Saya Thetgyi

 

Tiểu Sử Thiền Sư Saya Thetgyi (1873-1945)

Saya Thetgyi sinh ngày 27 tháng 6 năm 1873 tại làng quê Pyawbwegyi, cách Yangon 8 dặm về phía nam, và được đặt tên là Maung Po Thet. Cậu có hai em trai và một em gái. Khi Maung Po Thet khoảng 10 tuổi thì cha mất, để lại bà mẹ phải nuôi nấng bốn đứa con nhỏ. Mẹ cậu làm và bán khoai chiên để kiếm tiền nuôi gia đình, và cậu phải phụ giúp mẹ đi khắp làng để bán hết hàng cho mẹ.

Vì cần phải phụ giúp gia đình, Maung Po chỉ được học hành tại trường rất ít — khoảng sáu năm. Cha mẹ cậu không có đất đai hay ruộng vườn gì cả, và họ thường phải đi mót lúa ở các ruộng vào mỗi vụ gặt.

Khi lên 14 tuổi, cậu đi kéo xe bò chở lúa thuê để kiếm tiền. Ðược bao nhiêu tiền cậu đều đưa về cho mẹ. Dạo đó cậu còn rất bé nên phải mang theo một cái thùng gỗ đặc biệt để leo lên xe hay xuống xe.

 

Theo tục lệ, khi lên khoảng 16 tuổi, cậu cưới vợ là cô Ma Hmyin. Vợ cậu là con gái út của một điền chủ và nhà buôn gạo giàu có. Vợ chồng Maung Po sinh được hai con, một gái và một trai. Cũng theo tục lệ, họ sống chung ở nhà vợ với cha mẹ và hai chị gái của vợ. Chị thứ hai tên là Ma Yin sống độc thân và trông nom rất thành công một công việc kinh doanh nhỏ. Về sau bà chị này giúp đỡ U Thet rất đắc lực trong việc thực hành và giảng dạy thiền của ông. Khoảng 23 tuổi, U Thet bắt đầu luyện tập thiền với một thiền sư tại gia, Saya Nyunt. Ông đã học được của thiền sư này phương pháp ànàpàna (niệm hơi thở) thực hành nó trong 7 năm.

Hai vợ chồng U Thet có nhiều bạn bè và họ hàng sống gần gũi trong làng. Với đông đảo chú bác, cô dì, anh chị em và các cháu họ, bên nội bên ngoại, họ sống một nếp sống đồng quê đầy thơ mộng trong sự hòa hợp và đầm ấm giữa gia đình và bè bạn. Cảnh an bình hạnh phúc này đã tan biến khi một trận dịch tả tàn phá làng vào năm 1903. Nhiều dân làng bị chết, có người chết chỉ sau vài ngày mắc bệnh. U Thet cũng mất cả hai đứa con và những người thân khác. Tai ương này đã tác động mạnh đến U Thet. Ông không thể tìm được sự an ủi nào nữa, và trong cảnh tuyệt vọng ông muốn tìm ra lối thoát cho cảnh cùng khổ của mình. Ông xin phép vợ, chị dâu và gia đình để ông rời bỏ làng quê. Ông để lại công việc đồng áng cho gia đình gánh vác, rồi ông ra đi tìm đường thiêng liêng, cùng với một người bạn đồng hành và môn đệ là U Nyo.

U Thet đi lang thang khắp nước Myanma trong cuộc tìm kiếm thiêng liêng của mình, đến thăm các khu ẩn cư trên núi và các tu viện trong rừng, học hỏi với các thầy dạy khác nhau, cả tu sĩ lẫn người thế tục. Sau cùng, theo lời khuyên của thầy cũ là Saya Nyunt, ông đi lên miền bắc tới Monywa để thụ giáo với Đại Thiền Sư Ledi Sayadaw.

U Thet ở với Ngài Ledi Sayadaw cả thảy bảy năm, trong suốt thời gian này vợ và chị dâu của ông cấp dưỡng cho ông bằng cách gởi tiền do các vụ thu hoạch hằng năm của gia đình.

Sau bảy năm, ông cùng U Nyo trở về làng, nhưng không trở về nhà cũ của mình. Lúc ông khởi hành, Ledi Sayadaw đã khuyên ông chuyên chăm luyện tập samàdhi (định) và paññā (tuệ) để ông có thể bắt đầu giảng dạy.

Theo lời khuyên của thầy, nên vừa đến Pyawbwegyi, họ đi thẳng tới giảng đường (sala) ở bìa nông trại của gia đình, và họ dùng đó làm hội trường Giáo pháp. Tại đây họ bắt đầu suy niệm liên tục. Họ nhờ một phụ nữ ở gần đó lo cơm nước mỗi ngày hai bữa cho họ trong khi họ hành thiền.

U Thet tiếp tục sống như thế trong suốt một năm. Ông đã tiến bộ nhanh về suy niệm, và sau thời kì này ông cảm thấy cần đến lời khuyên của thầy ông. Ông không thể đích thân đến gặp thầy, nhưng ông biết trong nhà mình có những sách của thầy cất trong tủ. Vì vậy, ông trở về nhà để tham khảo các sách ấy.

Vợ và chị dâu ông rất giận vì ông không trở về nhà sau một thời gian vắng nhà lâu như thế. Vợ ông thậm chí đã quyết định bỏ ông. Khi các chị em thấy U Thet về đến gần nhà, họ quyết định không thèm chào hỏi ông. Nhưng ngay khi ông đến cửa, họ không thể nào cưỡng lại tình cảm của họ và đã vồn vã tiếp đón ông. Họ nói chuyện với nhau một lát, rồi U Thet xin họ tha thứ cho ông, là điều họ sẵn sàng làm ngay.

Họ mời ông dùng trà và dùng bữa với họ. Ông đi kiếm những cuốn sách rồi giải thích cho vợ ông rằng bây giờ ông đang sống theo bát giới và không quay trở về đời sống gia đình nữa. Từ nay họ sẽ sống với nhau như anh chị em.

Vợ và chị dâu của ông mời ông về nhà mỗi ngày để ăn sáng, và họ rất vui lòng tiếp tục cấp dưỡng cho ông. Ông vô cùng biết ơn lòng quảng đại của họ và ông nói cách duy nhất ông có thể trả ơn họ là trao tặng cho họ Giáo pháp.

Lúc đầu người dân làng đều không muốn đến để nghe U Thet giảng dạy. Họ tưởng lầm rằng ông quá đau buồn vì mất các con và xa làng, nên nay ông đã bị điên. Nhưng dần dần qua những lời nói và hành động của ông họ nhận ra rằng ông đã là một con người được biến đổi, một người sống theo Giáo pháp.

U Thet bắt đầu dạy ànàpàna (niệm hơi thở) cho một nhóm khoảng mười lăm người vào năm 1914, khi ông 41 tuổi. Tất cả các thiền sinh đều ở lại nhà khách, có người thỉnh thoảng mới về nhà một lần.

Một năm sau, U Thet đưa vợ, chị dâu và một ít người khác trong gia đình đến thăm và bày tỏ lòng tôn kính đối với thầy của mình. Trong cuộc thăm viếng này, Ledi Sayadaw trao cây gậy của mình cho U Thet và nói: “Này, học trò xuất sắc của thầy, hãy cầm lấy cây gậy của thầy và ra đi. Hãy giữ gìn nó. Thầy không trao gậy này để con được sống lâu, nhưng để làm phần thưởng cho con, để không điều gì bất hạnh xảy ra trong đời con. Con đã thành đạt rồi. Từ nay trở đi, con phải giảng dạy Dhamma về rùpanama (sắc và danh) cho sáu ngàn người. Giáo pháp con đã học biết thì vô tận, vì thế con hãy truyền bá sasana (giáo pháp). Con hãy thay ta làm rạng danh giáo pháp.”

Ledi Sayadaw triệu tập các tì kheo của tu viện Ngài và nói: “Người tại gia này là học trò xuất sắc U Po Thet của ta… Ông có khả năng dạy thiền giống như ta … Hãy học phương pháp của ông và thực hành.” U Thet dạy Thiền Quán (Vipassāna) cho khoảng 25 tì kheo có học của tu viện, lúc này ông đã được gọi là Saya Thegyi (saya nghĩa là thầy; và gyi là một hậu tố chỉ sự kính trọng).

Khi quay trở về làng, Saya Thetgyi bàn bạc với gia đình về cách thức để thi hành lệnh truyền bá thiền của Ngài thiền sư Ledi Sayadaw. Lúc đầu Saya Thetgyi nghĩ mình phải đi khắp nước để giảng dạy, nhưng chị dâu khuyên ông nên ở lại nhà khách và tiếp tục giảng dạy tại hội trường Giáo pháp tại đây. Ðúng như chị dâu ông tiên đoán, nhiều người bắt đầu đến học, và danh tiếng Saya Thetgyi lan rộng như một bậc thiền sư. Ông dạy cho những nông dân chất phác cũng như cho những người thông thạo các bản kinh Pàli. Làng của ông không xa thủ đô Yangon bao nhiêu, nên các nhân viên chính phủ và các người dân thủ đô, như U Ba Khin, cũng đến học.

Từ khi rời trung tâm của Ledi Sayadaw trở về, Saya Thetgyi sống tự lập và chỉ ăn mỗi ngày một bữa, trong cô tịch và thinh lặng.

Trong suốt ba mươi năm ông giảng thiền cho mọi người đến với ông, được hướng dẫn bởi kinh nghiệm thực hành của ông và sử dụng các thủ bản của Ledi Sayadaw làm sách tham khảo. Ðến năm 1945, khi ông 72 tuổi, ông đã hoàn thành sứ mạng giảng dạy cho hàng ngàn người. Vợ ông đã qua đời; chị dâu ông bị liệt; và sức khỏe của chính ông đã suy yếu. Vì the,á ông phân phát hết tài sản của mình cho các cháu trai, cháu gái của ông, còn giữ lại năm mươi mẫu ruộng để duy trì hội đường Giáo pháp.

Ông có hai mươi con trâu đã từng cày ruộng cho ông trong nhiều năm. Ông phân phát tất cả cho những người mà ông biết sẽ đối xử tử tế với chúng, rồi cho chúng đi với những lời này, “Các con là những ân nhân của ta. Cám ơn các con vì nhờ các con mà lúa đã mọc lên. Bây giờ các con không phải làm việc nữa. Cầu mong cho các con được giải thoát khỏi kiếp sống này để có một kiếp sống tốt hơn.”

Saya Thetgyi chuyển đến Yangon vừa để chữa bệnh vừa để ở gần các học sinh của ông tại đây. Một trong số học sinh này đã mở một trung tâm thiền ở triền đồi phía bắc Chùa Shwedagon. Gần đó có một hầm trú bom đã được xây vào thời Thế chiến thứ hai. Saya Thetgyi dùng nơi trú bom này làm hang thiền của mình. Các học sinh của ông từ Yangon, kể cả U Ba Khin, đến thăm ông thường xuyên mỗi khi họ có thời giờ. Hằng đêm ông thường ngồi thiền cùng với các học sinh của ông, con số lên đến khoảng năm mươi người. Trong những cuộc hành thiền tập thể này, Saya Thetgyi thường không nói, chỉ quán tưởng trong thinh lặng. Trong một lần hành thiền như thế, Saya Thetgyi trước đó đã bị nóng lạnh, bỗng nằm ngửa ra và sau một giờ thở rất khó, ông đã qua đời.

Thi hài ông được hỏa táng trên sườn phía bắc của Chùa Shwedagon, và Sayagyi U Ba Khin cùng các học trò của ông sau này đã xây một ngôi chùa nhỏ tại đây. Nhưng có lẽ đài kỉ niệm thích hợp và lâu bền nhất để tưởng nhớ vị thiền sư lỗi lạc chính là sự kiện nhiệm vụ mà Ledi Sayadaw trao phó cho ông để truyền bá Giáo pháp cho mọi tầng lớp xã hội vẫn đang được tiếp tục.

—o0o—

Bài viết về Thiền Sư Saya Thetgyi từ VRIDhamma

 

Early Years – Những năm đầu

Saya Thetgyi (pronounced Sa ya’ taji in Burmese) was born in the farming village of Pyawbwegyi, eight miles south of Rangoon, on the other side of the Rangoon river. He was born on 27 June 1873 and was given the name Maung Po Thet. He had two brothers and a sister, and his father died when he was about ten years old, leaving Maung Po Thet’s mother to care for the four children.

Saya Thetgyi (phát âm là Sa ya’ taji ở Miến Điện) được sinh ra ở làng nông thôn của Pyawbwegyi, tám dặm về phía nam Rangoon, ở phía bên kia của sông Rangoon. Ông sinh ngày 27 tháng 6 năm 1873 và được đặt tên là Maung Po Thet. Ông có hai anh trai và một chị gái, và cha ông mất khi ông khoảng mười tuổi, để lại mẹ của Maung Po Thet để chăm sóc bốn đứa trẻ. 

His mother supported the family by selling vegetable fritters. The little boy was made to go around the village selling leftover fritters, but he often came home having sold none because he was too shy to advertise his wares by calling out. So his mother dispatched two children: Maung Po Thet to carry the fritters on a tray on his head, and his younger sister to call out.

Mẹ ông nuôi gia đình bằng cách bán rau củ rán. Cậu bé được tạo ra để đi quanh làng bán đồ rán còn sót lại, nhưng cậu ta thường về nhà mà không bán được gì vì cậu quá nhút nhát để quảng cáo món hàng của mình bằng cách rao mời. Vì vậy, mẹ của cậu đã phái hai đứa con: Maung Po Thet mang những chiếc rán lên một cái khay trên đầu và chị gái của cậu rao mời. 

Because he was needed to help support the family, his formal education was minimal, only about six years. His parents did not own any land or paddy (rice) fields, and used to collect the stalks of the paddy which were left over after harvesting. One day on the way home from the paddy fields, Maung Po Thet found some little fish in a pond that was drying up. He caught them and brought them home so that he could release them into the village pond. When his mother saw the fish, she was about to beat her son for catching them, but when he explained his intentions to her, she instead exclaimed, “Sadhu, sadhu!” (well-said, well-done). She was a kind, good-hearted woman who never nagged or scolded, but did not tolerate any akusala (immoral) deed.

Bởi vì ông cần phải giúp đỡ gia đình, giáo dục chính thức của ông rất ít, chỉ khoảng sáu năm. Cha mẹ ông không sở hữu bất kỳ mảnh đất hay ruộng lúa nào, và họ đã từng góp nhặt thân cây lúa còn sót lại sau khi thu hoạch. Một ngày nọ trên đường về nhà từ những cánh đồng lúa, Maung Po Thet tìm thấy một vài con cá nhỏ trong một cái ao đang khô cạn. Ông bắt chúng và mang chúng về nhà để ông có thể thả chúng xuống ao làng. Khi mẹ ông nhìn thấy những con cá, bà định đánh con trai mình vì đã bắt chúng, nhưng khi ông giải thích ý định của mình với bà, thay vào đó bà lại thốt lên: “Sadhu, sadhu!” (nói tốt, làm tốt). Bà ấy là một người phụ nữ tốt bụng, có một trái tim nhân hậu, không bao giờ cằn nhằn hay la mắng, nhưng không tha thứ cho bất kỳ hành động akusala (vô đạo đức) nào.

When he was fourteen years old, Maung Po Thet started working as a bullock driver of a cart carrying paddy. He gave his daily wages to his mother. He was so small at the time that he had to take along a special box: standing on it enabled him to get in and out of the cart.

Khi ông mười bốn tuổi, Maung Po Thet bắt đầu làm việc như một người lái xe bò chở lúa. Ông đưa tiền lương hàng ngày cho mẹ. Lúc đó anh ta rất nhỏ đến nỗi phải mang theo một chiếc hộp đặc biệt: đứng trên chiếc hộp để ông có thể lên và xuống xe.

The village of Pyawbwegyi is on a flat cultivated plain, fed by many tributaries which flow into the Rangoon river. When the rice fields are flooded, navigation is a problem, and one of the common means of travel is by sampan(long, flat-bottomed boats). Maung Po Thet’s next job was as a sampan oarsman. The owner of a local rice mill observed the small boy, working so diligently, carrying loads of paddy, and hired him as a tally-man in the mill, at a wage of six rupees per month. At this time he lived by himself in the mill and ate very simple meals, such as a few split pea fritters and rice.

Ngôi làng Pyawbwegyi nằm trên một vùng đồng bằng được canh tác bằng phẳng, được nuôi dưỡng bởi nhiều nhánh sông chảy vào sông Rangoon. Khi các cánh đồng lúa bị ngập lụt, việc lái tàu là một vấn đề, và một trong những phương tiện di chuyển phổ biến là bằng thuyền ba ván (thuyền dài, đáy phẳng). Công việc tiếp theo của Maung Po Thet là một người chèo thuyền ba ván. Chủ một nhà máy xay lúa địa phương quan sát cậu bé nhỏ, làm việc rất siêng năng, mang theo vô số thóc và thuê cậu như người đàn ông cao lớn trong nhà máy, với mức lương sáu rupee mỗi tháng. Lúc này ông sống một mình trong nhà máy và ăn những bữa ăn rất đơn giản, chẳng hạn như vài hạt đậu rán và cơm.

At first he bought rice from the Indian watchman and other labourers. They told him he could help himself to the sweepings of milled rice which were kept for pig and chicken feed. Maung Po Thet refused, saying that he did not want to take the rice without the mill owner’s knowledge. The mill owner found out about this, and gave his permission. As it happened, Maung Po Thet did not have to eat the rice debris for long. The sampan and cart owners gave rice to him because he was such a helpful and willing worker. Maung Po Thet continued to collect the sweepings, however, giving them to poor villagers who could not afford to buy rice.

Lúc đầu, ông mua gạo từ người canh gác Ấn Độ và những người lao động khác. Họ nói với ông rằng ông có thể giúp mình trong việc nhặt vụn gạo xay xát để nuôi lợn và gà. Maung Po Thet từ chối, nói rằng ông không muốn lấy gạo mà không có sự biết đến của chủ nhà máy. Chủ nhà máy phát hiện ra điều này, và cho phép ông. Như đã xảy ra, Maung Po Thet không phải ăn những mảnh vụn gạo lâu. Các chủ thuyền ba ván và xe bò đã đưa gạo cho ông vì ông là một công nhân hữu ích và nhiệt tình. Tuy nhiên, Maung Po Thet tiếp tục góp nhặt vụn gạo xay xát, đưa chúng cho những người dân nghèo không có khả năng mua gạo

After one year, his salary was increased to ten rupees, and after two years, to fifteen. The mill owner offered him money to buy quality rice, and allowed him free milling of one hundred baskets of paddy per month. His monthly salary increased to twenty-five rupees, which supported his mother quite well.

Sau một năm, tiền lương của ông đã tăng lên mười rupee, và sau hai năm, lên mười lăm rupee. Chủ nhà máy xay gạo đã cho ông tiền để mua gạo chất lượng, và cho phép ông xay miễn phí một trăm giỏ lúa mỗi tháng. Tiền lương hàng tháng của ông tăng lên hai mươi lăm rupee, việc này đã hỗ trợ mẹ ông khá nhiều.

Maung Po Thet married Ma Hmyin when he was about sixteen years old, as was customary. His wife was the youngest of three daughters of a well-to-do landowner and paddy merchant. The couple had two children, a daughter and a son. Following the Burmese custom, they lived in a joint family with Ma Hmyin’s parents and sisters. Ma Yin, the younger sister, remained single and managed a successful small business. She was later instrumental in supporting U Po Thet in practicing and teaching meditation.

Maung Po Thet kết hôn với Ma Hmyin khi ông khoảng mười sáu tuổi, theo phong tục. Vợ ông là con út trong ba cô con gái của một chủ đất giàu có và buôn bán lúa. Hai vợ chồng có hai con, một gái và một trai. Theo phong tục Miến Điện, họ sống trong một gia đình chung với cha mẹ và chị gái của Ma Hmyin. Ma Yin, người em gái út, vẫn độc thân và quản lý một doanh nghiệp nhỏ thành công. Sau đó, cô đã có công hỗ trợ U Po Thet trong việc thực hành và giảng dạy thiền định.

Ma Hmyin’s eldest sister Ma Khin married Ko Kaye and had a son, Maung Nyunt. Ko Kaye managed the family paddy fields and business. Maung Po Thet, now called U Po Thet or U Thet (Mr. Thet), also prospered in the buying and selling of paddy.

Chị gái lớn của Ma Hmyin, Ma Khin kết hôn với Ko Kaye và có một con trai, Maung Nyunt. Ko Kaye quản lý các cánh đồng lúa và công việc kinh doanh của gia đình. Maung Po Thet, bây giờ được gọi là U Po Thet hoặc U Thet (Mr. Thet), cũng phát triển thịnh vượng trong việc mua và bán thóc.

As a child, U Thet had not had the opportunity to become a novice monk. (Ordination as a novice is a common and important practice in Burma). It was only when his nephew Maung Nyunt became a novice at twelve years of age that U Thet became a novice himself and later, for a time, an ordained bhikkhu (monk).

Khi còn nhỏ, U Thet không có cơ hội trở thành một tu sĩ mới tu. (Lễ thụ chức như một người sẽ trở thành tu sĩ là một thực hành phổ biến và quan trọng ở Miến Điện). Chỉ đến khi cháu trai Maung Nyunt của ông trở thành một người mới tu ở tuổi mười hai, U Thet mới trở thành một người mới tu và sau đó, trong một thời gian, một Tỳ kheo (tu sĩ) xuất gia.

Introduction to the Anapana Meditation – Giới thiệu về phương pháp Thiền Anapana

When he was around twenty-three, he began to practice meditation with a lay teacher, Saya Nyunt, from whom he learned Anapana. He practiced Anapana for seven years. U Thet and his wife had many friends and relatives living close by in the village. So, with many uncles, nephews, nieces, cousins and in-laws, they led an idyllic life of contentment in the warmth and harmony of family and friends.

Khi ông khoảng hai mươi ba tuổi, ông bắt đầu thực hành thiền định với một giáo viên không chuyên, Saya Nyunt, người mà ông đã học phương pháp Anapana. Ông đã thực hành Anapana trong bảy năm. U Thet và vợ có nhiều bạn bè và người thân sống gần đó trong làng. Vì vậy, với nhiều người chú, cháu trai, cháu gái và anh em họ, và họ đã có một cuộc sống bình dị hài lòng trong sự ấm áp và hòa thuận của gia đình và bạn bè

Life Turning Calamity & Search of “the deathless” – Tai họa cuộc đời & Tìm kiếm “sự bất tử”

This rustic peace and happiness was shattered when a cholera epidemic struck the village in 1903. Many villagers died, some within a few days. They included U Thet’s son and young teenage daughter (who, it is said, died in his arms). His brother-in-law Ko Kaye and his wife also perished from the disease, as well as U Thet’s niece (who was his daughter’s playmate).

Hạnh phúc và sự an vui mộc mạc này đã tan vỡ khi một trận dịch tả tấn công ngôi làng vào năm 1903. Nhiều dân làng đã chết, chỉ trong vài ngày. Họ bao gồm con trai của U Thet và cô con gái tuổi thiếu niên (người được cho là đã chết trong vòng tay của ông). Anh rể của ông, Ko Kaye và vợ cũng đã chết vì căn bệnh này, cũng như cháu gái của U Thet (là bạn chơi cùng con gái ông).

This calamity affected U Thet deeply, and he could not find refuge anywhere. He desperately wanted to find a way out of this misery. He asked permission from his wife and sister-in-law Ma Yin and other relatives to leave the village in search of “the deathless.”

Tai họa này đã ảnh hưởng sâu sắc đến U Thet và ông không thể tìm được nơi nương tựa ở bất cứ đâu. Ông tuyệt vọng muốn tìm cách thoát khỏi cảnh khốn khổ này. Ông xin phép vợ và em vợ Ma Yin và những người thân khác rời khỏi làng để tìm kiếm “sự bất tử”.

U Thet wandered all over Burma in his fervent search, visiting mountain retreats and forest monasteries, studying with different teachers, both monks and laymen. Finally he followed the suggestion of his first teacher, Saya Nyunt, to go north to Monywa to practice with Ven. Ledi Sayadaw. U Thet was accompanied in his wanderings by a devoted companion and follower, U Nyo.

U Thet lang thang khắp Miến Điện trong cuộc tìm kiếm nhiệt thành của mình, viếng thăm các khóa tu trên núi và tu viện trong rừng, học với các giáo viên khác nhau, cả tu sĩ và cư sĩ. Cuối cùng ông đã làm theo gợi ý của giáo viên đầu tiên của mình, Saya Nyunt, đi về phía bắc đến Monywa để luyện tập với Ven. Ledi Sayadaw. U Thet được đi cùng trong một chuyến đi lang thang của mình bởi một người bạn đồng hành tận tụy và người theo dõi, U Nyo. 

During these years of his spiritual searching, U Thet’s wife and sister-in-law remained in Pyawbwegyi and managed the rice fields. In the first few years he returned a few times to see that all was well. But when he found that the family was prospering, he began to meditate more continuously. U Thet stayed with Ledi Sayadaw for seven years in all, during which time his wife and sister-in-law supported him by sending money each year from the harvest of the family farmland.

Trong những năm tìm kiếm tâm linh của ông, vợ và em vợ của U Thet vẫn ở Pyawbwegyi và quản lý các cánh đồng lúa. Trong vài năm đầu, ông đã quay về một vài lần để thấy rằng tất cả đều ổn. Nhưng khi thấy gia đình thịnh vượng, ông bắt đầu thiền liên tục hơn. U Thet đã ở với Ledi Sayadaw trong bảy năm, trong thời gian đó, vợ và em vợ của ông đã hỗ trợ ông bằng cách gửi tiền mỗi năm từ vụ thu hoạch của trang trại gia đình.

Return to his Village – Trở về làng

After seven years, accompanied by U Nyo, he returned to his village, but he did not return to his former householder’s life. Ledi Sayadaw had advised him at the time of his departure to work diligently to develop his samadhi (concentration) and panna(purifying wisdom) so that eventually he could begin to teach.

Sau bảy năm, cùng với U Nyo, ông trở về làng, nhưng ông không trở về với cuộc sống chủ hộ trước đây. Ledi Sayadaw đã khuyên ông vào thời điểm khởi hành thực hành siêng năng để phát triển samadhi (sự tập trung) và panna (thanh lọc trí tuệ) để cuối cùng ông có thể bắt đầu dạy. 

Accordingly, when U Thet and U Nyo reached Pyawbwegyi, they went straight to the sala (rest-house) at the edge of the family farm, which they used as a Dhamma hall. Here they began to meditate continuously. They arranged for a woman who lived near the Dhamma hall to cook two meals a day while they continued their retreat.

Theo đó, khi U Thet và U Nyo tới Pyawbwegyi, họ đã đi thẳng đến sala (nhà nghỉ) ở rìa trang trại gia đình, nơi họ dùng làm hội trường Dhamma. Tại đây họ bắt đầu thiền liên tục. Họ sắp xếp cho một người phụ nữ sống gần hội trường Dhamma để nấu hai bữa ăn một ngày trong khi họ tiếp tục khóa thiền.

U Thet continued in this way for one year. He made rapid progress in his meditation, and at the end of the period he felt the need for advice from his teacher. He could not speak to Ledi Sayadaw himself, but he knew that his teacher’s books were in a cupboard at his home. So he went there to consult the manuals.

U Thet tiếp tục theo cách này trong một năm. Ông đã tiến bộ nhanh chóng trong thiền định, và vào cuối giai đoạn ông cảm thấy cần lời khuyên từ giáo viên của mình. Ông không thể tự nói chuyện với Ledi Sayadaw, nhưng ông biết rằng những cuốn sách của giáo viên của ông đang ở trong tủ ở nhà anh ta. Vì vậy, ông đã đến đó để tham khảo các hướng dẫn.

His wife and her sister had become quite angry with him for not returning to the house after such a long absence. His wife had even decided to divorce him. When the sisters saw U Po Thet approaching the house, they agreed neither to greet nor welcome him. But, as soon as he came in the door, they found themselves welcoming him profusely. They talked for awhile, and U Thet asked for their forgiveness, which they freely granted.

Vợ và em gái vợ của ông đã trở nên khá giận dữ với ông vì ông không trở về nhà sau một thời gian dài vắng bóng. Vợ ông thậm chí đã quyết định ly hôn ông. Khi các chị em thấy U Po Thet đến gần nhà, họ đã thông nhất không chào hỏi cũng không chào đón ông. Nhưng, ngay khi ông bước vào cửa, họ thấy mình chào đón ông rất nhiều. Họ nói chuyện một lúc, và U Thet cầu xin sự tha thứ của họ, điều mà họ tự do trao tặng.

They invited him for tea and a meal. He procured the books and explained to his wife that he was now living on eight precepts and would not be returning to the usual householder’s life. From now on they would be as brother and sister. His wife and sister-in-law invited him to come to the house each day for his morning meal and happily agreed to continue supporting him. He was extremely grateful for their generosity and told them that the only way he could repay them was to give them the Dhamma.

Họ mời ông uống trà và một bữa ăn. Ông đã tìm được những cuốn sách và giải thích với vợ rằng ông hiện đang sống theo tám giới luật và sẽ không trở lại cuộc sống của chủ nhà thông thường. Từ giờ họ sẽ như anh chị em. Vợ và em vợ của ông mời ông đến nhà mỗi ngày để dùng bữa sáng và vui vẻ đồng ý tiếp tục hỗ trợ ông. Ông vô cùng biết ơn sự hào phóng của họ và nói với họ rằng cách duy nhất ông có thể trả ơn họ là cho họ Dhamma. 

Other relatives including his wife’s cousin, U Ba Soe, came to see and talk with him. After about two weeks, U Thet said that he was spending too much time coming and going for lunch, so Ma Hmyin and Ma Yin offered to send the noon meal to the sala. At first the people in the village were reluctant to come to him for instruction. They misinterpreted U Thet’s zeal, thinking that perhaps after the grief of his losses and his absence from the village, he had lost his senses. But slowly they realized from his speech and actions that he was indeed a transformed person, one who was living in accordance to Dhamma.

Những người thân khác bao gồm anh họ của vợ ông, U Ba Soe, đã đến gặp và nói chuyện với ông. Sau khoảng hai tuần, U Thet nói rằng ông đã dành quá nhiều thời gian đến và đi ăn trưa, vì vậy Ma Hmyin và Ma Yin đề nghị gửi bữa ăn trưa đến sala. Lúc đầu, người dân trong làng không muốn đến gặp ông để được chỉ dẫn. Họ đã hiểu sai sự nhiệt tình của U Thet, nghĩ rằng có lẽ sau nỗi đau của sự mất mát và sự vắng mặt của ông trong làng, ông đã mất trí. Nhưng dần dần họ nhận ra từ lời nói và hành động của ông rằng ông thực sự đã thay đổi, một người sống theo đúng như Dhamma.

Start of Teaching Vipassana – Bắt đầu giảng dạy Vipassana

Some of U Thet’s relatives and friends requested that he teach them meditation. U Ba Soe offered to take charge of the fields and household responsibilities. U Thet’s sister and a niece took responsibility for preparing the meals. U Thet started teaching Anapana to a group of about fifteen people in 1914, when he was forty-one years old. The students all stayed at the sala, some of them going home from time to time. He gave discourses to his meditation students, as well as to interested people who were not practicing meditation. His listeners found the talks so learned that they refused to believe that U Thet had very little theoretical knowledge of the Dhamma. Due to his wife and sister-in-law’s generous financial support, and the help of other family members, all the food and other necessities were provided for the meditators who came to U Thet’s Dhamma hall – even to the extent, on one occasion, of compensating workers for wages lost while they took a Vipassana course.

Một số người thân và bạn bè của U Thet yêu cầu ông dạy họ thiền. U Ba Soe đề nghị phụ trách các công việc đồng án và trách nhiệm gia đình. Em gái của U Thet và một cháu gái chịu trách nhiệm chuẩn bị các bữa ăn. U Thet bắt đầu dạy Anapana cho một nhóm khoảng mười lăm người vào năm 1914, khi ông bốn mươi mốt tuổi. Các thiền sinh đều ở lại sala, thỉnh thoảng họ về nhà. Ông đã thuyết trình cho các thiền sinh của mình, cũng như những người quan tâm không thực hành thiền định. Những khán giả của ông đã tìm thấy các cuộc nói chuyện đến mức họ đã từ chối tin rằng U Thet có rất ít kiến ​​thức lý thuyết về Dhamma. Do sự hỗ trợ tài chính hào phóng của vợ và em vợ và sự giúp đỡ của các thành viên khác trong gia đình, tất cả thức ăn và các nhu yếu phẩm khác đều được cung cấp cho các thiền giả đến hội trường Dhamma của U Thet – thậm chí tới mức, trong một dịp, bồi thường cho người lao động vì tiền lương bị mất trong khi họ tham gia khóa học Vipassana.

After teaching for a year, in about 1915, U Thet took his wife and her sister and a few other family members to Monywa to pay respects to Ledi Sayadaw, who was about seventy years old at that time. When U Thet told his teacher about his meditation experiences and the courses he had been offering, Ledi Sayadaw was very pleased. It was during this visit, that Ledi Sayadaw gave his staff to U Thet, saying, “Here, my great pupil, take my staff and go. Keep it well. I do not give this to you to make you live long, but as a reward, so that there will be no mishaps in your life. You have been successful. From today onwards, you must teach the Dhamma of rupa and nama (mind and matter) to six thousand people. The Dhamma known by you is inexhaustible, so propagate the sasana (era of the Buddha’s teaching). Pay homage to the sasana in my stead.”

Sau khi dạy được một năm, vào khoảng năm 1915, U Thet đưa vợ và em vợ và một vài thành viên khác trong gia đình đến Monywa để tỏ lòng kính trọng với Ledi Sayadaw, lúc đó khoảng bảy mươi tuổi. Khi U Thet nói với giáo viên của mình về kinh nghiệm thiền định và các khóa học mà ông đã cung cấp, Ledi Sayadaw rất hài lòng. Chính trong chuyến thăm này, Ledi Sayadaw đã đưa quyền trượng của mình cho U Thet, nói: “Đây, học trò tuyệt vời của tôi, hãy nhận lấy quyền trượng của tôi và đi. Hãy giữ nó thật tốt. Tôi không đưa nó cho con để con sống lâu, nhưng như một phần thưởng, để không có rủi ro trong cuộc sống của con. Con đã thành công. Từ hôm nay trở đi, con phải dạy Dhamma của rupanama (tâm trí và vật chất) cho sáu ngàn người. Dhamma mà con biết là vô tận, vì vậy hãy truyền bá sasana (thời đại của giáo lý của Đức Phật). Hãy tôn kính sasana thay cho tôi.”

The next day Ledi Sayadaw summoned all the bhikkhus (monks) of his monastery. He requested U Thet to stay on for ten or fifteen days to instruct them. The Sayadaw told the gathering of bhikkhus, “Take note, all of you. This layperson is my great pupil U Po Thet from lower Burma. He is capable of teaching meditation like me. Those of you who wish to practice meditation, follow him. Learn the technique from him and practice. You, Dayaka Thet (lay supporter of a monk who undertakes to supply his needs such as food, robes, medicine, etc.), hoist the victory banner of Dhamma in place of me, starting at my monastery.”

Ngày hôm sau Ledi Sayadaw triệu tập tất cả các bhikkhus (tu sĩ) của tu viện của mình. Ông yêu cầu U Thet ở lại trong mười hoặc mười lăm ngày để hướng dẫn họ. Sayadaw nói với nhóm các bhikkhus, “Hãy lưu ý, tất cả mọi người. Vị cư sĩ này là học trò vĩ đại của tôi U Po Thet từ hạ Miến Điện. Ông ấy có khả năng dạy thiền như tôi. Những người muốn hành thiền, hãy theo ông. Học hỏi kỹ thuật từ ông ta và thực hành. Bạn, Dayaka Thet (người hỗ trợ của một tu sĩ đảm nhận việc cung cấp các nhu cầu của anh ta như thức ăn, áo choàng, thuốc, v.v.), treo biểu ngữ chiến thắng của Dhamma thay cho tôi, bắt đầu từ tu viện của tôi.”

Torchbearer of Dhamma – Người truyền cảm hứng Dhamma

U Thet then taught Vipassana meditation to about twenty-five monks learned in the scriptures. It was at this point that he became known as Saya Thetgyi (‘saya’ means “teacher;” ‘gyi’ is a suffix denoting respect).

Sau đó, U Thet đã dạy thiền Vipassana cho khoảng hai mươi lăm tu sĩ những người đã học trong kinh điển. Chính tại thời điểm này, ông ta được biết đến với cái tên Saya Thetgyi (‘saya’ có nghĩa là “giáo viên”; ‘gyi’ là một hậu tố biểu thị sự tôn trọng).

Ledi Sayadaw encouraged Saya Thetgyi to teach the Dhamma on his behalf, but his student was somewhat discouraged because of his lack of theoretical knowledge. Saya Thetgyi knew many of Ledi Sayadaw’s prolific writings by heart, and was able to expound on the Dhamma with references to the scriptures, in a way that most learned Sayadaws (monk teachers) could not find fault with. Nevertheless, Ledi Sayadaw’s exhortation to him to teach Vipassana in his stead was a solemn responsibility, and Saya Thetgyi was apprehensive. Bowing to his teacher in deep respect, he said, “Among your pupils, I am the least learned in the scriptures. To dispense the sasana by teaching Vipassana as decreed by you is a highly subtle, yet heavy duty to perform, sir. That is why I request that, if at any time I need to ask for clarification, you give me your help and guidance. Please be my support, and please admonish me whenever necessary.”

Ledi Sayadaw khuyến khích Saya Thetgyi thay mặt ông dạy Dhamma, nhưng học trò của ông có phần nản lòng vì thiếu kiến ​​thức lý thuyết. Saya Thetgyi biết rất nhiều tác phẩm sáng tác của Ledi Sayadaw và đã có thể giải thích về Dhamma với các tài liệu tham khảo về kinh điển, theo cách mà hầu hết các Sayadaws (thầy giáo tu sĩ) không thể tìm thấy lỗi. Tuy nhiên, lời khuyên của Ledi Sayadaw đối với ông để dạy Vipassana thay cho ông ấy là một trách nhiệm trang nghiêm, và Saya Thetgyi rất e ngại. Cúi đầu với giáo viên của mình trong sự kính trọng sâu sắc, ông nói: “Trong số các học trò của thầy, con là người ít học về kinh điển nhất. Để phân phối sasana bằng việc dạy Vipassana như sắc lệnh của thầy là một nhiệm vụ rất tinh tế và lại còn nặng trĩu để thực hiện. Đó là lý do tại sao con yêu cầu rằng, nếu bất cứ lúc nào con cần làm rõ, thầy hãy cho con sự giúp đỡ và hướng dẫn. Xin hãy là người hỗ trợ của con và hãy khuyên nhủ con bất cứ khi nào cần thiết.”

Ledi Sayadaw reassured him by replying, “I will not forsake you, even at the time of my passing away.” Saya Thetgyi and his relatives returned to their village in southern Burma. They discussed with other family members the plans for carrying out the tall order from Ledi Sayadaw. Saya Thetgyi considered travelling around Burma, thinking that he would have more contact with people that way. But his sister-in-law said, “You have a Dhamma hall here, and we can support you in your work by preparing food for the students. Why not stay here and give courses? There are many who will come here to learn Vipassana.” He agreed and began holding regular courses at his sala in Pyawbwegyi.

Ledi Sayadaw trấn an ông bằng cách trả lời: “Ta sẽ không bỏ rơi con, ngay cả khi lúc ta qua đời.” Saya Thetgyi và người thân của ông trở về làng của họ ở miền nam Miến Điện. Họ đã thảo luận với các thành viên khác trong gia đình về kế hoạch thực hiện nhiệm vụ quá nặng từ Ledi Sayadaw. Saya Thetgyi cân nhắc việc đi khắp Miến Điện, nghĩ rằng ông sẽ tiếp xúc nhiều hơn với mọi người theo cách đó. Nhưng em vợ của ông nói: “Anh có một hội trường Dhamma ở đây và chúng tôi có thể hỗ trợ anh trong công việc bằng cách chuẩn bị thức ăn cho thiền sinh. Tại sao không ở đây và mở các khóa học? Có nhiều người sẽ đến đây để học Vipassana.” Ông ấy đồng ý và bắt đầu tổ chức các khóa học thường xuyên tại sala của mình ở Pyawbwegyi.

As his sister-in-law had predicted, many did start coming, and Saya Thetgyi’s reputation as a meditation teacher spread. He taught simple farmers and labourers as well as those who were well-versed in the Pali texts. The village was not far from Rangoon, which was the capital of Burma under the British, so government employees and urbanites, like U Ba Khin, also came. As more and more meditators came to learn meditation, Saya Thetgyi appointed as assistant teachers some of the older, experienced meditators like U Nyo, U Ba Soe, and U Aung Nyunt. The centre progressed year by year and there were up to two hundred students, including monks and nuns, in the courses. There was not enough room in the sala, so the more experienced students practiced meditation in their homes and came to the sala only for the discourses.

Như em vợ của ông đã dự đoán, nhiều người đã bắt đầu đến và danh tiếng của Saya Thetgyi là một giáo viên thiền định lan rộng. Ông đã dạy những người nông dân và người lao động đơn giản cũng như những người thành thạo các văn bản Pali. Ngôi làng không xa Rangoon, thủ đô của Miến Điện dưới thời Anh, nên các nhân viên chính phủ và dân thành thị, như U Ba Khin, cũng đến. Khi ngày càng có nhiều thiền giả đến học thiền, Saya Thetgyi đã bổ nhiệm các giáo viên trợ lý trong số những thiền sinh cũ, có kinh nghiệp như U Nyo, U Ba Soe và U Aung Nyunt. Trung tâm đã phát triển từng năm và có tới hai trăm thiền sinh, bao gồm cả tăng ni, trong các khóa học. Không có đủ chỗ trong sala, vì vậy những thiền sinh có kinh nghiệm hơn đã thực hành thiền ở nhà của họ và chỉ đến sala cho các bài giảng.

Facing Criticism with Serenity – Đối mặt sự chỉ trích bằng sự thanh thản

From the time he returned from Ledi Sayadaw’s centre, Saya Thetgyi lived by himself and ate only one meal a day, in solitude and silence. Like the bhikkhus, he never discussed his meditation attainments. If questioned, he would never say what stage of meditation he or any other student had achieved, although it was widely believed in Burma that he was an anagami (person having achieved the last stage before final liberation). He was known in Burma as “Anagam Saya Thetgyi.” Since lay teachers of Vipassana were rare at that time, Saya Thetgyi faced certain difficulties that monk teachers did not face. For example, he was opposed by some because he was not as learned in the scriptures. Saya Thetgyi simply ignored these criticisms and allowed the results of the practice to speak for themselves.

Từ lúc trở về từ trung tâm của Ledi Sayadaw, Saya Thetgyi sống một mình và chỉ ăn một bữa mỗi ngày, trong sự cô độc và im lặng. Giống như các bhikkhus, ông không bao giờ thảo luận về thành tựu thiền định của mình. Nếu được hỏi, ông ta sẽ không bao giờ nói giai đoạn thiền nào mà ông ta hoặc bất kỳ thiền sinh nào đã đạt được, mặc dù khắp nơi ở Miến Điện người ta tin rằng  ông là một anagami (người đã đạt được giai đoạn cuối trước khi giải thoát hoàn toàn). Ông được biết đến ở Miến Điện là “Anagam Saya Thetgyi.” Vì giáo viên dạy Vipassana rất hiếm vào thời điểm đó, Saya Thetgyi phải đối mặt với những khó khăn nhất định mà các giáo viên tu sĩ không gặp phải. Chẳng hạn, ông bị một số người phản đối vì ông không được học trong kinh điển. Saya Thetgyi chỉ đơn giản bỏ qua những lời chỉ trích này và để cho kết quả của việc thực hành để tự nói cho họ biết.

On one occasion some of the rice labourers who worked on his farm took advantage of him, accusing him of withholding their share of the harvest. Although he had retired from any direct involvement in the farm management, he went out of his way to settle the affair so that the accusers would not continue to generate anger and thereby create more unwholesome conditioning for themselves.

Có một lần, một số người lao động làm việc trong trang trại của ông đã lợi dụng ông, buộc tội ông đã giữ lại phần thu hoạch của họ. Mặc dù ông đã rút khỏi bất kỳ sự tham gia trực tiếp nào vào việc quản lý trang trại, ông đã tìm mọi cách để giải quyết vụ việc để những người tố cáo sẽ không tiếp tục phát sinh sự tức giận và từ đó tạo ra nhiều điều kiện bất thiện hơn cho chính họ. 

Last Years – Những Năm Cuối Đời

For thirty years he taught meditation to all who came to him, guided by his own experience and using Ledi Sayadaw’s manuals as a reference. By 1945, when he was seventy-two, he had fulfilled his mission of teaching thousands. His wife had died; his sister-in-law had become paralyzed; and his own health was failing. So he distributed all his property to his nieces and nephews, setting aside fifty acres of rice paddy for the maintenance of his Dhamma hall.

Trong ba mươi năm, ông đã dạy thiền cho tất cả những người đến với ông, được hướng dẫn bởi kinh nghiệm của chính ông và sử dụng sách hướng dẫn của Ledi Sayadaw làm tài liệu tham khảo. Đến năm 1945, khi ông bảy mươi hai tuổi, ông đã hoàn thành sứ mệnh giảng dạy hàng ngàn người. Vợ ông đã mất; em vợ của anh đã bị liệt; và sức khỏe của chính ông đã trở nên yếu đi. Vì vậy, ông đã phân phối tất cả tài sản của mình cho các cháu trai và cháu gái của mình, dành ra năm mươi mẫu lúa để duy trì hội trường Dhamma của mình.

He had twenty water buffaloes that had tilled his fields for years. He distributed them to people who he knew would treat them kindly, and sent them off with the invocation, “You have been my benefactors. Thanks to you the rice has been grown. Now you are free from your work. May you be released from this kind of life for a better existence.” Saya Thetgyi moved to Rangoon both for treatment and to see his students there. He told some of his pupils that he would die in Rangoon and that his body would be cremated in a place where no cremation had taken place before. He also said that his ashes should not be kept in holy places because he was not entirely free from defilements that is, he was not an arahant (fully enlightened being).

Ông có hai mươi con trâu nước đã cày ruộng cho ông trong nhiều năm. Ông đã phân phát chúng cho những người mà ông biết rằng học sẽ đối xử tử tế với chúng, và gửi chúng đi với lời cầu khẩn, “Các ngươi đã là ân nhân của ta. Nhờ có các ngươi, lúa đã được trồng. Bây giờ các ngươi được tự do khỏi công việc của mình. Có thể các ngươi được giải thoát khỏi cuộc sống này cho một sự tồn tại tốt hơn.” Saya Thetgyi chuyển đến Rangoon để điều trị và gặp các thiền sinh của mình ở đó. Ông nói với một số học trò của mình rằng ông sẽ chết ở Rangoon và cơ thể ông sẽ được hỏa táng ở một nơi không có hỏa táng nào diễn ra trước đó. Ông cũng nói rằng tro cốt của ông không nên được giữ ở nơi linh thiêng vì ông không hoàn toàn thoát khỏi phiền não, ông phải là một arahant (được giác ngộ hoàn toàn).

One of his students had established a meditation centre at Arzanigone, on the northern slope of the Shwedagon Pagoda. Nearby was a bomb shelter that had been built during the Second World War. Saya Thetgyi used this shelter as his meditation cave. At night he stayed with one of his assistant teachers. His students from Rangoon (including the Accountant General, U Ba Khin, and the Commissioner of Income Tax, U San Thein) came to see him as much as time permitted. He instructed all who came to see him to be diligent in their practice; to treat the monks and nuns who came to practice meditation with respect; to be well-disciplined in body, speech and mind; and to pay respects to the Buddha in everything they did.

Một trong những học trò của ông đã thành lập một trung tâm thiền định tại Arzanigone, trên sườn phía bắc của chùa Shwedagon. Gần đó là một hầm tránh bom đã được xây dựng trong Thế chiến thứ hai. Saya Thetgyi đã sử dụng nơi trú ẩn này như hang thiền của mình. Vào ban đêm ông ở với một trong những giáo viên trợ lý của mình. Các thiền sinh của ông từ Rangoon (bao gồm Tổng kế toán, U Ba Khin, và Ủy viên Thuế thu nhập, U San Thein) đã đến gặp ông nhiều như thời gian cho phép. Ông đã chỉ thị cho tất cả những người đến gặp ông phải siêng năng trong việc thực hành của họ; đối xử với các tăng ni, những người đến để thực hành thiền định với sự tôn trọng; được kỷ luật tốt trong cơ thể, lời nói và tâm trí; và để tôn kính Đức Phật trong mọi việc họ đã làm.

Saya Thetgyi was accustomed to go to Shwedagon Pagoda every evening, but after about a week he caught a cold and fever from sitting in the dugout shelter. Despite being treated by physicians, his condition deteriorated. As his state worsened, his nieces and nephews came from Pyawbwegyi to Rangoon. Every night his students, numbering about fifty, sat in meditation together. During these group meditations, Saya Thetgyi himself did not say anything, but silently meditated.

Saya Thetgyi đã quen với việc đi chùa Shwedagon vào mỗi buổi tối, nhưng sau khoảng một tuần, anh bị cảm lạnh và sốt khi ngồi trong hầm trú ẩn. Mặc dù được các bác sĩ điều trị nhưng tình trạng của ông ngày càng xấu đi. Khi tình trạng của ông trở nên tồi tệ hơn, các cháu trai và cháu trai của ông từ Pyawbwegyi đến Rangoon. Mỗi đêm các học trò của ông, khoảng năm mươi người, ngồi thiền cùng nhau. Trong những buổi thiền nhóm này, bản thân Saya Thetgyi không nói gì, mà im lặng thiền.

One night at about 10:00 p.m., Saya Thetgyi was with a number of his students. (U Ba Khin was unable to be present.) He was lying on his back, and his breathing became loud and prolonged. Two of the students were watching intently, while the rest were silently meditating. At exactly 11:00 p.m., the breathing became deeper. It seemed as if each inhalation and expiration took about five minutes. After three breaths of this kind, the breathing stopped altogether, and Saya Thetgyi passed away.

Một đêm vào khoảng 10:00 tối, Saya Thetgyi đã ở cùng với một số học trò của mình. (U Ba Khin không thể có mặt.) Ông nằm ngửa, và hơi thở của ông trở nên lớn và kéo dài. Hai trong số các học trò đang chăm chú theo dõi, trong khi những người còn lại đang im lặng thiền định. Đúng 11:00 tối, hơi thở trở nên sâu hơn. Có vẻ như mỗi lần hít vào và thở ra mất khoảng năm phút. Sau ba hơi thở kiểu này, hơi thở ngừng lại hoàn toàn, và Saya Thetgyi đã qua đời. 

His body was cremated on the northern slope of Shwedagon Pagoda and Sayagyi U Ba Khin and his disciples later built a small pagoda on the spot. But perhaps the most fitting and enduring memorial to this singular teacher is the fact that the task given him by Ledi Sayadaw of spreading the Dhamma in all strata of society is continuing.

Thi hài ông được hỏa táng ở sườn phía bắc của chùa Shwedagon và Sayagyi U Ba Khin và các đệ tử sau đó đã xây dựng một ngôi chùa nhỏ ngay tại nơi đó. Nhưng có lẽ sự tưởng nhớ phù hợp và lâu dài nhất đối với người thầy đặc biệt này là thực tế rằng nhiệm vụ mà Ledi Sayadaw giao cho ông trong việc truyền bá Dhamma trong tất cả các tầng lớp xã hội đang tiếp tục.

Saya Thetgyi: Anecdotes – Saya Thetgyi: Những giai thoại

Người thầy nông dân

In a village across the river from Rangoon lived a farmer by the name of U Thet. Every year, after harvesting his crop, this farmer traveled up and down the country in search of someone to teach him meditation. Eventually he found a teacher who showed him how to concentrate his mind by observing respiration. For seven years he went to this teacher, spending months at a time with him, and achieved great mastery in concentration. He then went in search of someone to teach him Vipassana meditation and, fortunately, he encountered the Venerable Ledi Sayadaw. This respected monk found him to be a worthy pupil, and for seven more years, U Thet kept visiting Ledi Sayadaw, and attained proficiency in insight as well.

Trong một ngôi làng bên kia sông từ Rangoon một người nông dân tên là U Thet. Hàng năm, sau khi thu hoạch vụ mùa của mình, người nông dân này đã đi từ đầu đến cưới đất nước để tìm kiếm một người dạy thiền cho anh ta. Cuối cùng, anh đã tìm thấy một người thầy chỉ cho anh cách tập trung tâm trí bằng cách quan sát hơi thở. Trong bảy năm, anh đã đi đến người thầy này, dành nhiều tháng tại một thời gian với ông, và đạt được sự thành thạo lớn trong sự tập trung. Sau đó, anh ta đã đi tìm một người nào đó để dạy anh ta thiền Vipassana và may mắn thay, anh ta đã gặp được Hòa thượng Ledi Sayadaw. Nhà sư đáng kính này nhận thấy anh ta là một học trò xứng đáng, và trong bảy năm nữa, U Thet tiếp tục đến thăm Ledi Sayadaw, và cũng đạt được sự thành thạo về sự sáng suốt.

A wish to help others learn the technique arose, so with the permission of Ledi Sayadaw, he returned home and offered to teach the technique to his fellow villagers.

Mong muốn giúp đỡ người khác học được kỹ thuật phát sinh, vì vậy với sự cho phép của Ledi Sayadaw, anh trở về nhà và đề nghị dạy kỹ thuật này cho dân làng của mình.

But at first no one would come to him. “What can this man know about the Dhamma?” people scoffed. “He is a layperson like us. His head is not shaven and he does not wear the orange robe of a monk. What can he know about Vipassana?”

Nhưng lúc đầu sẽ không ai đến với anh. “Người đàn ông này có thể biết gì về Dhamma?” Mọi người chế giễu. “Anh ta là một cư sĩ như chúng tôi. Anh ta không cạo đầu và anh ta không mặc áo choàng màu cam của một nhà sư. Anh ta có thể biết gì về Vipassana?”

Saya Thetgyi, however, was not disconcerted. On his farm were some hired laborers. He summoned them and said, “Ordinarily you work in the fields but, if you are willing, I will give you the same wages for working in my house.”

Tuy nhiên Saya Thetgyi đã không bối rối. Trong trang trại của anh có một số người làm thuê. Anh triệu tập họ và nói: “Thông thường mọi người làm việc trên đồng nhưng, nếu mọi người sẵn sàng, tôi sẽ trả cho mọi người mức lương tương tự để làm việc trong nhà của tôi.”

“As you like, sir. It’s all the same to us, as long as we are paid.” Saya Thetgyi led them to a curtained room. “All right, now,” he said, “Sit down, close your eyes, and focus your attention on your  breath.”

“Như ông muốn, thưa ông. Đối với chùng tôi tất cả đều giống nhau, miễn là chúng tôi được trả tiền.” Saya Thetgyi dẫn họ đến một căn phòng có rèm. “Được rồi, bây giờ,” anh nói, “Ngồi xuống, nhắm mắt lại và tập trung sự chú ý vào hơi thở của bạn.”

The men were astonished. “Is this the work we have to do here? Our master has gone crazy!” they thought to themselves. “He says that he will pay and feed us just to watch our breath! Well, if that is what he wants us to do, we’ll do it!” And so they followed the instructions of Saya Thetgyi.

Những người đàn ông ngạc nhiên. “Đây có phải là công việc chúng ta phải làm ở đây không? Ông chủ của chúng ta bị điên rồi!” họ tự nghĩ. “Ông ấy nói rằng ông ấy sẽ trả tiền và cho chúng ta ăn chỉ để theo dõi hơi thở của chúng ta! Chà, nếu đó là những gì ông ấy muốn chúng ta làm, chúng ta sẽ làm điều đó!” Và thế là họ làm theo chỉ dẫn của Saya Thetgyi.

These workers passed through the process of Vipassana and emerged smiling and happy. Whatever the motives that bring people to courses, if they work in the proper way they are bound to get results. Whether one is an illiterate laborer or a highly educated professor, the technique works just the same.

Những công nhân này đã trải qua quá trình Vipassana và hiện ra mỉm cười và hạnh phúc. Dù động cơ đưa mọi người đến các khóa thiền là gì, nếu họ làm việc theo cách phù hợp, họ nhất định sẽ có kết quả. Cho dù người đó là một người lao động mù chữ hoặc một giáo sư có trình độ học vấn cao, kỹ thuật này vẫn hiệu quả như nhau.

After the course the laborers began to tell others. “Our master can teach a wonderful technique of meditation that brings real peace of mind!” But no one would listen to them, thinking that U Thetgyi had paid his workers to sing his praises, in an attempt to attract students.

Sau khóa học, người lao động bắt đầu nói với những người khác. “Ông chủ của chúng tôi có thể dạy một kỹ thuật thiền tuyệt vời mang lại sự bình yên trong tâm trí thực sự!” Nhưng không ai lắng nghe họ, nghĩ rằng U Thetgyi đã trả tiền cho công nhân của mình để hát những lời khen ngợi mình, trong nỗ lực thu hút học trò.

After a few months, however, it became clear to the whole village that a big change had come in the workers of U Thetgyi. Many of them had been rough and rowdy characters, always drinking and fighting, but now they were mild-mannered and peaceable. Becoming curious, the villagers began to ask these men, “What was it that your master taught you?” The men explained as best they could, and the villagers could not help but be impressed: “Well, that is what the Buddhist scriptures say. Perhaps this man really does know something. Let us go to him just to see what he teaches.” So they did.

Tuy nhiên, sau một vài tháng, mọi người đã thấy rõ rằng một sự thay đổi lớn đã xảy ra với những người lao động của U Thetgyi. Nhiều người trong số họ từng là những người có tính cách thô lỗ và ồn ào, luôn uống rượu và đánh nhau, nhưng giờ họ có phong cách ôn hòa và trầm tính. Trở nên tò mò, dân làng bắt đầu hỏi những người đàn ông này: “Ông chủ của các anh đã dạy gì cho các anh?” Những người đàn ông giải thích tốt nhất có thể, và dân làng không thể không ấn tượng: “Chà, đó là những gì kinh điển Phật giáo nói. Có lẽ người đàn ông này thực sự biết điều gì đó. Chúng ta hãy đến gặp anh ta để xem những gì anh ta dạy.” Vì vậy, họ đã làm.

Thus, Saya Thetgyi became renowned as a Vipassana teacher and the foremost disciple of Ledi Sayadaw.

Do đó, Saya Thetgyi trở nên nổi tiếng với tư cách là một giáo viên Vipassana và là đệ tử đầu tiên của Ledi Sayadaw.

(Credit: International Vipassana Newsletter, Vol. 23, No. 1, January, 1996)

(Sự tin cậy: Bản tin Vipassana quốc tế, Tập 23, Số 1, Tháng 1, 1996)

 

Playing With Fire – Đùa với lửa

Among those who came to learn meditation from Saya Thetgyi was a Buddhist scholar, a very learned man. Unfortunately he seemed to be more interested in the theory of Vipassana than in experiencing it himself. Still, he completed his ten-day course successfully, and left well-pleased with what he had accomplished.

Trong số những người đến học thiền từ Saya Thetgyi là một học giả Phật giáo, một người rất uyên bác. Thật không may, anh ta dường như quan tâm đến lý thuyết về Vipassana hơn là tự mình trải nghiệm nó. Cho đến khi, anh ta đã hoàn thành khóa học mười ngày của mình thành công và hài lòng với những gì anh ta đã đạt được.

A few months later this man returned to visit Saya Thetgyi, and respectfully placed before him one or two volumes. “Sir,” he said, “I have written a book explaining how to meditate, and I have dedicated it to you as my teacher.” Saya Thetgyi asked, “Are only these copies that you brought here dedicated to me?”

Vài tháng sau, người đàn ông này quay lại thăm Saya Thetgyi và trân trọng đặt trước anh ta một hoặc hai tập. “Thưa ngài,” anh nói, “Tôi đã viết một cuốn sách giải thích cách thiền, và tôi đã dành nó cho ngài với tư cách là giáo viên của tôi.” Saya Thetgyi hỏi: “Chỉ có những bản sao mà anh mang đến đây dành riêng cho tôi?”

“Oh no, sir! All contain the dedication.”

“Ồ không, thưa ngài! Tất cả đều chứa đựng sự cống hiến.”

“Well, if you wish to dedicate them all to me, bring all the copies of your book here.” The scholar happily agreed to do so, thinking perhaps that Saya Thetgyi would perform a ceremony to bless his work. After a few days he returned with a carload of books.”Are these all the copies of your book?” asked Saya Thetgyi. “Yes, sir,” the man replied proudly.

“Chà, nếu anh muốn dành tất cả chúng cho tôi, hãy mang tất cả các bản sao của cuốn sách của anh đến đây.” Học giả vui vẻ đồng ý làm như vậy, nghĩ rằng có lẽ Saya Thetgyi sẽ thực hiện một nghi lễ để ban phước cho công việc của mình. Sau vài ngày, anh ta trở lại với một đống sách. “Đây có phải là tất cả các bản sao của cuốn sách của anh không?” Saya Thetgyi hỏi. “Vâng, thưa ngài,” người đàn ông trả lời một cách tự hào.

“Very well,” said Saya Thetgyi, “Put them in the fallow field over there.” The scholar did as Saya Thet directed, arranging the books in a neat pile.

“Rất tốt,” Saya Thetgyi nói, “Đặt chúng vào cánh đồng hoang ở đằng kia.” Học giả đã làm như Saya Thet chỉ đạo, sắp xếp các cuốn sách thành một đống gọn gàng.

“Now,” said the teacher, “Go the kitchen and get a bottle of kerosene and some matches.” “Kerosene, sir? Matches?” The man was bewildered. What use could Saya Thetgyi have for these in the ceremony?

“Bây giờ,” giáo viên nói, “Đi vào bếp và lấy một chai dầu hỏa và một số que diêm.” “Dầu hỏa, thưa ngài? Những que diêm?” Người đàn ông hoang mang. Saya Thetgyi có thể sử dụng những thứ này vào việc gì trong buổi lễ?

“Yes, kerosene and matches.” Once again the scholar did as he was told, though somewhat reluctantly. When he returned with the bottle and matches, Saya Thetgyi said, “Good! Now sprinkle the kerosene over the books and set them alight.” The scholar could restrain himself no longer. “What, sir! You must be joking! I have laboured so many months to write this book.”

“Đúng vậy, dầu hỏa và diêm.” Một lần nữa, học giả đã làm như ông đã nói, mặc dù hơi miễn cưỡng. Khi anh ta quay lại với chai dầu và diêm, Saya Thetgyi nói: “Tốt! Bây giờ hãy rắc dầu hỏa lên sách và đốt chúng.” Vị học giả không thể kiềm chế bản thân hơn nữa. “Gì, thưa ngài! ngài chắc đang nói đùa! Tôi đã làm việc rất nhiều tháng để viết cuốn sách này.”

Saya Thetgyi replied, “You would have better used your time to meditate. How can you explain meditation to others unless you have meditated deeply yourself? And even if you yourself had understood it properly, how could you expect others to learn meditation from a book? They would only burn themselves as surely as children playing with fire. Better to burn the books!”

Saya Thetgyi trả lời: “Anh nên sử dụng thời gian của mình để thiền. Làm thế nào anh có thể giải thích thiền cho người khác trừ khi bạn tự thiền sâu? Và ngay cả khi chính bản thân anh đã hiểu đúng, làm thế nào anh có thể mong đợi người khác học thiền từ một cuốn sách ? Họ sẽ chỉ tự thiêu cháy bản thân họ như những đứa trẻ đang chơi với lửa. Tốt hơn là đốt những cuốn sách đi! “

 

Nguồn VRIDhamma.org

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *