vậy. Vậy xin Ðại vương cho tiểu thần biết rõ ai là người được Ðại vương gọi là Trí nhân?

5509. Koravyarājassa dhanañjayassa yadi te suto vidhuro nāma kattā, ānehi taṃ paṇḍitaṃ dhammaladdhā irandatī paddhacarā te hotu.

Long vương đáp: – Nếu chàng có nghe danh tiếng Vidhura, đại thần của vua Dhanañjaya, thì hãy đem vị ấy về đây, công chúa Irandatì sẽ là chánh thê của chàng.

5510. Idañca sutvā varuṇassa vākyaṃ, uṭṭhāya yakkho paramappatīto, tattheva santo purisaṃ asaṃsi ānehi ājaññamidheva yuttaṃ.

Khi nghe Long vương Varuna nói vậy, thần Dạ-xoa nhảy lên reo mừng, tức thì bảo quân hầu cận của chàng: – Hãy đem tuấn mã đầy đủ yên cương lại đây cho ta.

5511. Jātarūpamayā kaṇṇā kācambhamayā khurā, jambonadassa pākassa suvaṇṇassa uracchado.

Tai ngựa đeo vàng, móng ngựa đeo ngọc, áo giáp bằng vàng.

5512. Devavāhavahaṃ yānaṃ assamāruyha puṇṇako, alaṅkato kappitakesamassu pakkāmi vehāsayamantalikkhe.

Punnaka lên ngựa, một tuấn mã đủ năng lực mang các Thiên thần, chàng trang sức thật sang trọng, đầy ngọc ngà trân bảo, râu tóc tỉa thật gọn gàng, rồi phi nhanh qua bầu trời.

5513. Sa puṇṇako kāmavegena giddho irandatiṃ nāgakaññaṃ jigiṃsaṃ, gantvāna taṃ bhūtapatiṃ yasassiṃ iccabravi vessavaṇaṃ kuveraṃ.

Lòng chàng đầy ước vọng đắm say, khao khát chiếm được Long nữ Irandatì, chàng tìm đến Ðại vương Vessavana Kuvera, tâu trình:

5514. Bhogavatī nāma mandire vāsā hiraññavatīti vuccati, nagare nimmite kañcanamaye maṇḍalassa uragassa niṭṭhitaṃ.

– Có cung thất Bhogavati được gọi là Kim Ðường, đó là kinh thành của Long vương được xây trong thành trì bằng vàng.

5515. Aṭṭālakā oṭṭhagīviyo lohitaṅkassa masāragallino, pāsādettha silāmayā sovaṇṇaratanena chāditā. 

Các tháp canh có hình môi và cổ, với hồng ngọc và bảo châu màu lục nhãn, cung điện xây bằng cẩm thạch đầy đủ vàng ròng, bao phủ bằng ngọc chạm vàng.

5516. Ambā tilakā ca jambuyo sattapaṇṇā mucalindaketakā, piyakā uddālakā sahā uparibhaddakā sinduvārakā. 

Các cây xoài, tilaka, hồng đào, sattapanna, mucalinda, ketaka, piyaka, uddàlaka, saha và sinduvàrita với muôn hoa khoe sắc thắm trên bầu trời.

5517. Campeyyakā nāgamālikā bhaginīmālā athamettha koliyā, ete dumā parināmitā sobhayanti uragassa mandiraṃ.

Các cây hoa champac, nàgamàlika, bhaginimàlà và táo nặng trĩu lá cành, mang lại vẻ diễm kiều cho cung điện Long vương.

5518. Khajjurettha silāmayā sovaṇṇadhuvapupphitā, bahū yattha vasatopapātiko nāgarājā varuṇo mahiddhiko.

Lại có một cây chà là khổng lồ bằng ngọc quý và hoa vàng không bao giờ tàn, đó là nơi ngự trị Long vương Varuna đầy đủ oai thần và được sinh từ Thiên giới.

5519. Tassa komārikā bhariyā vimalā kañcanavelliviggahā, kāḷā taruṇāva uggatā pucimandatthanī cārudassanā.

Cũng là nơi ngự trị của hoàng hậu Vimalà với hình dáng mềm mại như cây leo bằng vàng, thanh thanh như cây kàlà mới mọc, yêu kiều với bộ ngực như đôi quả nimba.

5520. Lākhārasarattasucchavī kāṇikārova nivātapupphito, tidivokacarāva accharā vijjutabbhaghanāva nissaṭā.

Da mượt mà tô điểm bằng son tươi thắm tựa hồ cây Kanikàra nở hoa trong bóng mát, như một nữ thần trên thiên giới, như ánh chớp lóe sáng giữa vầng mây.

5521. Sā dohaḷinī suvimhitā vidhurassa hadayaṃ dhanīyati, taṃ tesaṃ dadāmi issara tena te denti irandatiṃ mamaṃ.

Bà đang say sưa tràn trề niềm ước vọng lạ lùng, bà mong có được quả tim của Vidhura Hiền sĩ. Tiểu điệt xin đem nó lại cho các vị ấy, tâu Ðại vương, rồi họ sẽ gả công chúa Irandatì cho tiểu điệt.

5522. Sa puṇṇako bhūtapatiṃ yasassiṃ āmantaya vessavaṇaṃ kuveraṃ, tattheva santo purisaṃ asaṃsi ānehi ājaññamidheva yuttaṃ.

Sau khi Punnaka từ giã Vessavana Kuvera, Ðại đế vinh quang của mọi loài, liền ra lệnh cho cận thần: – Mang thần mã lại đây đầy đủ yên cương,

5523. Jātarūpamayā kaṇṇā kācambhamayā khurā, jambonadassa pākassa suvaṇṇassa uracchado.

với tai đeo vòng, mông đeo ngọc, áo giáp bằng vàng dát sáng ngời.

5524. Devavāhavahaṃ yānaṃ assamāruyha puṇṇako, alaṅkato kappitakesamassu pakkāmi vehāsayamantalikkhe.

Punnaka leo lên tuấn mã dành cho thiên thần, chàng trang điểm râu tóc thật oai vệ, rồi phi nhanh qua bầu trời.

5525. So āgamā rājagahaṃ surammaṃ aṅgassa rañño nagaraṃ durāyutaṃ, pahūta bhakkhaṃ bahuannapānaṃ masakkasāraṃ viya vāsavassa.

Chàng đến thành Vương Xá đầy lạc thú, kinh thành xa xôi của nước Anga, trù phú lương thực, tràn trề thức ăn uống. Chẳng khác gì Masakkaràsa, kinh thành của Thiên chủ Indra,

5526. Mayūrakoñcāgaṇasampaghuṭṭhaṃ dijābhighuṭṭhaṃ dijasaṅghasevitaṃ, nānāsakuntābhirudaṃ subhaṅganaṃ pupphābhikiṇṇaṃ himavaṃva pabbataṃ.

dậy âm thanh của bầy công, hạc, với hoa viên tráng lệ bao quanh, muôn loài chim ca hót giống như Tuyết Sơn bao phủ đầy hoa.

5527. Sa puṇṇako vepullamābhirucchi siluccayaṃ kimpurisānuciṇṇaṃ, anvesamāno maṇiratanaṃ uḷāraṃ tamaddasā pabbatakūṭamajjhe.

Thế là Punnaka trèo lên núi Vepulla với các đỉnh núi đá chồng chất, nơi các quỷ thần cư ngụ, chàng đi tìm bảo ngọc đầy hào quang, và cuối cùng chàng thấy nó nằm giữa lòng núi.

5528. Disvā maṇiṃ pabhassaraṃ jātivantaṃ dhanāharaṃ maṇiratanaṃ uḷāraṃ, daddallamānaṃ yasasā yasassinaṃ obhāsati vijjurivantalikkhe.

Khi chàng nhìn thấy viên bảo ngọc chiếu hào quang rực rỡ, diễm lệ muôn phần, chẳng khác nào tia chớp sáng lòa không gian,

5529. Tamaggahī veḷuriyaṃ mahagghaṃ manoharaṃ nāma mahānubhāvaṃ, ājaññamāruyha anomavaṇṇo pakkāmi vehāsayamantalikkhe.

chàng vội vàng chụp lấy viên như ý bảo châu vô giá kia, leo lên thần mã vô song địch, và tướng mạo chàng thật tuấn tú cao sang, chàng phi nhanh qua bầu trời vô tận.

5530. So āgamā nagaraṃ indapattaṃ oruyha cāgañchi sabhaṃ kurūnaṃ, samāgame ekasataṃ samagge avhettha yakkho avikampamāno.

Chàng đến kinh thành Indàpatta, giáng lâm tại triều đình xứ Kuru (Câu-Lâu), dũng tướng Dạ-xoa liền triệu tập một trăm chiến sĩ tại đó:

5531. Ko nīdha raññaṃ varamābhijeti kamābhijeyyāma varaṃdhanena, kamanuttaraṃ ratanavaraṃ jināma ko vāpi no jeti varaṃdhanena.

21. Ai muốn chiếm phần thưởng đế vương?
Ai, ta sẽ thắng cuộc tranh hùng?
Vô song bảo ngọc nào ta đoạt?
Ai sẽ chiếm ưu hạng bảo trân?

5532. Kuhiṃ nu raṭṭhe tava jātabhūmi na koravyasseva vaco tavedaṃ, abhibhosi no vaṇṇanibhāya sabbe akkhāhi me nāmañca bandhave ca.

22. Công tử sinh ra quốc độ nào,
Lời này chẳng phải Ko-ra đâu,
Chàng hơn tất cả về hình tướng,
Cho biết quý danh, quyến thuộc mau.

5533. Kaccāyano māṇavakosmi rāja anūnanāmo iti mavhayanti, aṅgesu me ñātayo bandhavā ca akkhena devasmi idhānupatto.

23. Tiểu sinh tên gọi Kac-cà-na,
Người chẳng gọi tên khác xấu xa,
Thần đến đây tìm trò giải trí,
Thân bằng, quyến thuộc ở An-ga.

5534. Kiṃ māṇavassa ratanāni atthi ye taṃ jinanto hare akkhadhutto, bahūni rañño ratanāni atthi te tvaṃ daḷiddo kathamavhayesi.

24. Ngọc gì Công tử có trong tay,
Mà kẻ thắng mong được có ngay?
Một vị vua nhiều châu ngọc quý,
Chàng nghèo sao dám thách như vầy?

5535. Manoharo nāma maṇī mamāyaṃ dhanāharo maṇiratanaṃ uḷāraṃ, imañca ājaññaṃ amittatāpanaṃ etaṃ me jetvā hare akkhadhutto.

25. Ðây ngọc làm say đắm cõi lòng,
Huy hoàng bảo ngọc tạo vinh quang;
Người nào thắng chiếm vô song mã,
Mọi địch thủ, thần mã phá tan.

5536. Eko maṇī māṇava kiṃ karissati ājāniyeko pana kiṃ karissati, bahūni rañño maṇiratanāni atthi ājāniyā vātajavā anappakā.

26. Một viên ngọc ích lợi gì chăng?
Một tuấn mã sao lập chiến công?
Vua chúa có nhiều viên ngọc quý,
Và nhiều tuấn mã tốc như phong!

Dohaḷakaṇḍo.

(Dứt) Phẩm Chứng Bệnh Khao Khát.

5537. Idañca me maṇiratanaṃ passa tvaṃ dipaduttama, itthīnaṃ viggahā cettha purisānañca viggahā.

Trong bảo châu này có đủ thân hình nam nhân cùng nữ nhân, thân hình của thú vật, cùng thân hình của chim muông, Long vương và Ðiểu vương, tất cả muôn loài đều hiện ra trong bảo châu này.

5538. Migānaṃ viggahā cettha sakuṇānañca viggahā, nāgarāje supaṇṇe ca maṇimhi passa nimmitaṃ.

5539. Hatthānīkaṃ rathānīkaṃ asse pattī dhajāni ca, caturaṅginiṃ imaṃ senaṃ maṇimhi passa nimmitaṃ.

Cả một đàn voi, một đàn xe ngựa, quân sĩ, cờ xí, xin Chúa thượng ngự lãm cả đoàn kỵ mã, vệ sĩ của vua, chiến sĩ đang chiến đấu trên cỗ xe, chiến sĩ chiến đấu trên bộ, quân sĩ đang bày binh bố trận, xin Chúa thượng ngự lãm mọi vật xuất hiện trong viên bảo châu này.`

5540. Hatthāruhe anīkaṭṭhe rathike pattikārike, balaggāni viyūḷhāni maṇimhi passa nimmitaṃ. 

5541. Puraṃ uddāpasampannaṃ bahupākāratoraṇaṃ, siṅghāṭakesu bhūmiyo maṇimhi passa nimmitaṃ.

Xin ngự lãm trong viên bảo châu này một kinh thành đầy đủ dinh thự kiên cố lầu đài với nhiều cổng thành và trường thành, với nhiều tụ điểm đầy lạc thú – nơi bốn đại lộ giao nhau – Các đại trụ, hào lũy, chấn song, then cửa, tháp canh, cổng thành; xin ngự lãm mọi vật xuất hiện trong viên bảo châu này.

5542. Esikā parikhāyo ca palighaṃ aggalāni ca, aṭṭālake ca dvāre ca maṇimhi passa nimmitaṃ. 

5543. Passa toraṇamaggesu nānādijagaṇā bahū, haṃsā koñcā mayūrā ca cakkavākā ca kukkuhā.

Xin ngự lãm các đàn chim muông đủ loại, trên đường sá, dưới cổng thành: thiên nga, công, hạc, hồng nga, hải âu, sơn ca, cu cườm, jivajivaka, xin ngự lãm muôn loài chim đều tụ họp về đây và xuất hiện trong viên bảo châu này.

5544. Kuṇālakā bahū citrā sikhaṇḍī jīvañjīvakā, nānādijagaṇākiṇṇaṃ maṇimhi passa nimmitaṃ. 

5545. Passa nagaraṃ supākāraṃ abbhutaṃ lomahaṃsanaṃ, samussitadhajaṃ rammaṃ suvaṇṇa vālukasanthataṃ.

Xin ngự lãm một kinh thành diệu kỳ với trường thành cao cả, khiến ta phải dựng tóc gáy vì kinh ngạc, thật vui mắt vì cờ xí rợp trời, đất cát toàn vàng ròng,

5546. Passa tvaṃ paṇṇasālāyo vibhattā bhāgaso mitā, nivesane nivese ca sandhibyuhe pathaddhiyo.

xin ngự lãm các lều ẩn sĩ được phân chia đều đặn thành từng khu vực, nhà cửa đủ loại, sân bãi, đường sá cùng các đường nhỏ chen kẽ.

5547. Pānāgāre ca soṇḍe ca sūṇā odaniyāgharā, vesī ca gaṇikāyo ca maṇimhi passa nimmitaṃ.

Xin ngự lãm các trà đình tửu quán, các nhà tể sinh, cùng các tiệm thực phẩm cho các nội nhân, các gái giang hồ cùng các chàng phóng đãng, tất cả đều hiện ra trong bảo ngọc này.

5548. Mālākāre ca rajake gandhike atha dussike, suvaṇṇakāre maṇikāre maṇimhi passa nimmitaṃ.  

Những người kết tràng hoa, thợ giặt, các chiêm tinh gia, những lái buôn y phục, thợ kim hoàn nữ trang, tất cả đều hiện ra trong bảo châu này.

5549. Āḷāriye ca sūde ca naṭanaṭṭakagāyake, pāṇissare kumbhathūnike maṇimhi passa nimmitaṃ.  

5550. Passa bherī mutiṅgā ca saṅkhā paṇavadeṇḍimā, sabbañca tālāvacaraṃ maṇimhi passa nimmitaṃ.  

Xin ngự lãm các loại trống, lớn nhỏ, tù và, trống đồng, trống rung, đủ loại thanh la, đều xuất hiện trong bảo châu này.

5551. Sammatālañca vīṇañca naccagītaṃ suvāditaṃ, turiyatāḷitasaṃghuṭṭhaṃ maṇimhi passa nimmitaṃ.  

Xin ngự lãm các loại vĩ cầm, khiêu vũ, ca hát thật du dương, các loại nhạc cụ, tiếng gồng chiêng rung đều xuất hiện trong bảo châu này.

5552. Laṅghikā muṭṭhikā cettha māyākārā ca sobhiyā, vetālike ca jalle ca maṇimhi passa nimmitaṃ.  

Các tay đô vật, nhảy cao cũng có mặt nơi đây, cảnh hề múa rối, các thi sĩ, thợ hớt tóc của vua chúa tất cả đều xuất hiện trong bảo châu này.

5553. Samajjā cettha vattanti ākiṇṇā naranāribhi, mañcātimañce bhūmiyo maṇimhi passa nimmitaṃ.  

Dân chúng tụ tập nơi đây, xin ngự lãm các dãy ghế sân khấu hàng hàng lớp lớp xuất hiện trong bảo ngọc này.

5554. Passa malle samajjasmiṃ poṭhente diguṇaṃ bhujaṃ, nihate nihatamāne ca maṇimhi passa nimmitaṃ.  

Xin ngự lãm các tay đô vật đánh bằng hai cánh tay gập lại, xin ngự lãm kẻ đánh cùng người bị đánh vật đều xuất hiện trong bảo châu này.

5555. Passa pabbatapādesu nānāmigagaṇā bahū, sīhavyagghavarāhā ca acchakokataracchayo.

Xin ngự lãm trên triền núi các đoàn hươu, nai, sư tử, cọp beo, gấu, chó sói,

5556. Palasatā ca gavajā ca mahisā rohitā rurū, eṇeyyā ca varāhā ca gaṇino niṅkasūkarā.  

hoẵng, tê giác (tây ngu), gayal, trâu bò, hồng lộc, ruru, linh dương, lợn rừng, nimka, lợn nhà,

5557. Kadalimigā bahucitrā biḷārā sasakaṇṇakā, nānāmigagaṇākiṇṇaṃ maṇimhi passa nimmitaṃ.

hươu sao kadali, mèo, thỏ, muôn loài súc sinh đều hiện ra trong bảo ngọc này.

5558. Najjāyo supatitthāyo soṇṇa vālukasanthatā, acchā savanti ambūni macchagumbanisevitā.  

Những dòng sông đào thật đẹp, đáy lót toàn kim sa, nước trong vắt chảy nhẹ nhàng với đủ loại cá,

5559. Kumbhīlā makarā cettha suṃsumārā ca kacchapā. pāṭhīnā pāvusā macchā valajā muñjarohitā.

cá sấu, các loài thủy quái, rùa, trạnh, pàthìna, pàvusa, vàlaja và muñjarohita.

5560. Nānādumagaṇākiṇṇā nānādijagaṇāyutā, veḷuriyaphalakarodāyo maṇimhi passa nimmitaṃ.

Xin ngự lãm trong viên bảo châu này đủ loại cây, đủ loài chim và một khu rừng có những cành cây làm bằng ngọc bích (lapi lazuli).

5561. Passettha pokkharaṇiyo suvibhattā catuddisā, nānādijagaṇākiṇṇā puthulomanisevitā.

Xin Chúa thượng ngự lãm các hồ nước được xây thật đều đặn bốn góc thành với muôn loại chim cá rộn rã tung tăng.

5562. Samantodaka sampannaṃ mahiṃ sāgarakuṇḍalaṃ, upetaṃ vanarājehi maṇimhi passa nimmitaṃ.

Xin ngự lãm quả đất được biển cả vây phủ, nước tràn khắp nơi, điểm tô đủ loại cây cỏ, tất cả đều hiện ra trong bảo ngọc này.

5563. Purato videhe passa goyāniye ca pacchato, kuruyo jambudīpañca maṇimhi passa nimmitaṃ.

Xin ngự lãm xứ Videha phía trước, Goyàniya phía sau, Kuru (Câu-lâu) và Jambudìpa (Diêm-phù-đề), đều xuất hiện trong bảo ngọc này.

5564. Passa candañca suriyañca obhāsente catuddisā, sineruṃ anupariyante maṇimhi passa nimmitaṃ.

Xin ngự lãm mặt trời, mặt trăng, chiếu sáng bốn phương trong khi đi vòng quanh núi Sineru (Tu-di) cũng xuất hiện trong bảo ngọc này.

5565. Sineruṃ himavantañca sāgarañca mahiddhikaṃ, cattāro ca mahārāje maṇimhi passa nimmitaṃ.

Xin ngự lãm núi Sineru và Tuyết Sơn cùng Thần Hải và Tứ Ðại Thiên vương bảo hộ thế giới, thảy đều xuất hiện trong bảo ngọc này.

5566. Ārāme vanagumbe ca pāṭiye ca siluccaye,ramme kimpurisākiṇṇe maṇimhi passa nimmitaṃ. 

5567. Phārusakaṃ cittalataṃ missakaṃ nandanaṃ vanaṃ, vejayantañca pāsādaṃ maṇimhi passa nimmitaṃ.

Các hoa viên của Thiên chủ Indra như Phàrusaka, Cittalatà, Missaka, Nandana và cung Vejayanta, thảy đều xuất hiện trong bảo ngọc này.5568.

Sudhammaṃ tāvatiṃsañca pāricchattañca pupphitaṃ, erāvaṇaṃ nāgarājaṃ maṇimhi passa nimmitaṃ. 

Cung Sudhamma (Thiện pháp) của Thiên chủ Indra ở cõi trời Ba mươi ba, cây trời Pàricchatta (San hô) đang nở rộ hoa, thiên tượng Eràvana, đều xuất hiện trong bảo châu này.

5569. Passettha devakaññāyo nabhā vijjurivuggatā, nandane vicarantiyo maṇimhi passa nimmitaṃ.

Xin ngự lãm các ngọc nữ của các vị trời đang hiện ra như tia chớp giữa không gian, nhởn nhơ trong ngự viên Nandana, tất cả đều xuất hiện trong bảo châu này.

5570. Passettha devakaññāyo devaputtapalobhinī, devaputte caramāne maṇimhi passa nimmitaṃ.

Xin ngự lãm các ngọc nữ cõi trời đang mê hoặc các tiên đồng, và các tiên đồng đang thơ thẩn dạo chơi, tất cả đều xuất hiện trong bảo châu này.

5571. Parosahassapāsāde veḷuriyaphalakatthate, pajjalantena vaṇṇena maṇimhi passa nimmitaṃ.

Xin ngự lãm hơn ngàn cung điện phủ đầy ngọc bích hiện ra sáng ngời trong viên bảo châu này.

5572. Tāvatiṃse ca yāme ca tusite cāpi nimmite, paranimmitābhiratino maṇimhi passa nimmitaṃ.

Thiên chúng ở các cõi trời Ba mươi ba, Dạ-ma, Ðâu-suất và Tha hóa tự tại thảy đều xuất hiện trong viên bảo châu này.

5573. Passettha pokkharaṇiyo vippasannodikā sucī, mandālakehi saṃchannā padumuppalakehi ca.

Xin ngự lãm các hồ nước trong suốt đầy san hô và sen súng trên cõi trời.

5574. Dasettha rājiyo setā dasa nīlā manoramā, cha piṅgalā paṇṇarasā haḷiddā ca catuddasā.

Trong bảo ngọc này có mười đường vân trắng, mười đường vân xanh đậm thật tuyệt trần, hai mươi mốt đường vân nâu và mười bốn đường vân vàng nhạt,

5575. Vīsatiṃ tattha sovaṇṇā vīsatiṃ rajatāmayā, indagopakavaṇṇābhā tāva dissanti tiṃsati.

hai mươi đường vân vàng chói, hai mươi đường vân bạc, ba mươi đường vân đỏ.

5576. Dasettha kāḷiyo cha ca mañjeṭṭhā paṇṇavīsati, missā bandhukapupphehi nīluppalavicittitā.

Mười sáu đường vân đen, hai mươi lăm đường vân màu thiên thảo đỏ sẫm chen lẫn với hoa bandhuka và tô điểm thêm những đóa sen xanh.

5577. Evaṃ sabbaṅgasampannaṃ accimantaṃ pabhassaraṃ, odhisuṅkaṃ mahārāja passa tvaṃ dipaduttama. 

Tâu Chúa thượng, xin ngự lãm viên ngọc sáng rực như lửa này với vẻ đẹp toàn mỹ, đó sẽ là giải thưởng dành cho kẻ thắng cuộc.

Maṇikaṇḍo.

(Dứt) Phẩm Viên Ngọc Ma-ni.

5578. Upāgataṃ rāja upehi lakkhaṃ netādisaṃ maṇiratanaṃ tavatthi, dhammena jiyyāma asāhasena jito ca no khippamavākarohi.

27. Ðại vương, hãy đến đích cầu mong,
Ngài sẽ không giành được bảo trân,
Ta hãy thắng không nhờ bạo lực,
Và ta thắng bởi lẽ công bằng,
Khi ngài thất bại, xin đem trả,
Phần thưởng ngài ban tặng tiểu thần.

5579. Pañcāla paccuggata sūrasena macchā ca maddā saha kekakehi, passantu no te asaṭhena yuddhaṃ na no sabhāyaṃ na karoti kiñci.

28. Hỡi các Ðại vương Pañ-ca-la,
Su-ra-se-na và Mac-cha,
Mad-da cùng với Ke-ka-ka,
Xin các Ðại vương ngắm cuộc cờ,
Không có dối gian hay phỉnh gạt,
Không ai can thiệp việc đôi ta.

5580. Te pāvisuṃ akkhamadena mattā rājā kurūnaṃ puṇṇako cāpi yakkho, rājā kaliṃ vicinaṃ aggahesi kaṭamaggahī puṇṇako nāma yakkho.

Vua Câu-lâu và thần Dạ-xoa Punnaka say sưa bước vào mê hồn trận; vua chơi bài thua cuộc và Punnaka thắng cuộc.

5581. Te tattha jūte ubhayo samāgate raññaṃ sakāse sakhinañca majjhe, ajesi yakkho naraviriyaseṭṭhaṃ tatthappanādo tumulo babhūva.

Cả hai vị giao đấu trước sự chứng kiến của các vị vua và nhiều chứng nhân khác. Thần Dạ-xoa thắng vị vua tối cao của loài người và tiếng reo hò vang dội từ nơi ấy.

5582. Jayo mahārāja parājayo ca āyūhataṃ aññatarassa hoti, janinda jinosi varaṃ dhanena jito ca me khippamavākarohi. 

29. Thắng, bại thuộc về một phía thôi,
Giữa hai phe chiến đấu tranh tài,
Ðại vương đã mất phần ưu thắng,
Chiến bại, xin trao giải thưởng tôi.

5583. Hatthī gavāssā maṇikuṇḍalā ca yaṃ cāpi mayhaṃ ratanaṃ pathavyā, gaṇhāhi kaccāna varaṃ dhanānaṃ ādāya yenicchasi tena gaccha.

30. Ngựa, voi, bò, ngọc quý, hoa tai,
Bất cứ gì ta có ở đời,
Hãy lấy món nào cao quý nhất,
Kac-cà-na, nhận rồi đi thôi.

5584. Hatthī gavāssā maṇikuṇḍalā ca yañcāpi tuyhaṃ ratanaṃ pathavyā, tesaṃ varo vidhuro nāma kattā so me jito taṃ me avākarohi.

31. Ngựa, voi, bò, ngọc quý, hoa tai,
Bất cứ gì ngài có ở đời,
Vi-dhu-ra đại thần ưu thắng,
Người đã được tôi chiếm đoạt rồi!

5585. Attā ca me so saraṇaṃ gatī ca dīpo ca leṇo ca parāyano ca, asantuleyyo mama so dhanena pāṇena me sadiso esa kattā.

32. Vị đại thần ta, chỗ trú an,
Là người giúp đỡ, chốn nương thân,
Chính là thành lũy, thần phù hộ,
Vị đại thần không thể sánh bằng,
Giá trị bạc vàng, tài sản quý,
Người như sinh mạng của vương quân.

5586. Ciraṃ vivādo mama tuyhamassa kāmañca pucchāma tameva gantvā, esova no vivaratu etamatthaṃ yaṃ vakkhatī hotu kathā ubhinnaṃ.

33. Chúng ta tranh chấp sẽ dài dòng,
Ta hãy đi tìm vị đại thần,
Hỏi vị ấy điều gì ước muốn,
Ðể người quyết định vấn đề chung,
Những gì người định phần tiên quyết,
Là bản án phân xử cuối cùng.

5587. Addhā hi saccaṃ bhaṇasi na ca māṇava sāhasaṃ, tameva gantvā pucchāma tena tussāmubho janā.

34. Công tử, chàng ăn nói chánh chân,
Quả chàng chẳng nói thiếu công bằng,
Chúng ta đi gặp người và hỏi,
Theo cách này, ta sẽ đẹp lòng.

5588. Saccannu devā vidahū kurūnaṃ dhamme ṭhitaṃ vidhuraṃ nāmamaccaṃ, dāsosi rañño udavāsi ñātī vidhuroti saṅkhā katamāsi loke.

35. Thật chư Thiên phái xuống phàm trần,
Ðến xứ Câu-lâu làm đại thần,
Cố vấn Vi-dhu-ra chánh trực,
Ngài là quyến thuộc hoặc tùy tùng,
Của vương gia đấy, xin ngài nói,
Giá trị của ngài giữa thế nhân?

5589. Āmāya dāsāmi bhavanti heke dhanena kītāpi bhavanti dāsā, sayampi heke upayanti dāsā bhayā paṇunnāpi bhavanti dāsā ete narānaṃ caturova dāsā.

36. Một số nô tài thuở mẹ sinh,
Kẻ vì tiền phải bán thân mình,
Nhiều người tự nguyện làm nô lệ,
Kẻ khác nô tài bởi hãi kinh.
Ðây bốn loại nô tài tất cả,
Ở trên trần thế giữa nhân sinh.

5590. Addhā hi yonito ahampi jāto bhavo ca rañño abhavo ca rañño, dāsāhaṃ devassa parampi gantvā dhammena maṃ māṇava tuyhaṃ dajjā.  

37. Ta chính nô tài tự mẹ cha,
Khổ ưu phát xuất tự vương gia,
Ta là nô lệ đức vua đó,
Cho dẫu ta theo kẻ khác mà.
Ngài có quyền đem ta tặng cậu,
Hỡi chàng nam tử tự phương xa!

5591. Ayampi dutiyo vijayo mamajja puṭṭho hi kattā vivarittha pañhaṃ. adhammarūpo vata rājaseṭṭho subhāsitaṃ nānujānāsi mayhaṃ.

38. Hôm nay tôi chiến thắng lần hai,
Ðược hỏi, đại thần đã đáp ngài,
Thật vậy, Ðại vương không đúng lý,
Việc này đã quyết định xong xuôi,
Nhưng ngài không muốn đem trao trả,
Phần thưởng ngài dành để tặng tôi!

5592. Evaṃ ce no so vivarettha pañhaṃ dāsohamasmi na ca khosmi ñāti, gaṇhāhi kaccāna varaṃ dhanānaṃ ādāya yenicchasi tena gaccha.

39. Nói gã trả lời câu hỏi ta:
“Ta là nô lệ của vương gia,
Chứ không quyến thuộc”, thì chàng nhận,
Bảo vật tối ưu này của ta,
Kac-cà-na, nhận ngay, chàng hỡi,
Rồi hãy đi đâu hợp ý mà.

Akkhakaṇḍo.

(Dứt) Phẩm Trò Đổ Súc Sắc.

5593. Vidhura vasamānassa gahaṭṭhassa sakaṃ gharaṃ, khemā vutti kathaṃ assa kathannu assa saṅgaho.

Thưa bậc Trí giả Vidhura, làm thế nào có được cuộc sống hưng thịnh cho một cư sĩ tại gia? Làm thế nào có được lòng ưu ái của đồng loại mình?

5594. Avyāpajjhaṃ kathaṃ assa saccavādī ca māṇavo, asmā lokā paraṃ lokaṃ kathaṃ pecca na socati.  

Làm thế nào thoát được đau khổ? Và làm thế nào chàng niên thiếu nói điều chân thật thoát được mọi ưu não khi qua đến đời sau?

5595. Taṃ tattha gatimā dhitimā matimā atthadassimā, saṅkhātā sabbadhammānaṃ vidhuro etadabravi.  

Lúc ấy Vidhura đầy đủ đại trí và minh sát, là bậc thấy mục đích chân lý và đang vững tâm tiến lên, bậc thông thạo mọi pháp lành liền nói những lời này:

5596. Na sādhāraṇadārassa na bhuñje sādumekako, na seve lokāyatikaṃ netaṃ paññāya vaddhanaṃ.

Ðừng chung chạ vợ người, đừng hưởng cao lương mỹ vị một mình, đừng nói chuyện phù phiếm, vì việc này không tăng trưởng trí tuệ.

5597. Sīlavā vattasampanno appamatto vicakkhaṇo, nivātavutti atthaddho surato sakhilo mudu.

Phải đức độ, tận tụy với nhiệm vụ mình, không phóng dật, sáng suốt, khiêm tốn, không nhẫn tâm, đầy từ bi, thân ái, hòa nhã,

5598. Saṅgahetā ca mittānaṃ saṃvibhāgī vidhānavā, tappeyya annapānena sadā samaṇabrāhmaṇe.

khéo léo chinh phục bạn lành, sẵn sàng phân phát bố thí, thận trọng sắp xếp công việc tùy theo mùa, luôn luôn sẵn sàng cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn đầy đủ vật thực.

5599. Dhammakāmo sutādhāro bhaveyya paripucchako, sakkaccaṃ payirupāseyya sīlavante bahussute.

Phải mong cầu công chính và làm cột trụ hộ trì Chánh pháp, sẵn sàng học hỏi và cung kính theo hầu các bậc đa văn đầy đức độ.

5600. Gharamāvasamānassa gahaṭṭhassa sakaṃ gharaṃ, khemā vutti siyā evaṃ evannu assa saṅgaho.

Như vậy sẽ là cuộc sống hưng thịnh cho một cư sĩ tại gia, như vậy là sẽ chiếm được lòng ưu ái của đồng loại mình,

5601. Avyāpajjho siyā evaṃ saccacavādī ca māṇavo, asmā lokā paraṃ lokaṃ evaṃ pecca na socati.

như vậy là sẽ thoát khổ; và như vậy là chàng trẻ tuổi nói điều chân thật sẽ thoát khỏi sầu bi khi sang đến đời sau.

Gharāvāsapañho.

(Dứt) Câu Hỏi về Cuộc Sống Tại Gia.

5602. Ehi dāni gamissāma dinno no issarena me, mamevatthaṃ paṭipajja esa dhammo sanantano.

Xin ngài đến đây, ta cùng khởi hành, đức vua đã trao ngài cho tiểu sinh; vậy phải theo đúng nhiệm vụ đó. Ấy là qui luật từ ngàn đời.

5603. Jānāmi māṇava tayāhamasmi dinnohamasmi tava issarena, tīhañca taṃ vāsayemu agāre yenaddhunā anusāsemu putte.

Hỡi thiếu sinh, ta biết lắm, chàng đã chiếm được ta, đức vua đã giao ta cho chàng, ta xin mời chàng về nghỉ ngơi tại nhà ta ba ngày nữa để ta dặn dò các con ta.

5604. Taṃ me tathā hotu vasemu tīhaṃ kurutaṃ bhavaṃ ajja gharesu kiccaṃ, anusāsataṃ puttadāre bhavajja yathā tayī pacchā sukhī bhaveyya.

– Chuyện này cũng thuận lợi cho tiểu sinh, vậy ta cùng ở lại đó ba ngày, thưa bậc Trí giả, nếu có việc gì cần giải quyết trong gia đình của bậc Trí giả, xin chỉ dạy cho quý phu nhân và các công tử, hầu mong các vị được hạnh phúc sau khi ngài đi rồi.

5605. Sādhūti vatvāna pahūtakāmo pakkāmi yakkho vidhurena saddhiṃ, taṃ kuñjarājaññahayānuciṇṇaṃ pāvekkhi antopuram ariyaseṭṭho.

Nói xong Punnaka cùng bậc Ðại Sĩ đi về tư thất ngài.

Lòng đầy hoan hỷ và háo hức khát khao, chàng Dạ-xoa đi cùng bậc Trí giả Vidhura, vị đệ nhất hiền giả, đưa chàng vào nội thất với đoàn bảo tượng và tuấn mã theo hầu.

5606. Koñcaṃ mayūrañca piyañca ketaṃ upāgami tattha surammarūpaṃ, pahūtabhakkhaṃ bahuannapānaṃ masakkasāraṃ viya vāsavassa.

40. Chàng đã đến nơi chốn đại gia:
Koñca, Mayùra, Piyaketa,
Mỗi nơi một cảnh đầy hoan lạc,
Phong phú thức ăn uống cả nhà,
Trông giống thiên cung trên thượng giới,
Của Ind-ra, đại đế Sak-ka.

5607. Tattha naccanti gāyanti avhayanti varā varaṃ, accharā viya devesu nāriyo samalaṅkatā.

Các mỹ nữ điểm trang diễm lệ như các Thiên thần, ca múa trò chuyện cùng chàng, mỗi nàng đều gắng sức đem hết mọi tài năng ra biểu diễn.

5608. Samaṅgi katvā pamadāhi yakkhaṃ, annena pānena ca dhammapālo, attattham evānuvicintayanto pāvekkhi bhariyāya tadā sakāse.

Bậc hộ trì Chánh pháp ấy, sau khi cho chàng hưởng cao lương mỹ vị cùng nữ sắc, liền nghĩđến việc cao quý bậc nhất, là mang chàng vào giới thiệu cùng phu nhân.

5609. Taṃ candanagandharasānulittaṃ suvaṇṇajambonadanikkhasādisaṃ, bhariyaṃ vacā ehi suṇohi bhoti puttāni āmantaya tambanette. 

Ngài bảo phu nhân đã được trang điểm bằng hương chiên-đàn cùng nhiều hương thơm khácđang đứng như một thanh bội hoàn bằng vàng ròng: – Này phu nhân nghe đây, hãy gọi các nam tử đến ngay, hỡi phu nhân có đôi mắt đẹp màu hổ hoàng.

5610. Sutvāna vākyaṃ patino anujjā sunisaṃ vaca tambanakhī sunettaṃ, āmantaya vammadharāni cete puttāni indīvarapupphasāme.

Anujjà nghe phu quân gọi liền bảo con dâu, một mỹ nhân có đôi mắt tuyệt trần, móng tay sáng rực như đồng: – Này Cetà, nàng đeo vòng vàng lục lạc chẳng khác nào bào giáp, nàng là đóa súng xanh mơn mởn, hãy đi gọi các con ta lại đây. 

5611. Te āgate muddhani dhammapālo cumbitvā putte avikampamāno, āmantayitvāna avoca vākyaṃ dinnāhaṃ raññā idha māṇavassa.

Bậc hộ trì Chánh pháp, lòng không chút sợ hãi, hôn trán các con khi họ đến gần ngài, và sau khi chào hỏi xong, ngài bảo họ: – Ta được đức vua giao cho chàng thiếu sinh này.

5612. Tassajjahaṃ attasukhī vidheyyo ādāya yenicchati tena gacchati, ahaṃ ca vo sāsituṃ āgatosmi kathaṃ ahaṃ aparittāya gacche.

Ta thuộc quyền sở hữu của chàng rồi, nhưng hôm nay ta còn được tự do tìm thú vui riêng cho mình, rồi chàng sẽ đem ta đi đâu tùy ý, cho nên ta muốn nhắn nhủ các con đôi điều, vì làm sao ta ra đi mà không tìm cách cứu khổ các conđược?

5613. Sace vo rājā kurukhettavāsī janasandho puccheyya pahūtakāmo, kimābhijānātha pure purāṇaṃ kiṃ vo pitā anusāse puratthā.

Ví như Janasandha, vua xứ Câu Lâu, trịnh trọng hỏi các con: “Các khanh xem cái gì thật cổ kính ngay trong thời thượng cổ? Thân phụ các khanh dạy bảo điều gì tiên khởi và tối thượng”?

5614. Samāsanā hotha mayāva sabbe konīdha rañño abbhatiko manusso, tamañjaliṃ kariya vadetha evaṃ mā heva deva na hi esa dhammo, viyaggharājassa nihīnajacco samāsano deva kathaṃ bhaveyya.

Rồi ví như nhà vua bảo: “Các khanh đồng đẳng với ta, ai trong các khanh lại không hơn một vị vua đã chứ”?, các con sẽ kính cẩn đảnh lễ vua và tâu: “Xin Ðại vương đừng nói vậy, không có luật lệ nào như thế cả, làm sao một con chó rừng hèn mọn lại đồng đẳng với một vương hổ được”?

Pekkhanakaṇḍo.

(Dứt) Phẩm Thăm Nom.

5615. So ca mitte amacce ca ñātayo suhadaṃ jane, alīnamanasaṅkappo vidhuro etadabravi.

Khi ấy Vidhura thuyết Pháp cho tất cả thân bằng lẫn cừu thù, quyến thuộc cùng thê tử, tâm trí ngài viễn ly mọi sắc pháp:

5616. Ethayyo rājavasatiṃ nisīditvā suṇotha me, yathā rājakulaṃ patto yasaṃ poso nigacchati.

– Này các vị hãy đến đây nghe cho kỹ trong khi ta nói về chốn triều đình, làm thế nào một nam tử vào chốn triều đình có thể đạt vinh quang.

5617. Na hi rājakulaṃ patto aññāto labhate yasaṃ, nāsūro napi dummedho nappamatto kudācanaṃ.

Khi vào chốn triều đình còn là vô danh tiểu tốt, y không có thể có được vinh quang đâu, cũng không thể đạt vinh quang nếu y là một tên hèn nhát, ngu ngốc hoặc vô tâm.

5618. Yadāssa sīlaṃ paññañca soceyyañcādhigacchati, atha vissasate tyamhi guyhañcassa na rakkhati.

Khi nào vua nhận thấy đức độ của y, tài trí cũng như lòng thanh liêm của y, vua mới tin tưởng y và không giấu y những điều bí mật của ngài.

5619. Tulā yathā paggahitā samadaṇḍā sudhāritā, ajjhiṭṭho na vikampeyya sa rājavasatiṃ vase.

Khi nào được lệnh thi hành một việc gì, y không được ngần ngại, như một chiếc cân thật chính xác, với cán cân thật ngang bằng

5620. Tulā yathā paggahitā samadaṇḍā sudhāritā, sabbāni abhisambhonto sa rājavasatiṃ vase.

và như chiếc cân kia, nếu y sẵn sàng đảm trách mọi gánh nặng, y mới có thể ở chốn triều đình.

5621. Divā vā yadi vā rattiṃ rājakiccesu paṇḍito, ajjhiṭṭho na vikampeyya sa rājavasatiṃ vase.

Bất kỳ ngày đêm, một trí giả cũng không ngần ngại gì khi được giao quốc sự; một người như thế mới có thể ở chốn triều đình.

5622. Divā vā yadi vā rattiṃ rājakiccesu paṇḍito, sabbāni abhisambhonto sa rājavasatiṃ vase.

Một bậc trí giả, khi được giao quốc sự, bất kỳ ngày đêm cũng phải đảm nhận mọi nhiệm vụ. Một người như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

5623. Yo cassa sukato maggo rañño suppaṭiyādito, na tena vutto gaccheyya sa rājavasatiṃ vase.

Người nào thấy được đạo lộ dành cho vua và thận trọng sắp xếp mọi việc thuận lợi cho ngài, mà chính mình không dám bước vào đó, dù được mời làm như vậy, kẻ ấy mới có thể ở chốn triều đình.

5624. Na rañño samakaṃ bhuñje kāmabhoge kudācanaṃ, sabbattha pacchato gacche sa rājavasatiṃ vase.

Ðừng vì một duyên cớ gì vui hưởng các lạc thú như vua, mà phải theo sau hầu vua trong mọi việc, một kẻ như thế mới có thể ở trong chốn triều đình.

5625. Na rañño sadisaṃ vatthaṃ na mālaṃ na vilepanaṃ, ākappaṃ sarakuttiṃ vā na rañño sadisamācare, aññaṃ kareyya ākappaṃ sa rājavasatiṃ vase.

Ðừng mặc y phục như vua, cũng không mang tràng hoa, xức dầu thơm như vua dùng, cũng không đeo các đồ trang sức như vua hay nói giọng như vua được; bao giờ cũng phải tạo một dáng điệu khác, cách phục sức khác. Một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

5626. Kīḷe rājā amaccehi bhariyāhi parivārito, nāmacco rājabhariyāsu bhāvaṃ kubbetha paṇḍito.

Nếu vua đang vui đùa cùng các cận thần hay đang được các cung nữ vây quanh ngài, thì vị cận thần không nên nói bóng gió với các cung phi ấy.

5727. Anuddhato acapalo nipako saṃvutindriyo, manopaṇidhisampanno sa rājavasatiṃ vase.

Người nào không dương dương tự đắc cũng không nhẹ dạ chóng đổi thay, mà phải thận trọng, luôn luôn biết tự chủ, người nào đạt được minh trí và quyết tâm, người như vậy mới có thể ở chốn cung đình.

5728. Nāssa bhariyāhi kīḷeyya na manteyya rahogato, nāssa kosā dhanaṃ gaṇhe sa rājavasatiṃ vase.

Ðừng đùa cợt với các cung phi, cũng không nói chuyện riêng với họ, đừng lấy của cải trong công khố. Người như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

5729. Na niddantaṃ bahuṃ maññe na madāya suraṃ pive, nāssa dāye migaṃ haññe sa rājavasatiṃ vase.

Ðừng nghĩ nhiều đến việc ngủ nghỉ, cũng không ham rượu nồng quá độ, không giết hươu nai trong vườn ngự uyển, một kẻ như vậy mới ở được chốn cung đình.

5730. Nāsasa pīṭhaṃ na pallaṅkaṃ na kocchaṃ na nāgaṃ rathaṃ, sammatomhīti ārūhe sa rājavasatiṃ vase.

Ðừng ngồi trên vương tọa, long sàng, kim đôn, vương tượng hoặc vương xa, vì nghĩ mình là kẻ có đặc quyền, một người như vậy mới có thể ở được chốn cung đình.

5631. Nātidūre bhave rañño nāccāsanne vicakkhaṇo, samekkhaṃ cassa tiṭṭheyya sandissanto sabhattuno.

Ðứng e dè giữ mình quá xa cách vua, nhưng cũng đừng quá gần gũi ngài, luôn luôn sẵn sàng túc trực bên ngài, tâu gửi đôi điều lên đấng chúa công.

5632. Na ve rājā sakhā hoti na rājā hoti methuno, khippaṃ kujjhanti rājāno sūkenakkhīva ghaṭṭitaṃ.

Ðừng xem vua như một kẻ thường dân, không nên so sánh vua với bất kỳ một ai khác. Vua chúa rất dễ nổi cơn thịnh nộ, như con mắt dễ bị đau nếu đụng nhằm râu hạt thóc vậy.

5633. Na pūjito maññamāno medhāvī paṇḍito naro, pharusaṃ patimanteyya rājānaṃ parisaṃ gataṃ.

Vị hiền trí không nên nghĩ rằng mình đang được ân sủng, lại cả gan nói năng thô lỗ với vua đa nghi.

5634. Laddhadvāro labhedvāraṃ neva rājūsu vissase, aggīva yato tiṭṭheyya sa rājavasatiṃ vase.

Nếu vị ấy gặp được vận may thì cứ chụp lấy, nhưng đừng tin tưởng vào vua chúa, phải luôn luôn biết phòng thân như đề phòng hỏa hoạn, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

5635. Puttaṃ vā bhātaraṃ saṃ vā sampaggaṇhāti khattiyo, gāmehi nigamehi vā raṭṭhe janapadehi vā, tuṇhī bhūto upekkheyya na bhaṇe chekapāpakaṃ.

Nếu vua sủng ái con hay em của ngài rồi ban cho họ một vài thôn làng, thị thành hay vài triều thần làm tùy tùng của họ, thì kẻ đó phải biết yên lặng chờ đợi, đừng bảo là vua khôn khéo hay lỗi lầm gì.

5636. Hatthārūhe anīkaṭṭhe rathike pattikārake, tesaṃ kammāvadānena rājā vaḍḍheti vetanaṃ, na tesaṃ antarā gacche sa rājavasatiṃ vase.

Nếu vua tăng lương cho quan quản tượng hay vệ sĩ của ngài, hoặc pháo binh hay bộ binh của ngài vì nghe được các chiến công của họ, kẻ ấy đừng nên xen vào cản trở việc trên, một kẻ như vậy mới có thể ở được chốn triều đình.

5637. Cāpovūnūdaro dhīro vaṃso vāpi pakampiyo, paṭilomaṃ na vatteyya sa rājavasatiṃ vase.

Bậc trí giả phải biết giữ bụng bé như cây cung, nhưng lại biết uốn cong dễ dàng như cây tre; đừng làm phật ý vua, như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

5638. Cāpovūnūdaro assa macchovassa ajivhavā, appāsī nipako sūro sa rājavasatiṃ vase.

Phải biết giữ bụng bé như cây cung, mồm lặng thinh như loài cá, phải ăn uống chừng mực, can đảm và thận trọng. Một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

5639. Na bāḷhaṃ itthiṃ gaccheyya sampassaṃ tejasaṅkhayaṃ, kāsaṃ sāsaṃ daraṃ balyaṃ khīṇamedho nigacchati.

Ðừng lui tới với nữ nhân quá nhiều, sợ rằng phải hao mòn sinh lực, kẻ ngu ngốc chính là nạn nhân của bệnh ho hen, đau nhức mình mẩy và tính trẻ con,

5640. Nātivelaṃ pabhāseyya na tuṇhī sabbadā siyā, avikiṇṇaṃ mitaṃ vācaṃ patte kāle udīraye.

đừng cười cợt thái quá, cũng đừng quá lặng lẽ, phải biết nói năng lúc thời cơ thuận tiện đến, lời nói phải khúc chiết, rõ ràng, được cân nhắc kỹ lưỡng.

5641. Akkodhano asaṃghaṭṭho sacco saṇho apesuno, samphaṃ giraṃ na bhāseyya sa rājavasatiṃ vase.

Ðừng buông mình theo cơn nóng giận, cũng đừng chực sẵn sàng gây hận, lời lẽ phải chân thật, dịu dàng, không vọng ngữ và đừng nói năng nhảm nhí. Một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

5642. Mātāpettibharo assa kule jeṭṭhāpacāyiko, hiriottappasampanno sa rājavasatiṃ vase.

5643. Vinīto sippavā danto katatto niyato mudu, appamatto suci dakkho sa rājavasatiṃ vase.

Phải biết tự rèn luyện, học hỏi, tự chủ, có kinh nghiệm trong việc giao thương, ôn hòa, dịu dàng, thận trọng, liêm khiết, khéo léo. Một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

5644. Nivātavutti vaddhesu sappatisso sagāravo, surato sukhasambhāso sa rājavasatiṃ vase.

Ðối xử khiêm tốn với người trên, sẵn sàng nghe lời kẻ khác, đầy lòng kính cẩn, từ ái, sống dễ chịu với người xung quanh. Một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

5645. Ārakā parivajjeyya sahituṃ pahitaṃ janaṃ, bhattāraññevudikkheyya anaññassa ca rājino.

Phải biết lánh xa sứ giả của ngoại bang sai đến thương thảo, chỉ lưu tâm đến vị chúa tể của mình, đừng biết đến vị vua nào khác.

5646. Samaṇe brāhmaṇe cāpi sīlavante bahussute, sakkaccaṃ payirupāseyya sa rājavasatiṃ vase.

Phải biết tôn trọng các Sa-môn, Bà-la-môn đức độ và đa văn, phải biết cung phụng các vị ấy, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

5647. Samaṇe brāhmaṇe cāpi sīlavante bahussute, sakkaccaṃ anuvāseyya sa rājavasatiṃ vase.

5648. Samaṇe brāhmaṇe cāpi sīlavante bahussute, tappeyya annapānena sa rājavasatiṃ vase.

Phải biết cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn đức độ và đa văn đầy đủ vật dụng ăn uống, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

5649. Samaṇe brāhmaṇe cāpi sīlavante bahussute, āsajja paññe sevetha ākaṅkhaṃ vuddhimattano.

Phải biết đến gần và thành tâm phụng sự các Sa-môn và Bà-la-môn đức độ, đa văn, cầu mong đó là việc thiện chân chính của mình.

5650. Dinnapubbaṃ na hāpeyya dānaṃ samaṇabrāhmaṇe, na ca kiñci nivāreyya dānakāle vaṇibbake.

Ðừng tìm cách tước đoạt của các Sa-môn, Bà-la-môn những vật được cúng dường cho họ trước kia và đừng tìm cách ngăn cản các khất sĩ vào lúc chẩn tế.

5651. Paññavā buddhisampanno vidhānavidhikovido, kālaññū samayaññū ca sa rājavasatiṃ vase.

Một kẻ công chính, đầy đủ đại trí, khéo léo sắp xếp mọi công việc, thông thạo mọi thời cơ, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

5652. Uṭṭhātā kammadheyyesu appamatto vicakkhaṇo, susaṃvihitakammanto sa rājavasatiṃ vase.

Một người đầy nghị lực lúc làm việc, thận trọng khéo léo, có khả năng tiến hành công việc đến thành quả mỹ mãn, người ấy mới có thể ở được chốn triều đình.

5653. Khalaṃ sālaṃ pasuṃ khettaṃ gantā cassa abhikkhaṇaṃ, mitaṃ dhaññaṃ nidhāpeyya mitañca pācaye ghare.

Phải thăm viếng thường xuyên các sân đập lúa, đàn trâu bò, gia súc, ruộng nương, phải cho cân thóc thật kỹ lưỡng và cất vào vựa, phải bảo đong lường kỹ mỗi khi nấu nướng trong nhà mình.

5654. Puttaṃ vā bhātaraṃ saṃ vā sīlesu asamāhitaṃ, anaṅgavā hi te bālā yathā petā tatheva te, colañca nesaṃ piṇḍañca āsīnānaṃ va dāpaye.

Ðừng sử dụng hay đề bạt con hay em trai thiếu đức độ vững vàng, những con em như vậy không phải là những phần tử chân chính của giống nòi mình, phải xem chúng như chết rồi. Phải đem y phục, vật thực cấp dưỡng cho chúng và bảo chúng ngồi im mà nhận lấy.

5655. Dāse kammakare pesse sīlesu susamāhite, dakkhe uṭṭhānasampanne ādhipaccasmiṃ ṭhāpaye.

Phải biết dùng ở cửa công những tùy tướng có đức độ vững vàng, khéo léo làm việc và biết đối phó lúc ngộ biến.

5656. Sīlavā ca alolo ca anuratto cassa rājino, āvī raho hito tassa sa rājavasatiṃ vase.

Một kẻ đức độ, vô tham, tận tụy với quân vương, luôn có mặt bên ngài và mưu cầu quyền lợi cho ngài một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

5657. Chandaññū rājino assa cittaṭṭho cassa rājino, asaṅkusakavattissa sa rājavasatiṃ vase.

Phải biết rõ ý vua, theo sát tâm tư ngài, đừng bao giờ hành động trái ý ngài, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn cung đình,

5658. Ucchādaye ca nahāpaye dhove pāde adhosiraṃ, āhatopi na kuppeyya sa rājavasatiṃ vase.

phải xoa dầu thơm và tắm cho ngài, phải cúi đầu xuống khi rửa chân cho ngài; khi bị trừng phạt không hề tức giận, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

5659. Kumbhampi pañjaliṃ kuriyā vāyasaṃ vā padakkhiṇaṃ, kimeva sabbakāmānaṃ dātāraṃ dhīramuttamaṃ.

Phải biết cúi đầu chào một chiếc bình đầy nước hay cung kính thi lễ một con quạ, hơn thế nữa, còn phải ban phát đầy đủ cho mọi kẻ cầu xin, lúc nào cũng phải tỏ ra khôn ngoan và lỗi lạc.

5660. Yo deti sayanaṃ vatthaṃ yānaṃ āvasathaṃ gharaṃ, pajjunnoriva bhūtāni bhogehi mabhivassati.

Phải biết bố thí, tọa cụ, y phục, xe pháo, nhà cửa, tư dinh, phải tưới tràn đầy phúc lộc cho mọi người như một vầng mây lớn.

5661. Esayyo rājavasati vattamāno yathā naro, ārādhayati rājānaṃ pūjaṃ labhati bhattusu.

Thưa quý vị, đó là cách để ở được chốn triều đình, đó là cách cư xử để được ân sủng của vua chúa, để được vinh quang do các ngài ban thưởng. (còn tiếp)

Rājavasatikaṇḍaṃ.

(Dứt) Phẩm Chốn Triều Đình.

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh III“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt

* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh III
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *