Procedure to Introduce Anapana Courses in Schools – Thủ Tục Để Giới Thiệu Khoá Thiền Anapana Vào Trường Học
Mastery over the mind is important in all human activity and purification of the mind. It is essential for true peace and happiness. School is an appropriate place to introduce this to children. Children can learn the first step of Vipassana–the technique of Anapana–at an early age.
Làm chủ và thanh lọc tâm là rất quan trọng trong mọi hoạt động của con người. Chúng là những yếu tố cốt lõi cho sự bình an và niềm hạnh phúc đích thực. Trường học là một nơi thích hợp để giới thiệu khái niệm này với trẻ em. Trẻ em có thể học bước đầu tiên của Vipassana, kỹ thuật Anapana, ngay từ khi còn nhỏ.
Anapana in a School Setting – Anapana trong môi trường học đường
The first course took place in 1986 in a school located in the Mumbai suburb of Juhu. It was within walking distance of the Goenka family home, and several of Goenkaji’s grandchildren participated. Every day Goenkaji would go over to the school to sit with the children, tell stories and explain about the practice of Anapana.
Khóa học đầu tiên diễn ra vào năm 1986, tại một trường học nằm ở ngoại ô Juhu của Mumbai. Nó chỉ cách vài phút đi bộ từ nhà của ngài Goenka và một số người cháu của Goenkaji cũng đã tham gia khoá thiền đó. Mỗi ngày ngài Goenkaji đến trường để ngồi cùng các em, kể chuyện và giải thích về việc thực hành Anapana.
That first course was followed by many more, in India and around the world. Meditators enthusiastically stepped forward to serve. The format kept evolving, as it continues to do; but the response from participants, parents and teachers has consistently been positive.
Khóa thiền đầu tiên được tiếp theo sau bởi nhiều khoá khác ở Ấn Độ và trên thế giới. Các thiền sinh nhiệt thành đã đến phục vụ. Mặc dù chỉ mới được phát triển; phản hồi từ các em học sinh, phụ huynh và giáo viên đều luôn luôn tích cực.
During a six-month period in 2007, more than 120 courses were held in 48 Mumbai schools with six different languages of instruction (English, Marathi, Hindi, Telugu, Kannada and Urdu). Of the 9,000 participants, over 8,000 children were 15-year-olds scheduled to write board exams in April 2008. One aim of the program was to see the impact of Anapana practice on the students’ exam results. It turned out that the percentage of students who passed the board exams was higher than it had been in many years.
Trong suốt sáu tháng vào năm 2007, hơn 120 khóa thiền đã được tổ chức tại 48 trường học ở Mumbai, với sáu ngôn ngữ giảng dạy khác nhau (tiếng Anh, tiếng Marathi, tiếng Hindi, tiếng Telugu, tiếng Kannada và tiếng Urdu). Trong số 9.000 em tham gia, hơn 8.000 trẻ em là học sinh 15 tuổi sắp có bài kiểm tra học kỳ vào tháng 4 năm 2008. Mục đích của chương trình là đo lường tác động của Anapana đối với kết quả thi của học sinh. Và kết quả là tỷ lệ học sinh vượt qua các kỳ thi học kỳ cao hơn so với nhiều năm về trước.
The meditation program was suspended in 2008 and 2009, but it resumed on a smaller scale in 2010. This time the courses were centralized in a few larger schools, to which the students were bused. Over a three-month period, approximately 2,900 children attended a total of 33 courses.
Chương trình thiền đã bị gián đoạn vào năm 2008 và 2009, nhưng đã hoạt động trở lại vào năm 2010 ở quy mô nhỏ hơn. Lần này, các khóa thiền được tổ chức ở một vài trường lớn hơn. Trong vòng ba tháng, khoảng 2.900 em đã tham gia tổng cộng 33 khóa thiền.
The experiment taught several important lessons: First, administrators and schoolteachers need to be committed to supporting an Anapana program in schools. Detailed planning is important to cover all aspects of a course. The schools must give their students time to continue practicing daily after an Anapana course. And on an ongoing basis, it is vital to develop Dhamma workers to serve on such courses.
Cuộc thử nghiệm này đã đưa đến một số bài học quan trọng: Đầu tiên, ban giám hiệu và giáo viên cần phải cam kết hỗ trợ chương trình Anapana trong trường học. Lập kế hoạch chi tiết là điều quan trọng để đảm bảo tất cả các khía cạnh của một khóa thiền. Các trường phải cho học sinh của mình thời gian để tiếp tục luyện tập hàng ngày sau khóa học Anapana. Và trong tương lai, điều quan trọng là xây dựng đội ngũ phụng sự Dhamma để phục vụ cho các khóa thiền như vậy.
Other countries that have held courses involving schools include Indonesia, Malaysia, Singapore, Myanmar, Australia, Germany and Britain.
Các quốc gia khác đã tổ chức các khoá thiền trong các trường học, là Indonesia, Malaysia, Singapore, Myanmar, Úc, Đức và Anh.
Regular daily practice is the key to long-term benefits. Schools that have tried just five to 10 minutes of Anapana per day have had impressive results. Studies of the participants found significant increases in self-discipline, honesty, cooperation, attentiveness, cleanliness and concentration. At the same time there were decreases in irritability, quarreling, use of abusive language and feelings of inferiority.
Thực hành thường xuyên mỗi ngày là chìa khóa cho lợi ích lâu dài. Các trường đã thử nghiệm thời thiền Anapana chỉ từ 5 đến 10 phút mỗi ngày và đã có những kết quả ấn tượng. Các học sinh đã nhận thấy rằng, có một sự gia tăng đáng kể về kỷ luật tự giác, trung thực, hợp tác, chu đáo, sạch sẽ và tập trung. Đồng thời có sự giảm bớt cáu kỉnh, cãi cọ, sử dụng ngôn ngữ lăng mạ và cảm giác tự ti.
Based on the experiences of thousands of experiences, following procedure and guidelines have been form by Vipassana Research Institute for the benefit of students:
Dựa trên kinh nghiệm từ hàng ngàn người, các quy trình và hướng dẫn sau đây đã được Viện nghiên cứu Vipassana lập ra vì lợi ích của các học sinh:
Eligibility – Điều kiện tham dự
Students from the ages of eight to sixteen years are eligible to attend the courses. Separate courses should be organised for the two different age groupings, one for younger children: ages eight to twelve; and one for the older ones: ages thirteen to sixteen. These are ideal groupings but slightly different groupings are also sometimes considered. Students less than eight years of age and more than sixteen years may not be admitted to a children’s Anapana course. The recommended number of children per course should not exceed fifty. For courses larger than fifty children, additional Children’s Course Teachers may be required to conduct the course.
Học sinh từ tám đến mười sáu tuổi đủ điều kiện tham dự các khóa học. Các khóa học riêng biệt được tổ chức cho hai nhóm tuổi khác nhau, một cho trẻ nhỏ: từ tám đến mười hai tuổi; và một cho những trẻ lớn tuổi hơn: từ mười ba đến mười sáu tuổi. Đó là những nhóm lý tưởng nhưng các nhóm tuổi khác đôi khi cũng được xem xét. Học sinh dưới tám tuổi và hơn mười sáu tuổi có thể không được nhận vào một khóa học trẻ em Anapana. Số lượng trẻ em được đề nghị cho mỗi khóa học không được vượt quá năm mươi. Đối với các khóa học có hơn năm mươi em, các giáo viên trẻ em dự bị có thể được bổ sung thêm để tiến hành khóa học.
Course Timetable – Thời khóa biểu
Various schedules have been developed and successfully implemented in schools over the years. One-day or two-day non-residential courses can easily be conducted during the school hours. In residential schools, three-day residential courses may be held. The timetable is determined by the length of the course and whether it is residential or not. The timetable should be modified to avoid the times when other students who are not participating in the course could interact with the children taking the course. Enough time should be scheduled for meditation periods, counselling (when the CCT meets with small groups of children to reinforce the practice), discourses and stories, lunch, rest, play, etc. The total duration of a one-day course is about six hours. The timetable will be decided by the teacher conducting the course in consultation with the organisers and school administrator.
Các thời khoá khác nhau đã được xây dựng và tổ chức thành công ở các trường học trong những năm qua. Các khóa thiền ngoại trú một ngày hoặc hai ngày có thể dễ dàng được tổ chức trong các giờ học trên trường. Trong các trường nội trú, các khóa học nội trú ba ngày có thể được tổ chức. Thời gian biểu được xác định bởi thời lượng của khóa học và hình thức cư trú. Thời khóa biểu được điều chỉnh để đảm bảo những học sinh không tham gia khóa thiền thì không tương tác với những học sinh đang tham gia khóa thiền. Cần sắp xếp thời gian cho các thời thiền chung, vấn đáp (khi thiền sư gặp gỡ với các nhóm học sinh để củng cố việc hành thiền), các bài pháp thoại và các mẩu chuyện, ăn trưa, nghỉ ngơi, vui chơi, v.v. Tổng thời lượng của một khóa học một ngày là khoảng sáu giờ. Thời khóa biểu sẽ được quyết định bởi giáo viên tiến hành khóa học với sự tư vấn của ban tổ chức và quản trị viên của trường.
Pre-requisites for Schools intentded to conduct Anapana Courses – Điều kiện tiên quyết cho các trường dự định tiến hành các khóa học Anapana
To begin the process of having a children’s Anapana course held in a school, the administrator or the head of the school should send a formal request along with the duly filled Requisition Form (please see below) to either the Regional Co-ordinator of Children’s Courses, a Children’s Course Teacher or a local Vipassana meditation centre. Please click here for the requisite contact details.
Để bắt đầu quá trình tổ chức khóa học Anapana dành cho trẻ em trong trường, quản trị viên hoặc ban giám hiệu phải gửi yêu cầu chính thức cùng với Đơn Đề nghị Tổ chức được điền đầy đủ thông tin (vui lòng xem bên dưới) cho Điều phối viên khu vực của các khóa thiền trẻ em, hoặc cho một giáo viên hoặc một trung tâm thiền Vipassana địa phương. Xin vui lòng bấm vào đây để biết thêm chi tiết liên lạc cần thiết.
At least one person from the teaching staff or administration should have completed a ten-day Vipassana course in this tradition.
Ít nhất một người từ đội ngũ giảng viên hoặc ban giám hiệu đã phải hoàn thành khóa thiền Vipassana mười ngày.
Apart from this, there should be a firm commitment by the school or institution to provide an opportunity for the children to continue their practice of meditation for a few minutes every day.
Ngoài ra, cần có một cam kết chắc chắn từ phía nhà trường hoặc tổ chức để giúp tạo điều kiện cho các em học sinh tiếp tục có thể thực hành thiền trong vài phút mỗi ngày.
The school management may decide the time to implement this programme within their daily routine, with the minimum of about ten minutes a day for practice. The limit on the number of students participating in a course should be carefully determined. A very large group may be difficult to manage and a very small group may have difficulty in creating a cohesive and inspirational atmosphere. Generally, courses with between twenty-five to fifty participants work well. However, depending on the infrastructure, facility and circumstances, the number may vary.
Ban quản lý nhà trường có thể quyết định thời gian thực hiện chương trình này tuỳ theo lịch trình hàng ngày của họ, với tối thiểu khoảng mười phút thực hành mỗi ngày. Số lượng học sinh tham gia một khóa học nên được xác định cẩn trọng. Một nhóm rất lớn có thể khó quản lý và một nhóm rất nhỏ có thể gặp khó khăn trong việc tạo ra một bầu không khí gắn kết và truyền cảm hứng. Nói chung, các khóa học có từ hai mươi lăm đến năm mươi em tham gia là tốt nhất. Tuy nhiên, tùy thuộc vào cơ sở hạ tầng, thiết bị và điều kiện, số lượng học sinh tham gia có thể khác nhau.
Ideally, a course should be organised for all of the students from the participating classes. All the teachers of the participating classes should also participate in the course. The teachers of the participating classes may sit as observers. Besides organising courses during the regular school week, courses may also be organised to take place at the school on a weekend or during vacation periods.
Lý tưởng nhất là tổ chức một khoá cho tất cả các học sinh từ một lớp học. Tất cả các giáo viên của lớp đó cũng nên tham gia vào khóa học. Các giáo viên có thể đóng vai trò như quan sát viên. Bên cạnh việc tổ chức các khóa học trong các ngày trong tuần như thường lệ, các khóa học cũng có thể được tổ chức tại trường vào cuối tuần hoặc trong kỳ nghỉ.
Guidelines for Courses in Institutions – Hướng dẫn các khóa học trong các tổ chức
For a residential Anapana course, separate and adequate sleeping accommodations, showers, and toilets should be available for boys and girls. A dining facility where boys and girls can sit separately is also required.
Đối với một khóa học Anapana nội trú, cần có đủ phòng ngủ, vòi hoa sen và nhà vệ sinh tách biệt cho học sinh nam và học sinh nữ. Khu vực ăn uống cũng cần tách biệt.
The course should be organised in a way that no other students or staff are present in the area where the course is being conducted or where the attending children will be residing. Organising on weekends or during holidays can be helpful in insuring this separation.
Khóa học cần đảm bảo không cho phép những người không tham gia đi vào khu vực cư trú của các thiền sinh. Việc tổ chức vào cuối tuần hoặc trong ngày lễ có thể hữu ích trong việc bảo đảm sự tách biệt này.
A large enough room or hall should be available for seating all the meditators on the floor on cushions or comfortable mats.
Một căn phòng hoặc thiền đường đủ lớn nên có sẵn để tất cả các thiền sinh có thể ngồi đủ trên sàn, trên đệm hoặc thảm một cách thoải mái.
A suitable sound system, a VCR and TV should be available for playing instruction tapes and discourses.
Một hệ thống âm thanh phù hợp, một VCR và TV nên có sẵn để phát băng hướng dẫn và pháp thoại.
The place for meditation and the accommodations should be at a sufficient distance from main ro ads and traffic in order to have the quiet, peaceful atmosphere required for meditation.
Thiền đường và phòng ở phải cách một khoảng vừa đủ từ các trục đường chính và giao thông để có được bầu không khí yên tĩnh, yên bình cần thiết cho thiền định.
A few course servers, who are experienced Vipassana meditators, may be required to help in running and managing the course.
Người phục vụ Vipassana có kinh nghiệm có thể được yêu cầu để giúp đỡ trong việc điều hành và quản lý khóa học.
If there are children who are old students and have been doing courses regularly, they may serve on the course, having minor responsibilities. (They should never be put in a counsellor role).
Những thiền sinh cũ và thường xuyên tham gia các khóa có thể phục vụ trong khóa học và phụ giúp việc. (Họ không bao giờ nên làm nhiệm vụ vấn đáp như các thiền sư).
Requisition Form – Đơn Đề nghị Tổ chức
(From school administrators and heads of institutions, for conducting Anapana courses in their institutions)
(Từ ban giám hiệu trường và người đứng đầu các tổ chức, để thực hiện các khóa học Anapana trong các địa điểm của họ)
Name and address of the sponsoring authority – Tên và địa chỉ của cơ quan bảo trợ
Name and address of the school/institution participating – Tên và địa chỉ của trường/tổ chức tham gia
Name/s of the person/s in the institution who has/ have done a ten-day course previously and their position in the school (i.e., Head/ Principal/ Trustee/ Teacher) – Tên của (những) người trong tổ chức đã tham gia khóa học mười ngày trước đó và vị trí của họ trong trường (ví dụ, Hiệu trưởng / Ủy viên / Giáo viên)
Dates of his/ her first and last course – Ngày tham gia và ngày kết thúc khóa thiền đầu tiên
Proposed duration of course (one/ two/ three-day) – Thời lượng dự kiến của khóa học (một / hai / ba ngày)
Age group of participants and break-up of male/ female participants – Nhóm tuổi của các thiền sinh và danh sách tách biệt thiền sinh nam / nữ
Details of facilities available: a. Hall for meditation b. Residence and amenities c. Microphone/ Audio/ Video arrangements d. Food and dining facilities – Chi tiết về các cơ sở vật chất có sẵn: a. Thiền đường b. Khu nhà ở và tiện nghi c. Sự sắp xếp Micrô / Âm thanh / Video d. Cơ sở ăn uống.
Nguồn: Viện Nghiên Cứu Vipassana VRIDhamma.org