NHẬN THỨC VỀ HƠI THỞ TỰ NHIÊN – AWARENESS OF NATURAL RESPIRATION

Awareness of Natural Respiration – Nhận Thức Về Hơi Thở Tự Nhiên

(The following has been translated and adapted from the sixth in a series of 44 Hindi discourses given by Mr. S. N. Goenka and broadcasted on Zee TV)

(Phần sau đây đã được dịch và chuyển thể từ phần sáu trong một loạt 44 bài giảng tiếng Hindi do ông S. N. Goenka đưa ra và phát trên Zee TV)

The goal of Vipassana meditation is to purify the mind completely by eradicating all mental impurities such as anger, hatred, passion, fear etc. For this, one must gain complete knowledge of the body, of the mind and of the mental impurities at the experiential level, which is done with the help of respiration. 

Mục đích của thiền Vipassana là thanh lọc tâm hoàn toàn bằng cách diệt trừ những những tạp chất tinh thần (bất tịnh) như nóng giận, ghét bỏ, đam mê, sợ hãi… Để làm được điều này, một người phải có được nhận thức đầy đủ về thân, về tâm và các bất tịnh ở mức độ kinh nghiệm, được thực hiện với sự hỗ trợ của hơi thở.

If one wants to understand one’s own physical and mental nature, one must use a pure object of concentration-natural, normal respiration. One should not try to regulate the breath or do any breathing exercise. Nor should one repeat any word or mantra or visualize any shape, form or imaginary object along with awareness of respiration. One should observe bare respiration, as it is.

Nếu một người hiểu về thể chất tinh thần của mình, một người dùng đối tượng thuần túy của sự tập trung tự nhiên đó là hơi thở bình thường. Một người nên không nên cố gắng để điều khiển hơi thở hay thực hiện bất cứ bài tập thở nào. Một người cũng không nên lặp lại bất kỳ từ ngữ,  câu chú hay hình dung bất kỳ hình dạng hình ảnh,  tưởng tượng đối tượng nào đi cùng với  sự nhận thức về hơi thở. Một người nên quan sát hơi thở tự nhiên như nó đang là.

When one observes respiration, one begins to understand the nature of the mind. One reality about the mind becomes very clear: the mind is very fleeting, very fickle. It wanders repeatedly from one object to another. Where does it wander? It wanders to so many objects. Even if one kept a diary, one would not be able to make a list of all the objects.

Khi một người quan sát hơi thở, người đó bắt đầu hiểu bản chất của tâm. Một thực tế về tâm trở nên rất rõ ràng: tâm rất thoáng qua, rất hay thay đổi. Nó lang thang liên tục từ đối tượng này sang đối tượng khác. Nó đi lang thang ở đâu? Nó lang thang đến rất nhiều đối tượng. Ngay cả khi một người giữ một cuốn nhật ký, người ta sẽ không thể lập một danh sách tất cả các đối tượng.

But, if the meditator is attentive, he will see that the mind wanders in two areas only: either in the past or in the future. It recalls some past incident and starts to roll in thoughts of the past, “This had happened; this had not happened.” Suddenly it may jump to the future and start rolling in thoughts of the future, “This must happen; this must not happen.”

Nhưng nếu để ý, thiền sinh sẽ thấy rằng tâm trí chỉ lang thang trong hai lĩnh vực: hoặc trong quá khứ hoặc trong tương lai. Nó nhớ lại một số sự cố trong quá khứ và bắt đầu lăn lộn trong những suy nghĩ về quá khứ, “Điều này đã xảy ra; điều này đã không xảy ra.” Đột nhiên, nó có thể nhảy về tương lai và bắt đầu lăn lộn trong suy nghĩ về tương lai, “Điều này phải xảy ra; điều này không được xảy ra.”

The meditator observes this present reality: he witnesses the nature of the mind objectively. Sometimes the mind wanders in the past, sometimes in the future. It never stays in the present. But one has to live in the present, not in the past. The past moment is gone forever. One cannot bring back that moment in return for all the wealth in the world. Similarly, one cannot live in the future. When the future becomes the present, only then can one live in it. So one can live neither in the past nor in the future. One has to live in the present, and yet, the mind constantly tries to escape into a past or future that is unattainable. One has not learned how to live; one has not learned the art of living.

Thiền sinh quan sát sự thật hiện tại này: người đó chứng nghiệm bản chất của tâm trí một cách khách quan. Đôi khi tâm lang thang trong quá khứ, đôi khi trong tương lai. Nó không bao giờ ở lại trong hiện tại. Nhưng người ta phải sống trong hiện tại, không phải trong quá khứ. Khoảnh khắc quá khứ đã qua mãi mãi. Một người không thể mang khoảnh khắc đó lại để quay về tất cả sự thịnh vượng trên thế giới. Tương tự, người ta không thể sống trong tương lai. Khi tương lai trở thành hiện tại, chỉ khi đó người ta mới có thể sống trong đó. Vì vậy, người ta không thể sống trong quá khứ cũng như trong tương lai. Người ta phải sống trong hiện tại, và tuy nhiên, tâm trí liên tục cố gắng trốn vào quá khứ hoặc tương lai, điều mà không thể đạt được. Khi một người chưa học được cách sống; người đó chưa học được nghệ thuật sống.

Life can be really lived only in the present. Therefore, the first step of this technique is to develop awareness of a present reality: the breath entering or leaving the nostrils. The breath may pass through the left nostril, through the right nostril, or through both the nostrils simultaneously. One may find that after observing one or two breaths, the mind wanders away. One accepts this fact smilingly and again brings the mind back to respiration. The mind wanders again and again and one keeps returning to the awareness of respiration. 

Cuộc sống chỉ  thực sự được sống khi sống trong hiện tại. Do đó, bước đầu tiên của kỹ thuật này là phát triển nhận thức về sự thật hiện tại: hơi thở đi vào hoặc đi ra lỗ mũi. Hơi thở có thể đi qua lỗ mũi bên trái, qua lỗ mũi bên phải hoặc qua cả hai lỗ mũi cùng lúc. Người ta có thể thấy rằng sau khi quan sát một hoặc hai nhịp thở, tâm trí sẽ đi lang thang. Một người chấp nhận thực tế này một cách bình tâm và một lần nữa đưa tâm trí trở về với hơi thở. Tâm lang thang hết lần này đến lần khác và một người tiếp tục trở lại nhận thức về hơi thở.

This does not mean that when one learns this technique one forgets the past completely or does not plan for the future. Oh no! After one learns the art of living in the present, one can easily recall things of the past whenever necessary and make suitable decisions about the future much more effectively.

Điều này không có nghĩa là khi học kỹ thuật này một người sẽ quên đi quá khứ hoàn toàn hoặc không có kế hoạch cho tương lai. Ồ không! Sau khi học được nghệ thuật sống trong hiện tại, người ta có thể dễ dàng nhớ lại những điều của quá khứ bất cứ khi nào cần thiết và đưa ra quyết định phù hợp về tương lai hiệu quả hơn nhiều.

One has to change the mind’s habit of constantly wandering in the past or in the future. One has to train the mind to remain in the present. As one continues to meditate, one recognises the tendency of the mind to constantly roll in thoughts. Of what type are these thoughts? The meditator sees that there are only two types of thoughts. Whether the mind wanders in the past or in the future, the thoughts that arise are either agreeable or disagreeable.

Một người phải thay đổi thói quen tâm liên tục lang thang trong quá khứ hoặc trong tương lai.Một người phải rèn luyện tâm trí để giữ tâm trí ở hiện tại. Khi một người tiếp tục thiền, người ta nhận ra xu hướng của tâm  liên tục lăn lộn trong những suy nghĩ. Những loại suy nghĩ này là gì? Thiền sinh thấy rằng chỉ có hai loại ý nghĩ. Cho dù tâm lang thang trong quá khứ hay trong tương lai, những suy nghĩ nảy sinh là dễ chịu hoặc khó chịu.

One is investigating the truth about oneself like a scientist, trying to understand the truth at the experiential level. One finds that whenever an agreeable thought arises in the mind about the past or the future, one feels very happy. And whenever a disagreeable thought arises in the mind about the past or the future, one feels very unhappy.

Một người đang nghiên cứu  sự thật về bản thân như một nhà khoa học, cố gắng tìm hiểu sự thật ở cấp độ kinh nghiệm. Một người thấy rằng bất cứ khi nào một ý nghĩ dễ chịu xuất hiện trong tâm trí về quá khứ hoặc tương lai, họ cảm thấy rất hạnh phúc. Và bất cứ khi nào một ý nghĩ khó chịu xuất hiện trong tâm trí về quá khứ hoặc tương lai, người ta cảm thấy rất không vui.

 When an agreeable thought of the past or the future arises in the mind and it feels pleasant, one part of the mind starts reacting, “Oh, very good, I want more of it, I want more of it.” and this habit of “wanting, wanting” continues all the time. Similarly, we find that as soon as a disagreeable thought of the past or the future arises in the mind, a part of the mind starts reacting, “Oh, I don’t want it, I do not want it. Let this never happen.” and this habit of “not wanting, not wanting” continues all the time. In India’s ancient language, this habit of “wanting, wanting” was called rāga (craving); and the habit of “not wanting, not wanting” was called dosa (aversion). One generates these thoughts of craving and aversion continuously in the mind. Agreeable or disagreeable thoughts, either of the past or of the future, cause pleasant or unpleasant feelings and result in craving or aversion continuously.

Khi một ý nghĩ dễ chịu về quá khứ hoặc tương lai xuất hiện trong tâm trí và cảm thấy dễ chịu, một phần của tâm trí bắt đầu phản ứng, “Ồ, rất tốt, tôi muốn nó nhiều hơn, tôi muốn nhiều hơn nữa.” và thói quen “muốn, muốn” này tiếp tục mọi lúc. Tương tự như vậy, chúng ta thấy rằng ngay khi một ý nghĩ khó chịu về quá khứ hoặc tương lai xuất hiện trong tâm trí, một phần của tâm bắt đầu phản ứng, “Ồ, tôi không muốn nó, tôi không muốn nó. . ” và thói quen “không muốn, không muốn” này luôn luôn tiếp diễn. Trong ngôn ngữ cổ của Ấn Độ, thói quen “muốn, muốn” này được gọi là rāga (ham muốn); và thói quen “không muốn, không muốn” được gọi là dosa (ghét bỏ). Người ta tạo ra những suy nghĩ về ham muốn và ghét bỏ liên tục trong tâm . Những suy nghĩ khó chịu hoặc khó chịu trong quá khứ hoặc tương lai, gây ra cảm giác dễ chịu hoặc khó chịu và dẫn đến sự ham muốn hoặc ghét bỏ liên tục.

Sometimes a thought may arise in the mind and before it is completed, another thought arises. Before that thought is completed, a third thought arises. Thoughts arise without any sequence or meaning. Such mental behaviour is commonly regarded as a sign of madness.

Đôi khi một ý nghĩ có thể nảy sinh trong tâm và trước khi nó được hoàn thành, một ý nghĩ khác đã xuất hiện. Trước khi ý nghĩ tiếp theo được hoàn thành, một ý nghĩ thứ ba xuất hiện. Ý nghĩ phát sinh mà không có bất kỳ trình tự hoặc ý nghĩa gì. Hành vi trong tâm trí như vậy thường được coi là một dấu hiệu của sự điên rồ.

An example: A plate of food is served to a mad person who has been hungry since many days. He is happy because he was very hungry. He takes a morsel but before he can eat, another thought arises in his mind-“I am in the bathroom, I have come here to have a bath and this is a cake of soap,” and he starts rubbing the food on his body. Then another thought arises-“This person standing before me is my enemy, he has come to kill me. Before he kills me, let me kill him. How can I kill him? These are hand-bombs. If I throw them at him, he will die.” So he throws all the food away. Such a person is called mad.

Một ví dụ: Một đĩa thức ăn được phục vụ cho một người điên đã đói từ nhiều ngày. Anh ta hạnh phúc  vì anh đang rất đói. Người điên đó lấy một miếng nhưng trước khi anh ta có thể ăn, một ý nghĩ khác nảy sinh trong đầu anh ta – “Tôi đang ở trong phòng tắm, tôi đến đây để tắm và đây là một chiếc bánh xà phòng”, và anh ta bắt đầu chà xát thức ăn lên cơ thể mình. Sau đó, một ý nghĩ khác xuất hiện – “Người này đứng trước tôi là kẻ thù của tôi, anh ta đã đến giết tôi. Trước khi anh ta giết tôi, hãy để tôi giết anh ta. Làm thế nào tôi có thể giết anh ta? Đây là những quả bom cầm tay. Nếu tôi ném chúng vào anh ta , anh ấy sẽ chết.” Vì vậy, anh ta ném tất cả thức ăn đi. Một người như vậy được gọi là điên.

A discerning meditator discovers that his mind is also full of delusions, full of ignorance. In the ancient language, this was called moha(ignorance). Because of this habit of continuously generating craving, aversion or ignorance, the mind is unhappy and agitated. At the surface level of the mind, one tries to remain aware and to avoid generating craving and aversion. At times, one may feel that the surface part of the mind has become very wise and does not generate craving, aversion or ignorance any longer. But this is a very small part of the mind. The larger part of the mind, its deeper layers, is generating craving, aversion or ignorance every moment. All mental impurities arise because of the stock of these impurities in the mind. The deeper layers of the mind are unable to come out of this strong habit pattern of craving, aversion, and ignorance.

Một thiền sinh tinh tấn phát hiện ra rằng tâm của người đó cũng đầy ảo tưởng, đầy vô minh. Trong ngôn ngữ cổ, điều này được gọi là moha (vô minh). Vì thói quen này liên tục sinh ra ham muốn, ghét bỏ hoặc vô minh, tâm không an và dao động. Ở cấp độ bề mặt của tâm, người ta cố gắng duy trì nhận thức và để tránh tạo ra ham muốn và ghét bỏ. Đôi khi, một người có thể cảm thấy rằng phần bề mặt của tâm đã trở nên rất trí tuệ và không tạo ra sự ham muốn, ghét bỏ hoặc vô minh nữa. Nhưng đây là một phần rất nhỏ của tâm . Phần lớn hơn của tâm , các tầng sâu hơn của nó đang liên tục tạo ra sự ham muốn hoặc vô minh. Tất cả các bất tịnh phát sinh vì tồn kho của các bất tịnh trong tâm. Các lớp sâu hơn của tâm không thể thoát ra khỏi mô hình thói quen mạnh mẽ này của ham muốn, ghét bỏ và vô minh. 

During the whole day, there may be only a few moments when one is able to cut oneself off from the past as well as the future and remain in the present. The mind is fully concentrated on respiration, the truth of the present moment. There is no delusion, no ignorance. One does not generate craving for incoming breath or aversion towards outgoing breath. One simply observes the breath entering and leaving the nostrils objectively without reacting to it. In such a moment, the mind is free from craving, aversion, and delusion; it is completely pure. This moment of purity at the conscious level has a strong impact on the old impurities accumulated in the deeper levels of the mind. The burning coals of craving, aversion and ignorance that one has accumulated within are smouldering. One has put thick layers of ash on them.

Trong cả ngày, có thể chỉ có một vài khoảnh khắc khi một người tự cắt đứt suy nghĩ về với quá khứ cũng như tương lai và ở trong hiện tại. Tâm hoàn toàn tập trung vào hơi thở, sự thật của khoảnh khắc hiện tại. Không có ham muốn, không vô minh. Một người không tạo ra sự ham muốn cho hơi thở vào hoặc ghét bỏ với hơi thở ra. Một người chỉ đơn giản là quan sát hơi thở đi vào và đi ra khỏi lỗ mũi một cách khách quan mà không phản ứng với nó. Trong một khoảnh khắc như vậy, tâm không còn ham muốn ghét bỏ và si mê nữa; nó hoàn toàn tinh khiết, thanh tịnh. Khoảnh khắc thanh tịnh này ở cấp độ ý thức có tác động mạnh mẽ đến kho bất tịnh cũ tích lũy trong các cấp độ sâu hơn của tâm . Than cháy của sự ham muốn, ghét bỏ cảm và vô minh mà người ta đã tích lũy bên trong đang cháy âm ỉ. Người ta đã đặt những lớp tro dày lên chúng.

Bhasmācchanno va pāvako” The Buddha said that it is like burning coals covered by ash. It may seem that there is no fire under the layer of ash. But one is burning within because of these impurities. The contact of this internal burning with the coolness of this one moment of purity is like the contact of positive and negative forces. It produces an explosion, like the eruption of a volcano within. Some of the deep-rooted impurities may come to the surface and manifest as various physical or mental discomforts such as pain in the legs or in the head, or fear or agitation. What seems to be a problem is actually a sign of success in the meditation. When one cuts open an abscess, pus is bound to come to the surface. Similarly, the operation of the mind has started and some of the underlying pus has started to come out of the wound. Although the process is unpleasant, this is the only way to get rid of the pus, to remove the impurities. If one continues to work in the proper way, all these difficulties will gradually diminish. 

Bhasmācchanno va pāvako” Đức phật nói rằng điều này giống như than hồng bên dưới lớp tro. Trông thì có vẻ như là không có gì. Nhưng thực tế thì lửa đang hừng hực vì những bất tịnh này. . Sự tiếp xúc của sự đốt cháy nội tâm với sự mát mẻ của khoảnh khắc thanh tịnh này giống như sự tiếp xúc của các lực tích cực và tiêu cực. Nó tạo ra một vụ nổ, giống như vụ phun trào của núi lửa bên trong. Một số bất tịnh chìm sâu có thể nổi lên bề mặt và biểu hiện thành những khó chịu về thể chất hoặc tinh thần khác nhau như đau ở chân hoặc ở đầu, hoặc sợ hãi hoặc kích động. Những gì dường như là một vấn đề thực sự là một dấu hiệu thành công trong hành thiền. Khi một vết cắt mổ áp xe, mủ ép để nổi lên bề mặt. Tương tự, hoạt động của tâm đã bắt đầu và một số mủ ở sâu đã bắt đầu ra khỏi vết thương. Mặc dù quá trình này rất khó chịu, nhưng đây là cách duy nhất để loại bỏ mủ, để loại bỏ các bất tịnh. Nếu một người tiếp tục làm việc đúng cách, tất cả sự khó khăn này sẽ giảm dần

 When one pours a handful of water on a coal-stove to extinguish the fire, there is a reaction; there is a sound, “chung“. When cold water is poured again, there is the sound of “chung” again. The hot stove will continue to make that sound until its temperature is the same as that of the water. Once this happens, it will not make any more sound when more water is poured on it. Similarly, when drops of this cool water of mental purity fall on the burning coals of the impurities within, it produces an explosion. Because of that, the meditator will feel restless. This is another reason why one is advised to learn the technique at a meditation centre under the guidance of an experienced teacher.

Khi một người đổ một ít nước lên bếp than để dập tắt đám cháy, có một phản ứng tạo ra âm thanh: “bùng!”. Khi nước lạnh được đổ lần nữa, lại có tiếng “bùng!”. Bếp nóng sẽ tiếp tục tạo ra âm thanh đó cho đến khi nhiệt độ của nó giống như nhiệt độ nước. Một khi điều này xảy ra, nó sẽ không phát ra âm thanh nữa khi có nhiều nước đổ vào nó. Tương tự như vậy, khi những giọt nước mát lạnh tinh khiết này rơi xuống than cháy của các tạp chất, bất tịnh bên trong, nó tạo ra một vụ nổ. Vì điều đó, thiền sinh sẽ cảm thấy bồn chồn, khó chịu. Đây là một lý do khác tại sao một người được khuyên nên học kỹ thuật tại một trung tâm thiền dưới sự hướng dẫn của một giảng viên có kinh nghiệm.

If one works according to the instructions of an experienced guide at a meditation centre, one learns to be equanimous in all situations. When one learns to keep the mind balanced, the mind becomes purer and purer. The purpose of meditation is to purify the mind. The development of a pure mind results in real happiness, real peace, real harmony, real liberation.

Nếu một người làm việc theo hướng dẫn của giảng viên có kinh nghiệm tại một trung tâm thiền, người ta học được cách giữ sự bình tâm trong mọi hoàn cảnh. Khi một người học cách giữ cho tâm trí cân bằng, tâm trí trở nên thuần khiết và thuần khiết hơn. Mục đích của thiền là thanh lọc tâm . Sự phát triển của một tâm thanh tịnh dẫn đến hạnh phúc thực sự, hòa bình thực sự, hòa hợp thực sự, giải thoát thực sự.

 

Nguồn Viện Nghiên Cứu Vipassana VRIDhamma.org

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *