TƯƠNG ƯNG BỘ II – CHƯƠNG VIII: TƯƠNG ƯNG LAKKHAṆA – PHẨM THỨ NHẤT

TƯƠNG ƯNG BỘ II

CHƯƠNG VIII: TƯƠNG ƯNG LAKKHAṆA

PHẨM THỨ NHẤT

1. Ðống Xương

Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú ở Rājagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm) chỗ nuôi dưỡng các con sóc.

Lúc bấy giờ Tôn giả Lakkhaṇa và Tôn giả Mahà Moggallāna trú ở núi Gijjhakùta (Linh Thứu).

Rồi Tôn giả Mahà Moggallāna đắp y, vào buổi sáng, cầm y bát, đi đến Tôn giả Lakkhaṇa.

Sau khi đến, nói với Tôn giả Lakkhaṇa:

—Chúng ta hãy cùng đi, này Hiền giả Lakkhaṇa. Chúng ta hãy đi vào Rājagaha để khất thực.

—Thưa vâng, Hiền giả.

Tôn giả Lakkhaṇa vâng đáp Tôn giả Mahà Moggallāna.

Rồi Tôn giả Mahà Moggallāna khi đi từ núi Gijjhakùta bước xuống, đi qua một chỗ, liền mỉm cười.

Rồi Tôn giả Lakkhaṇa nói với Tôn giả Mahà Moggallāna:

—Này Hiền giả Moggallāna, do nhân gì, do duyên gì, Hiền giả lại mỉm cười?

—Này Hiền giả Lakkhaṇa, không phải thời là câu hỏi ấy. Trước mặt Thế Tôn, hãy hỏi tôi câu hỏi ấy.

Rồi Tôn giả Lakkhaṇa và Tôn giả Mahà Moggallāna sau khi đi khất thực ở Rājagaha xong, sau bữa ăn, trên con đường đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên.

Ngồi xuống một bên, Tôn giả Lakkhaṇa nói với Tôn giả Mahà Moggallāna:

—Ở đây, Tôn giả Mahàa Moggallāna khi từ núi Gijjhakùta bước xuống, đi ngang qua một chỗ, liền mỉm cười. Này Hiền giả Moggallāna, do nhân gì, do duyên gì, Hiền giả lại mỉm cười?

—Ở đây, này Hiền giả, khi tôi từ núi Gijjhakùta bước xuống, tôi thấy một bộ xương đang đi trên trời. Các con kên kên, các con quạ, các con chim ưng đuổi theo nó, cắn mổ xương sườn nó, cắn xé nó, và nó kêu lên những tiếng kêu đau đớn.

—Này Hiền giả, tôi suy nghĩ như sau: “Thật vi diệu thay! Thật vi diệu thay! Một kẻ có tên như vậy lại trở thành một chúng sanh như vậy. Một kẻ có tên như vậy lại trở thành một Dạ-xoa như vậy! Một kẻ có tên như vậy lại trở thành được một tự ngã như vậy!”

Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

—Sống với nhau như thực nhãn, này các Tỷ-kheo, là các đệ tử! Sống với nhau như thực trí, này các Tỷ-kheo, là các đệ tử. Vì rằng, một đệ tử sẽ biết, hay sẽ thấy, hay sẽ chứng thực như vậy.

Xưa kia, này các Tỷ-kheo, Ta đã thấy chúng sanh ấy nhưng Ta không có nói. Nếu Ta có nói, các người khác cũng không tin Ta. Và những ai không tin Ta, những người ấy sẽ bị bất hạnh, đau khổ lâu dài.

Chúng sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một đồ tể giết trâu bò (goghatako) ở Rājagaha này. Do nghiệp của người đó thuần thục, sau khi bị nung nấu trong địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm và với quả thuần thục còn lại, người đó cảm thọ một tự ngã như vậy.

2. Ðồ Tể Giết Trâu Bò (Gavaghàtako)

Ở đây, này Hiền giả, khi tôi từ núi Gijjhakùta bước xuống, tôi thấy một đống thịt đang đi giữa hư không. Các con kên kên, các con quạ, các con chim ưng đuổi theo nó, cắn mổ nó, cắn xé nó, và nó kêu lên những tiếng kêu đau đớn.

Chúng sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một đồ tể giết trâu bò.

3. Một Miếng Thịt và Kẻ Bắt Chim

Ở đây, này Hiền giả, khi tôi từ núi Gijjhakùta bước xuống, tôi thấy một miếng thịt đang đi giữa hư không … đau đớn.

Chúng sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một kẻ săn chim ở Rājagaha.

4. Người Giết Dê Bị Lột Da

Ở đây, này Hiền giả … tôi thấy một bị da … cắn mổ nó, cắn xé nó, và nó kêu lên những tiếng kêu đau đớn …

Chúng sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một người đồ tể giết dê ở tại Rājagaha này …

5. Người Giết Heo Với Ðao Kiếm

Ở đây, này Hiền giả, khi tôi từ núi Gijjhakùta bước xuống, tôi thấy một người với lông bằng đao kiếm đang đi giữa hư không. Các đao kiếm ấy tiếp tục đứng dựng lên và rơi xuống trên thân người ấy, và người ấy kêu lên những tiếng kêu đau đớn.

Chúng sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một người giết heo ở tại Rājagaha này …

6. Người Săn Thú Với Cây Lao

Ở đây, này Hiền giả, khi tôi từ núi Gijjhakùta bước xuống, tôi thấy một người với lông bằng các cây lao đang đi trên hư không. Những cây lao ấy tiếp tục đứng dựng lên và rơi xuống trên thân người ấy, và người ấy kêu lên những tiếng kêu đau đớn.

Chúng sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một người thợ săn thú ở tại Rājagaha này.

7. Người Tra Tấn Với Mũi Tên.

Ở đây, này Hiền giả, khi tôi từ núi Gujjhakùta bước xuống, tôi thấy một người với lông bằng các mũi tên, đang đi giữa hư không. Những mũi tên ấy tiếp tục đứng dựng lên và rơi xuống trên thân người ấy, và người ấy kêu lên những tiếng kêu đau đớn.

Chúng sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một người tra tấn ở tại Rājagaha này.

8. Người Ðánh Xe Với Các Cây Kim

Ở đây, này Hiền giả, khi tôi từ núi Gijjhakùta bước xuống, tôi thấy một người với lông bằng mũi kim đang đi giữa hư không …

Chúng sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một người điều phục các loài thú (xin đọc Sùto thế cho Sùcako của nguyên bản).

9. Người Do Thám

Ở đây, thưa Hiền giả, khi tôi từ núi Gijjhakùta bước xuống, tôi thấy một người với lông bằng mũi tên đang đi giữa hư không.

Các mũi tên ấy đâm vào đầu và ra khỏi miệng người ấy. Chúng đâm vào miệng và ra khỏi ngực người ấy, chúng đâm vào ngực và ra khỏi bụng người ấy, chúng đâm vào bụng và ra khỏi bắp vế của người ấy, chúng đâm vào bắp vế và ra khỏi cổ chân của người ấy, chúng đâm vào cổ chân và ra khỏi bàn chân của người ấy và người ấy kêu lên những tiếng kêu đau đớn.

Chúng sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một gián điệp ở tại Rājagaha này.

10. Người Phán Quan Tham Nhũng Với Hòn Dái Lớn

Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi tôi từ núi Gijjhakùta bước xuống, tôi thấy một người với hòn dái đang đi giữa hư không.

Khi đang đi, người ấy mang hòn dái trên vai mà đi. Khi ngồi, người ấy ngồi trên những hòn dái ấy.

Và các con chim kên kên, chim quạ, chim ưng đuổi theo người ấy để cắn mổ, cắn xé, và người ấy kêu lên những tiếng kêu đau đớn.

Chúng sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một phán quan ở Rājagaha này.

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tạng Kinh – Tương Ưng Bộ II“, Ngài Thích Minh Châu Dịch Việt
* Link tải sách ebook: “Kinh Điển Tam Tạng – Tạng Kinh – Tương Ưng Bộ II” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Ngài Thích Minh Châu
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *