LỜI DẠY CỦA DHAMMA THUẦN KHIẾT – THE TEACHING OF PURE DHAMMA

The Teaching of Pure Dhamma – Lời dạy của Dhamma thuần khiết

The Buddha sent his sixty Dhamma sons in various directions after helping them to establish themselves in Dhamma. They worked as the first Dhamma ambassadors disseminating pure teachings of the Perfectly Enlightened One (a Samma Sambuddha who attains full enlightenment by his own efforts) to the people. 

Đức Phật đã gửi sáu mươi con trai Dhamma của mình theo nhiều hướng khác nhau sau khi giúp họ thành lập chính mình trong Dhamma. Họ làm việc như những đại sứ Dhamma đầu tiên truyền bá những giáo lý thuần túy của Đấng giác ngộ hoàn hảo (một Samma Sambuddha, người đã đạt được giác ngộ hoàn toàn bằng nỗ lực của chính mình) cho mọi người.

They taught people the same Dhamma as the Buddha had taught them. The Buddha never called his teaching ‘Buddhism’. Had it been so, it would have become a sect. Instead he called it Dhamma and referred to its followers as Dharmik (one who walks on the path of Dhamma). These 60 Dhamma ambassadors applied themselves to the task of teaching Dhamma to the people. Had they taught Buddhism people might not have accepted it as it would have been just one of the many sectarian views. Dhamma actually belongs to all. It is universal, everlasting, crossing all boundaries of different sectarian views. The laws of nature, which govern the universe are called Dhamma. These laws apply to all without any exception. They work without fear or favour. The Dhamma of fire is to burn and cause others who come in its contact to burn. The Dhamma of the sun is to provide light and warmth and that of the moon is to provide light and coolness. These are equally available to everyone. 

Họ đã dạy cho mọi người Dhamma giống như Đức Phật đã dạy họ. Đức Phật không bao giờ gọi giáo lý của mình là ‘Phật giáo’. Nếu nó được như vậy, nó sẽ trở thành một giáo phái. Thay vào đó, Đức Phật gọi nó là Dhamma và gọi những người theo nó là Dharmik (một người đi trên con đường của Dhamma). 60 đại sứ Dhamma này đã tự áp dụng vào nhiệm vụ giảng dạy Dhamma cho mọi người. Nếu họ dạy Phật giáo mọi người có thể không chấp nhận nó vì nó sẽ chỉ là một trong nhiều quan điểm giáo phái. Dhamma thực sự thuộc về tất cả. Nó là phổ quát, vĩnh cửu, vượt qua mọi ranh giới của các quan điểm giáo phái khác nhau. Quy luật tự nhiên, chi phối vũ trụ được gọi là Dhamma. Những luật này áp dụng cho tất cả mà không có ngoại lệ. Nó làm việc mà không sợ hãi hay ủng hộ. Dhamma của lửa là để đốt cháy và khiến những người khác tiếp xúc với nó bị đốt cháy. Dhamma  của mặt trời là cung cấp ánh sáng và sự ấm áp và của mặt trăng là cung cấp ánh sáng và sự mát mẻ. Chúng có sẵn như nhau cho tất cả mọi người.

It seems to me, therefore, that the first ambassadors of Dhamma did not have to face much difficulty in their work of spreading Dhamma. One of the reasons for this could be that they did not set out merely to give sermons on Dhamma, but helped people to practice it and adopt it in life. Had it been merely limited to sermonizing, then like various sects already there in society it would have been just one of them as said above. But whereas other sectarian teachers did not know how to teach Dhamma so that people could live it, those ambassadors did so. They highlighted the practical aspect of Dhamma, so that by practicing it, people gained immediate benefits.

Do đó, dường như đối với tôi, các đại sứ đầu tiên của Dhamma không phải đối mặt với nhiều khó khăn trong công việc truyền bá Dhamma của họ. Một trong những lý do cho điều này có thể là họ đã không đặt ra chỉ để thuyết pháp về Dhamma, nhưng đã giúp mọi người thực hành nó và áp dụng nó trong cuộc sống. Nếu nó chỉ bị giới hạn trong việc thuyết pháp, thì giống như các giáo phái khác nhau đã có trong xã hội, nó sẽ chỉ là một trong số họ như đã nói ở trên. Nhưng trong khi các giáo viên giáo phái khác không biết cách dạy Dhamma để mọi người có thể sống nó, những đại sứ đó đã làm như vậy. Họ nhấn mạnh khía cạnh thực tế của Dhamma, để bằng cách thực hành nó, mọi người đã đạt được lợi ích ngay lập tức.

The following three are the major constituents of Dhamma – Ba điều sau đây là yếu tố chính của Dhamma:

Morality (sila) – Đạo đức (giới)

The first constituent of Dhamma is morality, i.e. righteousness. Nearly all followers of various sects and doctrines during that time accepted the importance of morality.

Yếu tố đầu tiên của Dhamma là đạo đức, tức là tính ngay thẳng đạo đức. Gần như tất cả những người theo các giáo phái và chủ nghĩa khác nhau trong thời gian đó đã chấp nhận tầm quan trọng của đạo đức.

I know this from my own experience because I was born and brought up in an orthodox Hindu family. The elders taught me the lesson of cultivating devotion to God. In the prayer to God taught to us by the teacher in school, we were instructed to pray to Him to.”Take us in your refuge, make us virtuous”.

Tôi biết điều này từ kinh nghiệm của bản thân vì tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình theo đạo Hindu chính thống. Người lớn đã dạy tôi bài học tu dưỡng lòng sùng kính đối với Thần linh. Trong lời cầu nguyện với Thần linh chúng tôi được dạy bởi giáo viên trong trường, chúng tôi được hướng dẫn cầu nguyện với Ngài “Hãy đưa chúng tôi vào nơi nương tựa của ngài, làm cho chúng tôi có đạo đức”.

The teacher in our school asked us not to commit any such deed by body or speech, which hurts or harms any being. Committing such an act is wrong conduct and not doing it is right conduct. In all traditions, the lesson of right conduct is taught from childhood onwards. So I can very well infer that when the Dhamma ambassadors of the Buddha prevailing set out on their journeys to spread his teachings and they first asked people to observe precepts of morality, there was no opposition to it from any quarter. These Dhamma ambassadors must have taught them that the thought of doing wholesome or unwholesome actions first arises in the mind. Then it gets manifested as deeds of speech and body. None of the wise men might have had any difficulty in accepting this truth also. For living a virtuous life, one has to certainly avoid committing misdeeds of body and speech. Although it is very necessary, it is very hard to free the mind from misdeeds.

Giáo viên trong trường của chúng tôi yêu cầu chúng tôi không phạm bất kỳ hành động nào bằng cơ thể hoặc lời nói làm tổn thương hoặc làm tổn hại bất kỳ thực thể nào. Thực hiện một hành động như vậy là hạnh kiểm sai trái và không thực hiện nó là hạnh kiểm đúng. Trong tất cả các truyền thống, bài học về hạnh kiểm đúng đắn được dạy từ thời thơ ấu trở đi. Vì vậy, tôi có thể suy luận rất tốt rằng khi các đại sứ Dhamma thịnh hành trên hành trình truyền bá giáo lý của mình và trước tiên họ yêu cầu mọi người tuân thủ giới luật về đạo đức, không có sự phản đối nào từ bất kỳ nơi nào. Những đại sứ Dhamma này phải dạy họ rằng ý nghĩ thực hiện những hành động lành mạnh hoặc bất thiện trước hết nảy sinh trong tâm trí. Sau đó, nó được biểu hiện như hành động của lời nói và cơ thể. Không ai trong số những người khôn ngoan có thể gặp khó khăn trong việc chấp nhận sự thật này. Để sống một cuộc sống có đạo đức, người ta chắc chắn phải tránh những hành vi sai trái về thể xác và lời nói. Mặc dù nó rất cần thiết, nhưng rất khó để giải phóng tâm trí khỏi những hành vi sai trái.

It might not have been difficult for a common man of that time to understand that mind precedes all phenomena. All phenomena spring from mind. Mind matters most which is chief, and therefore everything is mind-made –  Mano-pubbangama dhamma, mano-settha, manomaya. It is necessary to purify the mind for purifying oneself. An action of speech or body performed with an impure mind is a misdeed, which harms one and also others. Similarly, an action performed with a pure mind is virtuous action beneficial to one and also to others. When the mind gets defiled the actions of body and speech also get defiled and their consequences cause suffering. As it is said –

“Manasa ce padutthena, bhasati va karoti va; Tato nam dukkhamanveti, cakkam’va vahato padam.”

Một người bình thường thời đó có thể không khó hiểu rằng tâm trí đi trước mọi hiện tượng. Tất cả các hiện tượng nảy sinh từ tâm trí. Tâm quan trọng nhất là chánh, và do đó mọi thứ đều do tâm – Mano-pubbangama dhamma, mano-settha, manomaya. Thanh lọc tâm trí là điều cần thiết để thanh lọc chính mình. Một hành động của lời nói hoặc cơ thể được thực hiện với một tâm trí không trong sạch là một hành động sai trái, cái gây hại cho người này và cả những người khác. Tương tự như vậy, một hành động được thực hiện với một tâm trí thuần khiết là hành động có đạo đức có lợi cho người này và cho những người khác. Khi tâm bị ô uế, hành động của thân thể và lời nói cũng bị ô uế và hậu quả của chúng gây ra đau khổ. Như nó đã nói –

“Manasa ce padutthena, bhasati va karoti va; Tato nam dukkhamanveti, cakkam’va vahato padam.”

— If with an impure mind one performs any action of speech or body, then suffering follows that person as the cartwheel follows the foot of the draught animal. Similarly – When the mind is pure the actions of body and speech also become naturally pure and their results lead to happiness.

Nếu với một tâm trí không trong sạch, người ta thực hiện bất kỳ hành động nào của lời nói hoặc cơ thể, thì sự đau khổ sẽ theo người đó như chiếc xe đẩy đi theo chân con vật kéo xe. Tương tự – Khi tâm thanh tịnh, hành động của cơ thể và lời nói cũng trở nên thuần khiết tự nhiên và kết quả của chúng dẫn đến hạnh phúc.

“Manasa ce pasannena, bhasati va karoti va; Tato nam sukhamanveti, chaya’va anapayini.”

— If with a pure mind one performs any action of speech or body, then happiness follows that person as a shadow that never departs.

Nếu với một tâm trí thuần khiết, người ta thực hiện bất kỳ hành động nào của lời nói hoặc cơ thể, thì hạnh phúc sẽ theo người đó như một cái bóng không bao giờ rời xa.

When these ambassadors of the Buddha taught people the way to become righteous by attaining control over their minds, then their actions of speech and body naturally became virtuous. Shadow that never departs.

Khi những đại sứ của Đức Phật dạy mọi người cách trở nên công chính bằng cách giành quyền kiểm soát tâm trí của họ, thì hành động của lời nói hoặc cơ thể của họ tự nhiên trở nên đạo đức. Cái bóng không bao giờ rời xa.

Concentration of mind (Samadhi) – Sự tập trung tâm trí (Định)

It is necessary to attain control over mind for purifying one’s actions of body and speech. When the mind is under control then only one can avoid committing misdeeds and tend to perform virtuous actions. For achieving concentration of mind observation of sila is a necessary condition.

Cần thiết phải đạt được sự kiểm soát tâm trí để thanh lọc hành động của cơ thể và lời nói. Khi tâm trí bị kiểm soát thì chỉ có một người có thể tránh phạm phải những hành vi sai trái và có xu hướng thực hiện những hành động đạo đức. Để đạt được sự tập trung quan sát tâm trí của sila là một điều kiện cần thiết.

Most of the Indians of those days gave importance to the attainment of control over mind and for this adopted several measures, some of which are still prevalent. For example-everyone has his own deity or god or goddess whom he reveres. He recites his or her name repeatedly so that he/she is pleased and makes his mind concentrated. However, this way of attaining concentration is not universal but sectarian because his/her god or goddess is not universally accepted by all.

Hầu hết người Ấn Độ thời đó đều coi trọng việc đạt được sự kiểm soát tâm trí và đối với việc áp dụng một số biện pháp này, một số trong đó vẫn còn phổ biến. Ví dụ – mọi người đều có vị thần hoặc thần hoặc nữ thần của riêng mình người mà anh ta tôn kính. Anh ấy đọc thuộc lòng tên của vị thần ấy hoặc nữ thần ấy nhiều lần để vị thần ấy / nự thần ấy hài lòng và làm cho tâm trí của anh ấy tập trung. Tuy nhiên, cách thức đạt được sự tập trung này không phải là phổ quát mà là thuộc giáo phái bởi vì thần hoặc nữ thần của anh ấy không được tất cả mọi người chấp nhận.

The Dhamma sons of the Buddha did not seem to have created any controversy by contradicting such beliefs of the people. But, gradually this truth was established in their minds that one’s liberation is in one’s own hands. Instead of concentrating the mind and purifying it by taking support of anyone else, they must have realized that an individual is one’s own master, who else can be his master? Atta hi attano natho, ko hi natho paro siya. They also must have realized that one’s attaining good state or bad state is in one’s own hands. — Atta hi attano gati. Therefore, for improving one’s condition, one has to make efforts at one’s own level.

Các con trai Dhamma của Đức Phật dường như không tạo ra bất kỳ tranh cãi nào bởi mâu thuẫn với niềm tin của con người. Nhưng, dần dần sự thật này đã được thiết lập trong tâm trí của họ rằng sự giải thoát của một người nằm trong tay của chính mình. Thay vì tập trung tâm trí và thanh lọc nó bằng cách hỗ trợ bất cứ ai khác, họ phải nhận ra rằng một cá nhân là chủ nhân của chính mình, ai khác có thể là chủ nhân của anh ta? Atta hi attano natho, ko hi natho paro siya. Họ cũng phải nhận ra rằng một người đạt được trạng thái tốt hay trạng thái xấu nằm trong tay của chính mình. — Atta hi attano gati. Do đó, để cải thiện tình trạng của một người, người ta phải nỗ lực ở cấp độ của chính mình.

For attaining control over mind, the Dhamma ambassadors showed them the universal way. ‘Keep on observing the flow of the normal breath coming in and going out naturally. As soon as the mind wanders away, bring it back to the awareness of the breath. No word should be repeated with the breath; no imaginary belief is to be combined with it. As the breath is coming in and going out naturally, just keep observing it as it is.’

Để đạt được sự kiểm soát tâm trí, các đại sứ Dhamma đã chỉ cho họ cách phổ quát. ‘Tiếp tục quan sát dòng hơi thở bình thường ra vào một cách tự nhiên. Ngay khi tâm trí bỏ đi lang thang, hãy đưa nó trở lại nhận thức của hơi thở. Không có từ nào nên được lặp lại với hơi thở; không có niềm tin tưởng tượng được kết hợp với nó. Khi hơi thở vào và ra một cách tự nhiên, cứ tiếp tục quan sát nó như hiện tại. ‘

Some people might have accepted this technique of self -reliance, while many might have given importance to the traditional way of achieving concentration. Those who took recourse to self -reliance in place of the traditional way might have turned to wisdom (Pañña).

Một số người có thể đã chấp nhận kỹ thuật tự lập này, trong khi nhiều người có thể coi trọng cách thức truyền thống để đạt được sự tập trung. Những người đã trông cậy vào sự tự lập thay cho cách truyền thống có thể đã chuyển sang trí tuệ (Pañña).

Wisdom (Pañña) – Trí tuệ (Tuệ)

As one gets strengthened in the right concentration (samma samadhi) on the basis of normal, natural breath, one starts experiencing some sensation near the entrance of the nostrils. Then it starts spreading in the whole body. The truth which one thus realizes is due to one’s own efforts. Therefore, it is not indirect knowledge. It is a knowledge gained through one’s direct experience. Thus, it is called Prajña (wisdom – direct experiential knowledge).

Khi một người trở nên mạnh trong sự tập trung (samma samadhi) trên cơ sở hơi thở tự nhiên, bình thường, người ta bắt đầu trải qua một số cảm giác gần lối vào của ống mũi. Sau đó, nó bắt đầu lan rộng trong toàn bộ cơ thể. Sự thật mà người ta nhận ra là do nỗ lực của chính mình. Do đó, nó không phải là kiến ​​thức gián tiếp. Đó là một kiến ​​thức có được thông qua kinh nghiệm trực tiếp của một người. Do đó, nó được gọi là Prajña (trí tuệ – kiến ​​thức kinh nghiệm trực tiếp).

As one worked more and more to develop concentration, one came to realize the three kinds of wisdom.

Khi một người làm việc ngày càng nhiều để phát triển sự tập trung, người ta đã nhận ra ba loại trí tuệ.

First is the ‘heard wisdom’ (srutmayi Pañña), which is the knowledge acquired by hearing from someone and accepting it with reverence.

Đầu tiên là ‘trí tuệ nghe được’ (srutmayi Pañña), đó là kiến ​​thức có được khi nghe từ ai đó và chấp nhận nó với sự tôn kính.

Second is intellectual wisdom (Cintanamayi Pañña) which is gained by reflecting over what one has heard from others. When he finds it logical he accepts it. This is called intellectual knowledge gained at the intellectual level by reflection. But both of these are not wisdom in the right sense.

Thứ hai là trí tuệ tư duy (Cintanamayi Pañña) có được bằng cách phản ánh những gì người ta đã nghe từ người khác. Khi anh ta thấy nó hợp lý, anh ta chấp nhận nó. Điều này được gọi là kiến ​​thức trí tuệ đạt được ở cấp độ trí tuệ bằng sự phản ánh. Nhưng cả hai điều này không phải là trí tuệ theo đúng nghĩa.

Third is ‘experiential wisdom’ (Bhavanamayi Pañña). This is right wisdom, which is the knowledge gained through one’s own experience. Accepting something as true after hearing from others is not real knowledge. Nor reflecting over something found in a book as logical also is wisdom. The right wisdom is that knowledge which arises through one’s own direct experience. It is not indirect knowledge, but it is one’s own direct knowledge. Therefore, this is wisdom in the right sense.

Thứ ba là “trí tuệ thực chứng” (Bhavanamayi Pañña). Đây là trí tuệ đúng đắn, là kiến ​​thức thu được thông qua kinh nghiệm của chính mình. Chấp nhận một cái gì đó là đúng sau khi nghe từ người khác không phải là kiến ​​thức thực sự. Cũng không phản ánh về một cái gì đó được tìm thấy trong một cuốn sách hợp lý cũng là trí tuệ. Trí tuệ đúng đắn là kiến ​​thức nảy sinh thông qua kinh nghiệm trực tiếp của chính mình. Nó không phải là kiến ​​thức gián tiếp, mà nó là kiến ​​thức trực tiếp của chính mình. Do đó, đây là trí tuệ theo đúng nghĩa.

People meditating in the way taught by the first Dhamma ambassadors might have found great improvement and change in their minds. Someone, who was wicked, became a righteous person, and became a man of integrity. Someone, who was a drunkard, got out of his addiction. A gambler got rid of the habit of gambling. An adulterer gave up committing adultery. In this way, people started getting benefited by this technique. Many people after getting rid of their bad actions started performing good actions. The people found the technique given by the Dhamma sons of the Buddha as instantaneously result-producing. However, one has to work hard at one’s own level to attain the benefits from this. Someone may explain how to go on the path, but one has to walk on it on his own. One cannot depend upon other’s support and help for none can proxy for others.

Mọi người thiền theo cách được giảng dạy bởi các đại sứ Dhamma đầu tiên có thể đã tìm thấy sự cải thiện và thay đổi lớn trong tâm trí của họ. Người nào đó, kẻ độc ác, đã trở thành một người ngay thẳng, và trở thành một người chính trực. Người nàp đó, một người say rượu, đã thoát khỏi cơn nghiện. Một con bạc đã bỏ thói quen đánh bạc. Một người ngoại tình đã từ bỏ việc ngoại tình. Theo cách này, mọi người bắt đầu được hưởng lợi từ kỹ thuật này. Nhiều người sau khi thoát khỏi những hành động xấu của họ bắt đầu thực hiện những hành động tốt. Mọi người tìm thấy kỹ thuật được đưa ra bởi các con trai Dhamma của Đức Phật là kết quả tức thời. Tuy nhiên, người ta phải làm việc chăm chỉ ở cấp độ của chính mình để đạt được những lợi ích từ việc này. Vài người có thể giải thích làm thế nào để đi trên con đường, nhưng người ta phải tự mình đi trên nó. Người ta không thể phụ thuộc vào sự hỗ trợ và giúp đỡ của người khác mà không ai có thể ủy quyền cho người khác.

Still, some people because of their fascination for the old traditions might not have shown their inclination towards this technique. But when they saw others reaping benefits from it they must have been attracted towards it.

Tuy nhiên, một số người vì niềm đam mê của họ đối với các truyền thống cũ có thể không thể hiện chiều hướng của họ đối với kỹ thuật này. Nhưng khi họ thấy những người khác gặt hái lợi ích từ nó, họ hẳn đã bị thu hút về phía nó.

Thus, this technique of self reliance based on truth giving immediate results started attracting people. The first Dhamma ambassadors of the Buddha while moving in different directions began to teach this technique. People were attracted towards it as they were benefited by it. In this way, these sixty Dhamma ambassadors began to teach this technique of meditation. But, later on many meritorious people walking on this path derived benefit and began to teach this useful technique to others. Thus, this technique of the Buddha spread in cities and villages of the Northern India. People practicing it began to promote their welfare.

Do đó, kỹ thuật tự lực này dựa trên sự thật cho kết quả ngay lập tức bắt đầu thu hút mọi người. Các đại sứ Dhamma đầu tiên của Đức Phật trong khi di chuyển theo các hướng khác nhau bắt đầu dạy kỹ thuật này. Mọi người bị thu hút về phía nó vì họ được hưởng lợi từ nó. Theo cách này, sáu mươi đại sứ Dhamma bắt đầu dạy kỹ thuật thiền này. Nhưng, sau này, nhiều người đáng khen đi trên con đường này có được lợi ích và bắt đầu dạy kỹ thuật hữu ích này cho người khác. Do đó, kỹ thuật này của Đức Phật đã lan rộng trong các thành phố và làng mạc của miền Bắc Ấn Độ. Những người thực hành nó bắt đầu phát huy phúc lợi của họ.

Among the first 60 Dhamma ambassadors, 5 were Brahmins and 55 belonged to the merchant class. Because of their contacts with the merchant community, Dhamma spread faster among merchants. As they undertook long journeys to far- off places for spreading their business they expounded the teachings of the Buddha wherever they went. Through them the teachings of the Buddha began to spread far and wide.

Trong số 60 đại sứ Dhamma đầu tiên, 5 người là Bà la môn và 55 thuộc về tầng lớp thương gia. Vì liên hệ với cộng đồng thương gia, Dhamma lan truyền nhanh hơn giữa các thương nhân. Khi họ thực hiện những chuyến đi dài đến những nơi xa xôi để truyền bá công việc kinh doanh của họ, họ đã trình bày những lời dạy của Đức Phật bất cứ nơi nào họ đi tới. Thông qua họ những lời dạy của Đức Phật bắt đầu lan xa và rộng rải.

A group of such merchants reached Takshshila– the capital city of Gandhaar and met king Pukkusaati. When the king heard of the teachings of the Buddha and came to know that the Buddha was residing at Rajgir at that time he was extremely thrilled and became eager to meet him. Because of his past merits (parmi), he abandoned his kingdom and set out on his journey to Rajgir to meet the Buddha and receive his teachings. As he was greatly fond of his people, so seeing him leave his palace and going away they were greatly shocked. They also started following him. He asked them not to follow him but they did not obey. At last he said firmly, ‘if you consider me your king then I draw this line. Do not cross it.’ The people were disappointed and returned reluctantly. He walked alone on foot. When he reached Rajgir after a long journey, it was evening. The doors of the city were closed. So he stayed in an inn belonging to a potter. By chance, the Buddha was also staying there. He received the teachings of pure Dhamma from the Buddha there and instantaneously attained the stage of Anagami (Non-Returner). The Buddha then asked him to visit the town in the morning and bring robes from someone, so that he could be ordained as a monk. As he was going to the town, he met an accident. He was gored to death by a bull. Thus, he could not become a monk and was thus deprived of higher ordination (upsampada).

Một nhóm thương nhân như vậy đã đến Takshshila– thành phố thủ đô của Gandhaar và gặp vua Pukkusaati. Khi nhà vua nghe về những lời dạy của Đức Phật và biết rằng Đức Phật đang cư trú tại Rajgir, lúc đó ông vô cùng hồi hộp và trở nên háo hức được gặp Đức Phật. Vì công đức trong quá khứ của ông (parmi), ông đã từ bỏ vương quốc của mình và lên đường đến Rajgir để gặp Đức Phật và nhận được giáo lý của ngài. Vì ông rất yêu quý người dân của mình, nên nhìn thấy ông rời khỏi cung điện của mình và đi xa, họ đã rất sốc. Họ cũng bắt đầu theo ông. Ông yêu cầu họ đừng theo ông nhưng họ không tuân theo. Cuối cùng ông nói một cách chắc chắn, ‘nếu các ngươi coi ta là vua của các ngươi thì ta vẽ đường này. Đừng vượt qua nó. ‘ Người dân thất vọng và trở về bất đắc dĩ. Ông đi bộ một mình. Khi ông đến Rajgir sau một hành trình dài, đó là vào buổi tối. Các cánh cửa của thành phố đã bị đóng. Vì vậy, ông ở trong một quán trọ cua một người gác cửa. Tình cờ, Đức Phật cũng ở lại đó. Ông đã nhận được những giáo lý của Dhamma thuần túy từ Đức Phật ở đó và ngay lập tức đạt được giai đoạn Anagami (Người không trở về). Đức Phật sau đó yêu cầu ông đến thị trấn vào buổi sáng và mang áo choàng từ một người nào đó, để anh ta có thể được xuất gia như một nhà sư. Khi ông đang đi đến thị trấn, ông đã gặp một tai nạn. Ông bị một con bò tót đâm chết. Vì vậy, ông không thể trở thành một nhà sư và do đó bị tước lễ thụ chức cao hơn (upsampada).

This is only an example to show how the teachings of the Buddha reached far-off countries like Gandhar and Shal (Queta). Wherever his teachings reached, people were attracted towards them. They accepted them and were benefited. Thus, the light emitted by theDhammacakka (the wheel of Dhamma) spread far and wide in the Northern India. Let us also be inspired by this instance and make efforts for our welfare. In this lie happiness and welfare of all.

Đây chỉ là một ví dụ để cho thấy làm thế nào những lời dạy của Đức Phật đến các quốc gia xa xôi như Gandhar và Shal (Queta). Bất cứ nơi nào giáo lý của Đức Phật đi đến, mọi người đều bị thu hút về phía chúng. Họ đã chấp nhận chúng và được hưởng lợi. Do đó, ánh sáng phát ra từ Dhammacakka (bánh xe của Dhamma) lan xa và rộng khắp ở miền Bắc Ấn Độ. Chúng ta cũng được truyền cảm hứng bởi trường hợp này và nỗ lực cho phúc lợi của chúng ta. Trong lời nói dối hạnh phúc và phúc lợi của tất cả mọi người.

 

Nguồn Viện Nghiên Cứu Vipassana VRIDhamma.org

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *