Tiểu Bộ – Bổn Sanh I: Nhóm ba kệ ngôn, Phẩm 1 – 5
▪ 1. SAṄKAPPAVAGGO
▪ 1. PHẨM TƯ DUY
358. Saṅkapparāgadhotena vitakkanisitena ca,nālaṅkatena bhaddena na usukārakatena ca.
358. “Mũi tên ấy đã được tưới nước luyến ái cùng với sự tư duy (về dục), và đã được nương vào sự suy tầm, không được trau chuốt, tốt đẹp, và không được tạo ra bởi người thợ làm tên.
Không có người bắn cung
Phóng tên ở bên tai,
Không có tên bằng lông
Ðược nhổ từ cánh công,
Và được trang hoàng đẹp
Bởi người làm tên khéo.
359. Na kaṇṇāyatamuttena napi morūpasevinā, tenamhi hadaye viddho sabbaṅgaparidāhinā.
359. Nó không được bắn ra sau khi kéo căng đến tận lỗ tai, cũng không được thực hiện với lông chim công. Ta đã bị mũi tên (ái dục) ấy đâm vào trái tim cùng với sự nóng nảy của toàn bộ thân thể.
Chính là tâm của ta
Ðược gột sạch tham ái
Liên hệ với dục tầm
Bằng quyết tâm, trí tuệ,
Chính dục tạo vết thương
Thiêu đốt khắp tay chân
Chẳng khác gì ngọn lửa.
360. Āvedhañca na passāmi yato ruhiramassave, yāva ayoniso cittaṃ sayaṃ me dukkhamābhatan ”ti.
1. Saṅkappajātakaṃ.
360. Và ta không nhìn thấy chỗ bị đâm, từ đó máu có thể chảy ra. Chừng nào tâm còn hoạt động không đúng đường lối, ta còn đem đến khổ đau cho chính mình.”
1. Bổn sanh Tư Duy.
Ta không thấy vết thương.
Từ đấy máu rỉ chảy,
Do tâm không chân chính,
Ðã đâm thủng tự thân.
361. Ajjāpi me taṃ manasi yaṃ maṃ tvaṃ tilamuṭṭhiyā, bāhāya maṃ gahetvāna laṭṭhiyā anutāḷayi.
361. “Hôm nay, trẫm cũng nghĩ đến điều ấy, là việc khanh phạt trẫm vì nắm hạt mè; khanh đã nắm lấy trẫm ở cánh tay và đã đánh trẫm bằng cây gậy.
Hôm nay ta nghĩ đến
Sự việc ông đã làm,
Chỉ vì một nắm mè,
Ông bắt trói tay ta,
Ông lấy cây gậy tre,
Ðánh ta thật đau đớn.
362. Nanu jīvite na ramasi yenāsi brāhmaṇāgato, yaṃ maṃ bāhaṃ gahetvāna tikkhattuṃ anutāḷayī.
362. Chẳng phải khanh không vui thích mạng sống sao? Vì việc ấy, vị Bà-la- môn đã đi đến, là việc sau khi nắm lấy cánh tay trẫm, khanh đã đánh trẫm ba lần.”
Ông không thích sống à?
Phạm chí không sợ sao
Khi bắt cánh tay ta,
Ðánh ta đến ba lần?
Nay còn dám đến đây?
362. Ariyo anariyaṃ kubbānaṃ yo daṇḍena nisedhati, sāsanatthaṃ na taṃ veraṃ iti naṃ paṇḍitā vidū ”ti.
2. Tilamuṭṭhijātakaṃ.
363. “Vị thánh thiện, trong lúc làm việc không thánh thiện, là vị cấm đoán bằng gậy gộc với mục đích chỉ dạy, việc ấy không phải là thù hận, các bậc sáng suốt hiểu rõ điều ấy.”
2. Bổn sanh Nắm Hạt Mè.
Bậc thánh dùng gậy đánh,
Nhiếp phục hạnh không lành,
Như vậy đúng giáo lý,
Ðây không phải hận thù,
Tất cả bậc hiền trí
Ðều biết rõ như vậy.
364. Mamannapānaṃ vipulaṃ uḷāraṃ uppajjatīmassa maṇissa hetu, taṃ te na dassaṃ atiyācakosi na cāpi te assamaṃ āgamissaṃ.
364. “Cơm và nước của ta được dồi dào, tuyệt hảo, được sanh lên do nhân của viên ngọc ma-ni này. Ngươi là kẻ xin quá lố, ta không cho vật ấy, và ta cũng sẽ không đến khu ẩn cư của ngươi nữa.
Mọi đồ ăn và thức uống
Ðược sung mãn, đầy tràn,
Chính do hòn ngọc báu
Ðem lại cho ta vầy.
Bạn cầu xin quá nhiều,
Ta không muốn cho bạn.
Ta sẽ không đi đến
Am thất bạn nữa đâu.
365. Susū yathā sakkharadhotapāṇī tāsesi maṃ selaṃ yācamāno, taṃ te na dassaṃ atiyācakosi na cāpi te assamaṃ āgamissaṃ.
365. Như là những đứa trẻ tay cầm dao mài bén, ngươi làm ta run rẩy trong khi cầu xin viên ngọc. Ngươi là kẻ xin quá lố, ta không cho vật ấy, và ta cũng sẽ không đến khu ẩn cư của ngươi nữa.”
Như đứa trẻ cầm tay
Một hòn sạn trơn láng,
Bạn làm ta sợ hãi
Khi xin hòn ngọc này!
Bạn cầu xin quá nhiều,
Ta không muốn cho bạn.
Ta sẽ không đi đến
Am thất bạn nữa đâu.
366. Na taṃ yāce yassa piyaṃ jigiṃse desso hoti atiyācanāya, nāgo maṇiṃ yācito brāhmaṇena adassanaṃyeva tadajjhagamā ”ti.
3. Maṇikaṇṭhajātakaṃ.
366. “Dầu mong được vật yêu quý của người, chớ van xin vật ấy. Do cầu xin quá đáng trở thành bị ghét bỏ. Con rồng bị người Bà-la-môn cầu xin ngọc ma-ni, từ khi ấy, nó đã không còn xuất hiện nữa.”
3. Bổn sanh Rồng Chúa Maṇikaṇṭha.
Chớ cầu xin người nào
Mà mình thường yêu mến,
Vì nếu xin quá nhiều
Mình trở thành đáng ghét!
Phạm chí này xin mãi
Hòn ngọc của rắn thần,
Nên nó không trở lại
Ðể thăm viếng nữa đâu!
367. Bhutvā tiṇaparighāsaṃ bhutvā ācāmakuṇḍakaṃ, etaṃ te bhojanaṃ āsi kasmādāni na bhuñjasi.
367. “Ngươi đã ăn thức ăn chính là cỏ, ngươi đã ăn cháo cám gạo đỏ. Vật này đã là thức ăn của ngươi, vì sao giờ đây ngươi không ăn?”
Ðã ăn cỏ, và cháo
Làm bằng cám gạo đỏ
Món ăn ngon ngày trước
Sao nay con không ăn?
368. Yattha posaṃ na jānanti jātiyā vinayena vā, pahū tattha mahābrahme api ācāmakuṇḍakaṃ.
368. “Ở nơi nào số đông không nhận biết một người về sanh chủng hoặc kỹ năng, ở nơi ấy, thưa tôn ông, thậm chí cháo cám gạo đỏ cũng là nhiều.
Khi người nào không biết
Sanh chủng và huấn luyện,
Ðối với bậc Phạm chí,
Cháo cám đỏ vừa đủ.
369. Tvañca kho maṃ pajānāsi yādisāyaṃ hayuttamo, jānanto jānamāgamma na te bhakkhāmi kuṇḍakan ”ti.
4. Kuṇḍakakucchisindhavajātakaṃ.
369. Và ngài quả thật biết rõ về tôi rằng: ‘Ngựa như thế này là ngựa hạng nhất.’ Tôi biết, bởi vì biết thế nên tôi sẽ không ăn cám gạo đỏ của ngài.”
4. Bổn sanh Ngựa Nòi Với Bụng Cám Gạo Đỏ.
Nhưng ông rõ biết tôi
Là ngựa nòi tối thượng,
Do vậy ở chỗ ông,
Tôi không ăn cháo gạo!
370. Yāva so mattamaññāsi bhojanasmiṃ vihaṅgamo, tāva addhānamāpādi mātarañca aposayi.
370. “Cho đến chừng nào con chim ấy còn biết chừng mực về vật thực, cho đến khi ấy nó còn đạt được tuổi thọ và còn cung phụng người mẹ.
Khi nào con chim ấy
Biết đủ trong ăn uống,
Chim được thọ mạng dài,
Và nuôi dưỡng cha mẹ.
371. Yato ca kho bahutaraṃ bhojanaṃ ajjhupāhari, tato tattheva saṃsīdi amattaññū hi so ahu.
371. Và thật vậy, vào lúc nó đã thu nạp vật thực nhiều hơn trước, sau đó, nó đã bị chìm xuống ngay tại chỗ ấy, bởi vì nó đã không biết chừng mực.
Khi chim ăn quá nhiều,
Không biết sự tiết độ,
Tại đấy chim chìm xuống,
Không còn ai thấy nữa.
372. Tasmā mattaññutā sādhu bhojanasmiṃ agiddhatā, amattaññū hi sīdanti mattaññūva na sīdare ”ti.
5. Sukajātakaṃ.
372. Do đó, thật tốt đẹp thay sự biết chừng mực, sự không thèm khát về vật thực. Chính những người không biết chừng mực chìm xuống, còn những người biết chừng mực không chìm xuống.”
5. Bổn sanh Con Két.
Do vậy, thật lành thay
Tiết độ, không tham ăn,
Không biết lường, chìm xuống,
Biết lường đâu có chìm?
373. Jarūdapānaṃ khaṇamānā vāṇijā udakatthikā, ajjhagaṃsu ayo lohaṃ tipusīsañca vāṇijā, rajataṃ jātarūpañca muttā veḷuriyā bahū.
373. “Những người thương buôn có nhu cầu về nước, trong khi đào bới cái giếng cũ, các thương buôn đã đạt được nhiều sắt, đồng, thiếc và chì, bạc và vàng, ngọc trai, ngọc bích.
Các lái buôn cần nước,
Ðào cái giếng cũ xưa,
Ở đó họ tìm được
Sắt, đồng, chì và thiếc,
Hoàng kim và bạch ngân,
Nhiều trân châu, lưu ly.
374. Te ca tena asantuṭṭhā bhiyyo bhiyyo akhāṇisuṃ, te tatthāsīviso ghoro tejassī tejasā hani.
374. Và bọn họ, không vừa lòng với chừng ấy, đã đào thêm, thêm nữa. Họ đã bị con rắn độc ghê rợn, có uy lực, giết chết tại nơi ấy bằng uy lực.
Nhưng họ không biết đủ,
Cứ đào, đào thêm mãi.
Các rắn độc điên tiết,
Phun lửa giết chết tiệt.
375. Tasmā khaṇe nātikhaṇe atikhātaṃ hi pāpakaṃ, khātena ca dhanaṃ laddhaṃ atikhātena nāsitan ”ti.
6. Jarūdapānajātakaṃ.
375. Vì thế, nên đào, không nên đào quá, bởi vì đào bới quá lố là xấu xa. Và do đào bới, tài sản đã đạt được; do đã đào bới quá lố, tài sản bị tiêu tán.”
6. Bổn sanh Cái Giếng Cũ.
Vậy chớ đào quá sức,
Quá mức gây tác hại.
Do đào, được tài sản,
Ðào quá, lại mất sạch!
376. Nāyaṃ gharānaṃ kusalo lolo ayaṃ valīmukho, kataṃ kataṃ kho dūseyya evaṃ dhammamidaṃ kulaṃ.
376. “Gã này không thiện xảo về nhà cửa. Gã này buông lung, có khuôn mặt nhăn nhó. Nó có thể phá hỏng việc này việc khác đã làm xong, dòng dõi này có bản tính như vậy.
Nó không giỏi làm nhà,
Ðó là khỉ mặt nhăn,
Chỉ phá việc đã làm,
Thói của nòi giống đó.
377. Nayidaṃ cittavato lomaṃ nāyaṃ assāsiko migo, satthaṃ me janasandhena nāyaṃ kiñci vijānati.
377. Gã có lông này không thuộc loài có trí, gã là con thú không đáng tin. Kiến thức do cha tôi Janasandha dạy rằng: ‘Gã này không biết bất cứ điều gì.’
Vật đầy lông lá này
Không sao có tâm trí,
Nó chỉ là con thú
Không gây được lòng tin,
Như phụ vương đã dạy:
Con này chả biết gì!
378. Na mātaraṃ vā pitaraṃ bhātaraṃ bhagiṇiṃ sakhaṃ, bhareyya tādiso poso siṭṭhaṃ dasarathena me ”ti.
7. Gāmaṇicaṇḍajātakaṃ.
378. Cha tôi Dasaratha đã dạy rằng: ‘Người như thế ấy không giúp đỡ mẹ hay cha, anh em trai, chị em gái, hay bạn bè.’”
7. Bổn sanh Người Hầu Gāmaṇicaṇḍa.
Con vật ấy không thể
Giúp đỡ mẹ hay cha,
Hay là anh, chị, bạn,
Phụ vương dạy ta vậy.
379. Yāvatā candimasuriyā pariharanti disābhanti virocanā, sabbeva dāsā mandhātu ye pāṇā paṭhavinissitā.
379. “Những sanh mạng nào nương tựa vào trái đất, cho đến mặt trăng và mặt trời bảo hộ (núi Sineru), các tia sáng chiếu sáng các phương, toàn bộ tất cả là nô lệ của Chuyển Luân Vương Mandhātu.
Dầu có được bao nhiêu
Mặt trăng và mặt trời
Chiếu sáng khắp mọi phương.
Tất cả là nô lệ.
Của vua Man-dhà-nà,
Cùng tất cả chúng sanh
Sống nương tựa cõi đất,
Ðều thuộc quyền Ðại vương.
380. Na kahāpaṇavassena titti kāmesu vijjati, appassādā dukhā kāmā iti viññāya paṇḍito.
380. Không phải do trận mưa tiền vàng mà sự thỏa mãn ở các dục được tìm thấy. Bậc sáng suốt đã biết rằng: ‘Các dục là khổ đau, có ít khoái lạc.’
Dầu có mưa tiền vàng,
Vẫn không thỏa ái dục,
Dục ít vị, khổ nhiều,
Bậc trí ý thức vậy.
381. Api dibbesu kāmesu ratiṃ so nādhigacchati, taṇhakkhayarato hoti sammāsambuddhasāvako ”ti.
8. Mandhātujātakaṃ.
381. Thậm chí vị ấy cũng không đạt đến sự vui thích trong các dục thuộc cõi Trời. Vị Thinh Văn đệ tử của đấng Chánh Đẳng Giác vui thích ở sự cạn kiệt tham ái.”
8. Bổn sanh Vua Chuyển Luân Mandhātu.
Ngay cả các thiên dục
Cũng không đem an lạc,
Ðệ tử bậc Chánh giác
Chỉ thích ái diệt tận.
382. Nayimassa vijjāmayamatthi kiñci na bandhavo no pana te sahāyo, atha kena vaṇṇena tirīṭavaccho tedaṇḍiko bhuñjati aggapiṇḍaṃ.
382. “Người này không có bất cứ sự hiểu biết nào, không là thân quyến, hơn nữa không phải là bạn bè của bệ hạ. Vậy thì bởi lý do gì mà Tirīṭavaccha, kẻ có ba cây gậy, thọ dụng thực phẩm cao quý?”
Con thấy hạng người này
Không có chút trí tuệ,
Nó không phải bà con,
Cũng không phải bạn vua,
Tại sao ẩn sĩ này,
Với ba cây que nhỏ,
Ti-ri-ta-vac-cha,
Lại được ăn thượng vị?
383. Āpāsu me yuddhaparājitassa ekassa katvā vivanasmi ghore, pasārayī kicchagatassa pāṇiṃ tenūdatāriṃ dukhasampareto.
383. Khi trẫm bị thua trận, ở vào các cảnh hiểm nghèo, chỉ còn một mình, trẫm đã ở trong khu rừng ghê rợn, Vị này đã đưa bàn tay ra cho trẫm, kẻ bị lâm cảnh khó khăn. Nhờ vào vị ấy, trẫm đã vượt lên, dầu bị dày vò đau khổ.
Trong khi ta gặp nạn,
Vì chiến đấu thất bại,
Ta chỉ có một mình,
Chính vị ấy đưa tay,
Trong rừng sâu ghê rợn,
Nhờ vị ấy, ta thoát,
Ra khỏi cảnh khó khăn,
Cơn đau khổ vây chặt.
384. Etassa kiccena idhānupatto vesāyino visayā jīvaloke, lābhāraho tāta tirīṭavaccho dethassa bhogaṃ yajatañca yaññan ”ti.
9. Tirīṭavacchajātakaṃ.
384. Với sự giúp đỡ của vị này, trẫm đã đạt đến nơi đây, ở thế giới của sống còn, khỏi phạm vi của Thần Chết. Này con, vị Tirīṭavaccha là xứng đáng với bổng lộc, hãy ban tặng của cải và hãy cống hiến phẩm vật đến vị này.”
9. Bổn sanh Ẩn Sĩ Tirīṭavaccha.
Nhờ sự giúp đỡ này
Ta đã trở về đây,
Thoát khỏi hàm thần chết,
Trở lại với đời sống,
Này hoàng tử con thân,
Ti-ri-ta Vac-cha
Xứng đáng được lợi dưỡng,
Hãy cúng dường tài sản
Cùng các lễ tế đàn.
385. Yassatthā dūramāyanti amittamapi yācituṃ, tassūdarassahaṃ dūto mā me kujjhi rathesabha.
385. “Vì nhu cầu của cái bụng, người ta đi đến nơi xa xôi để cầu xin ngay cả kẻ thù. Tâu đấng thủ lãnh xa binh, thần là sứ giả của cái bụng. Xin ngài chớ giận dữ với thần.
Vì mục đích cái bụng,
Người ta đi thật xa,
Ði đến cả kẻ thù,
Ðể cầu xin ân huệ,
Tôi đây là sứ giả
Của chính cái bụng mình.
386. Yassa divā ca ratto ca vasamāyanti māṇavā, tassūdarassahaṃ dūto mā me kujjhi rathesabha.
386. Ngày và đêm, các chàng thanh niên đi theo quyền lực của cái bụng. Tâu đấng thủ lãnh xa binh, thần là sứ giả của cái bụng. Xin ngài chớ giận dữ với thần.”
Xin chớ phẫn nộ tôi,
Ôi, chúa tể vương xa,
Suốt cả ngày lẫn đêm,
Mọi người trên đời này,
Ðều rơi vào uy lực
Của cái bụng tham ăn.
387. Dadāmi te brāhmaṇa rohiṇīnaṃ gavaṃ sahassaṃ saha puṅgavena, dūto hi dūtassa kathaṃ na dajjaṃ mayampi tasseva bhavāma dūtā ”ti.
10. Dūtajātakaṃ.
387. Này Bà-la-môn, trẫm ban cho khanh một ngàn bò cái màu hung đỏ với một con bò mộng. Bởi vì là người sứ giả, tại sao trẫm lại không ban tặng cho người sứ giả? Chúng ta cũng đều là sứ giả của chính cái bụng.”
10. Bổn sanh Sứ Giả.
Hỡi này Bà-la-môn,
Ta ban thưởng cho ông
Một ngàn con bò cái đỏ,
Một bò đực thêm vào,
Ðây là phần quà tặng
Giữa sứ giả với nhau,
Vì tất cả chúng ta
Là sứ giả cái bụng!
Saṅkappavaggo paṭhamo.
*****
Phẩm Tư Duy là thứ nhất.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Usukāravaro tilamuṭṭhimaṇi hayarājavihaṅgamaāsīviso, janasandhakahāpaṇavassa puna tirīṭa puna dūtavarena dasa.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Chuyện người thợ làm tên, nắm hạt mè, và ngọc ma-ni, con ngựa đầu đàn, con chim, con rắn độc, cha tôi Janasandha, thêm trận mưa tiền vàng, thêm ẩn sĩ Tirīṭavaccha, với chuyện sứ giả, là mười.
–ooOoo–
▪ 2. PADUMAVAGGO
▪ 2. PHẨM HOA SEN
388. Yathā kesā ca massū ca chinnaṃ chinnaṃ virūhati, evaṃ rūhatu te nāsā padumaṃ dehi yācito.
388. “Giống như tóc và râu mỗi lần được cắt thì sẽ mọc lên, tương tự như vậy, cầu cho mũi của ông hãy mọc lại. Đã được thỉnh cầu, xin ông hãy cho hoa sen.”
Như tóc râu bị cắt,
Sẽ mọc lên như cũ,
Cũng vậy, lỗ mũi ông
Sẽ mọc lại như tóc,
Nay tôi xin hoa sen,
Hãy cho tôi một bông!
389. Yathā sāradikaṃ bījaṃ khette vuttaṃ virūhati, evaṃ rūhatu te nāsā padumaṃ dehi yācito.
389. “Giống như vào mùa thu, hạt giống được gieo ở ruộng thì sẽ mọc lên, tương tự như vậy, cầu cho mũi của ông hãy mọc lại. Đã được thỉnh cầu, xin ông hãy cho hoa sen.”
Như hột giống mùa thâu
Ðược gieo trong thửa ruộng,
Sẽ được mọc lên mau,
Cũng vậy, lỗ mũi ông
Ước mong sẽ mọc lên,
Nay tôi xin hoa sen,
Hãy cho tôi một bông!
390. Ubhopi palapante ’te api padumāni dassati, vajjuṃ vā te na vā vajjuṃ natthi nāsāya rūhanā, dehi samma padumāni ahaṃ yācāmi yācito ”ti.
1. Padumajātakaṃ.
390. “Cả hai người này đều nói nhảm (nghĩ rằng): ‘Ông ta sẽ cho các hoa sen.’ Dầu họ đã nói hay không nói, không có việc mọc lại của cái mũi. Này bạn, tôi cầu xin các hoa sen. Đã được thỉnh cầu, xin ông hãy cho.”
1. Bổn sanh Hoa Sen.
Hai đứa nói nhảm nhí,
Chúng nghĩ được bông sen,
Dầu nói có, nói không,
Mũi cũng không mọc lại,
Này bạn hãy cho tôi
Hoa sen, tôi xin bạn!
391. Pāṇi ce muduko cassa nāgo cassa sukārito, andhakāro ca vasseyya atha nūna tadā siyā.
391. “Nếu có được bàn tay mềm mại, và có được con voi đã khéo được huấn luyện, trời tối, và có thể mưa, như vậy chắc chắc khi ấy là có thể.”
Một bàn tay mềm mại,
Con voi khéo huấn luyện,
Và đêm tối trời mưa,
Ấy là thời thích hợp.392. Analā mudusambhāsā duppūrā tā nadīsamā, sīdanti naṃ viditvāna ārakā parivajjaye.
392. “Các nàng ấy có lối nói mềm mỏng, không hề biết đủ, tựa như dòng sông, khó làm cho tràn đầy, các nàng ấy (sẽ) đọa (địa ngục); sau khi biết được điều ấy, nên lánh xa các nàng.
Dầu lời nói dịu dàng
Chúng không hề biết đủ,
Chúng chìm, chìm sâu xuống,
Rất khó làm đầy tràn,
Ðàn ông hãy lánh xa,
Chạy trốn chúng thật xa!
393. Yaṃ etā upasevanti chandasā vā dhanena vā, jātavedova saṇṭhānaṃ khippaṃ anudahanti nan ”ti.
2. Mudupāṇijātakaṃ.
393. Các nàng hầu hạ người nào, dầu do sự mong muốn hay vì tài sản, các nàng thiêu hủy người ấy một cách mau chóng, tựa như ngọn lữa đốt cháy nhiên liệu.”
2. Bổn sanh Bàn Tay Mềm Mại.
Nếu chúng phục vụ ai,
Vì dục hay tiền tài,
Chúng thiêu sạch người ấy,
Như chất đốt trong lửa.
394. Abhijjamāne vārismiṃ sayaṃ āgamma iddhiyā, missībhāv’ itthiyā gantvā saṃsīdasi mahaṇṇave.
394. “Sau khi tự mình đi đến bằng thần thông ở mặt nước không bị xao động, sau khi đi đến sự giao tiếp với phụ nữ, ngài chìm xuống đại dương.
Không phải rẽ nước biển,
Nhưng với thần thông lực
Ngài du hành qua đây
Vào buổi mai thật sớm,
Liên hệ ác nữ thần,
Ngài phải chìm xuống biển.
395. Āvaṭṭanī mahāmāyā brahmacariyavikopanā, sīdanti naṃ viditvāna ārakā parivajjaye.
395. Có sức quyến rũ, có nhiều xảo trá, có sự làm tổn hại Phạm hạnh, các nàng ấy (sẽ) đọa (địa ngục); sau khi biết được điều ấy, nên lánh xa các nàng.
Làm mọi người thối thất,
Ðầy mê hoặc huyễn ảo,
Quyến rũ người thanh tịnh
Khiến họ chìm dần xuống.Kẻ trí biết nữ thần,
Nên xa lánh, từ bỏ.
396. Yaṃ etā upasevanti chandasā vā dhanena vā, jātavedova saṇṭhānaṃ khippaṃ anudahanti nan ”ti.
3. Cullapalobhanajātakaṃ.
393. Các nàng hầu hạ người nào, dầu do sự mong muốn hay vì tài sản, các nàng thiêu hủy người ấy một cách mau chóng, tựa như ngọn lữa đốt cháy nhiên liệu.”
2. Bổn sanh Sự Cám Dỗ Nhỏ.
Nữ nhân phục vụ ai
Vì dục hay tiền tài,
Chúng đốt sạch người ấy
Như lửa thiêu hủy củi!
397. Paṇādo nāma so rājā yassa yūpo suvaṇṇayo, tiriyaṃ soḷasa pabbedho uccamāhu sahassadhā.
398. “Vị vua ấy tên là Paṇāda, tòa lâu đài của vị ấy có nhiều màu sắc đẹp, chiều ngang 16 tầm tên bắn, chiều cao đã là 16 phần.
TẬP VI
(Gs. Trần Phương Lan)
Vua Pa-nà-da có cung điện ấy
Mười sáu ngàn tầm rộng, một ngàn cao,
398. Sahassakaṇḍaṃ sataheṇḍuṃ dhajālu haritāmayo, anaccuṃ tattha gandhabbā chasahassāni sattadhā.
398. Một trăm tầng lầu gồm một ngàn đơn vị, được trang hoàng cờ xí và làm bằng ngọc lục. Tại nơi ấy, sáu ngàn vũ công đã nhảy múa ở bảy địa điểm.
Ngàn tầm cao, cờ xí rợp muôn màu,
Ngọc bích kết cả trăm tầng lầu các.
Sáu ngàn văn công tới lui chơi nhạc
Gồm bảy ban, vẫn múa hát đồng thời,
399. Evametaṃ tadā āsi yathā bhāsasi bhaddaji, sakko ahaṃ tadā āsiṃ veyyāvaccakaro tavan ”ti.
4. Mahāpanādajātakaṃ.
399. Khi ấy, điều này đã là như vậy, giống như Bhaddaji nói. Khi ấy, ta đã là Thiên Chủ Sakka, người làm công việc phục dịch cho ngươi.”
4. Bổn sanh Vua Mahāpanāda.
Bhad-da-ji đã nói, đúng như lời:
– Tâu Ðế Thích, nô tài chờ thượng lệnh.
400. Disvā khurappe dhanuveganunne khagge gahīte tikhiṇe teladhote, tasmiṃ bhayasmiṃ maraṇe viyūḷhe kasmā nu te nāhu chambhitattanti.
400. “Sau khi nhìn thấy những mũi tên đã được bắn ra bằng lực đẩy của những cây cung, và những thanh gươm sắc bén có bôi dầu đã được nắm chặt, trong sự hiểm nguy khi thần chết hiện diện ấy, tại sao ông đã không có trạng thái khiếp đảm?”
Khi nhiều cung bắn vèo tên tới,
Nhiều bàn tay đưa lưỡi thép gần,
Trước hàng hung hãn Tử-thần,
Sao người chẳng sợ giữa cơn hiểm nghèo?
401. Disvā khurappe dhanuveganunne khagge gahīte tikhaṇe teladhote, tasmiṃ bhayasmiṃ maraṇe viyūḷhe vedaṃ alatthaṃ vipulaṃ uḷāraṃ.
401. “Sau khi nhìn thấy những mũi tên đã được bắn ra bằng lực đẩy của những cây cung, và những thanh gươm sắc bén có bôi dầu đã được nắm chặt, trong sự hiểm nguy khi thần chết hiện diện ấy, tôi đã có được sự hân hoan bao la và cao cả.
Khi nhiều cung bắn vèo tên tới,
Nhiều bàn tay đưa lưỡi thép gần,
Trước hàng hung hãn Tử-thần,
Hôm nay tôi thấy ngập tràn niềm vui.
402. So vedajāto ajjhabhaviṃ amitte pubbeva me jīvitamāsi cattaṃ, na hi jīvite ālayaṃ kubbamāno sūro kayirā sūrakiccaṃ kadācī ”ti.
5. Khurappajātakaṃ.
402. Với niềm hân hoan sanh khởi, tôi đây đã khuất phục những kẻ thù. Ngay trước đó, mạng sống đã được tôi buông bỏ. Bởi vì trong khi không thể hiện sự bám víu vào mạng sống, người dũng sĩ có thể thực hiện phận sự dũng sĩ bất cứ lúc nào.”
5. Bổn sanh Mũi Tên.
Niềm vui ấy cho tôi thắng lợi,
Tôi liều thân nếu tới lúc cần,
Hành vi dũng liệt muốn toàn,
Làm anh hùng, phải coi thường đời ta!
403. Yenāsi kisiyā paṇḍu yena bhattaṃ na ruccati, ayaṃ so āgato tāto kasmādāni palāyasi.
403. “Người tình khiến mẹ ốm o, vàng vọt, lý do khiến thức ăn không còn được ưa thích, người tình ấy đã đi đến, vì sao giờ đây mẹ lại thoái lui?”
Mẹ vì chàng ốm o vàng vọt,
Mẹ vì chàng chẳng chút uống ăn.
Ngựa yêu kia mới đến gần,
Cớ sao mẹ bỗng đâm sầm phóng đi?
404. Sace panādikeneva santhavo nāma jāyati, yaso hāyati itthīnaṃ tasmā tāta palāyahaṃ.
404. “Vả lại, nếu ngay từ lúc đầu, điều gọi là sự thân mật sanh khởi, thì danh dự của hàng phụ nữ bị mất mát, này con, vì thế mẹ đã thoái lui.”
Chàng kia đến một khi kề sát,
Nếu ban đầu nhường bước tức thời,
Tiêu ma giá ngọc cao vời,
Cho nên mẹ phải vội dời chân ngay!
405. Yasassīnaṃ kule jātaṃ āgataṃ yā na icchati, socati cirarattāya vātaggamiva kundalī ”ti.
6. Vātaggajātakaṃ.
405. “Người nữ nào không ưa thích người nam sanh ở gia tộc của những người có danh tiếng đã đi đến (với mình), thì sẽ sầu muộn thời gian dài, tựa như con lừa cái Kundalī và con ngựa Vātagga.”
6. Bổn sanh Con Ngựa Vātagga.
Nếu từ chối chàng trai sang trọng
Ðến bên nàng mong ngóng yêu đương,
Nàng đành dằng dặc sầu thương,
Như Công-đa-lợi đau buồn Như phong!
406. Siṅgī migo āyatacakkhunetto aṭṭhittaco vārisayo alomo, tenābhibhūto kapaṇaṃ rudāmi mā heva maṃ pāṇasamaṃ jaheyya.
406. “Con thú có màu vàng sẫm, có cặp mắt lồi ra, có lớp vỏ bằng xương, sống trong nước, không có lông. Bị nó chế ngự, tôi khóc lóc một cách thảm thương, Nàng chớ bao giờ từ bỏ tôi, người sánh bằng mạng sống của nàng.”
Con vật càng vàng, lồi cặp mắt,
Sống hồ, trần trụi, bọc trong mai,
Tôi kêu, nó kẹp, nghe đau đớn,
Nàng hỡi, thương tôi, chớ bỏ tôi!
407. Ayya taṃ na jahissāmi kuñjara saṭṭhihāyana, pathavyā cāturantāya suppiyo hosi me tuvaṃ.
407. “Chàng ơi, thiếp sẽ không từ bỏ chàng, hỡi chàng voi với sự suy nhược ở tuổi sáu mươi. Khắp bốn phương ở trên trái đất, chàng là người vô cùng yêu quý của thiếp.”
Rời chàng, thiếp quyết chẳng khi nào,
Sáu chục năm đời, chúa tối cao,
Cả bốn phương trời đều chứng tỏ
Chẳng ai thắm thiết sánh chàng đâu!
408. Ye kuḷirā samuddasmiṃ gaṅgāya nammadāya ca, tesaṃ tvaṃ vārijo seṭṭho muñca rodantiyā patin ”ti.
7. Kakkaṭakajātakaṃ.
408. “Trong số các con cua ở biển cả, ở sông Gaṅgā, và sông Nammadā, ngài là loài thủy tộc hạng nhất, xin ngài hãy phóng thích người chồng của thiếp, kẻ đang khóc lóc (van xin cho chồng).”
7. Bổn sanh Con Cua.
Trong các loài Cua ở biển xa,
Hoặc là Ner-bud, hoặc Hằng Hà,
Ngài là tối thượng, nay tôi biết,
Xin để chồng tôi được thoát ra.
409. Yo ve sabbasametānaṃ ahuvā seṭṭhasammato, tassāyaṃ edisī paññā kimeva itarā pajā.
409. “Gã này hẳn nhiên đã được công nhận là hạng nhất trong tất cả bọn này. Trí tuệ của gã là như thế này, còn các gã khác sẽ là cái gì nữa đây?”
Giỏi nhất trong bọn là đây,
Thông minh như kiểu thế này được sao?
Khỉ kia nếu chọn tối cao,
Những tên còn lại phận nào định đây?
410. Evameva tuvaṃ brahme anaññāya vinindasi, kathaṃ mūlaṃ adisvāna rukkhaṃ jaññā patiṭṭhitaṃ.
410. “Thưa Bà-la-môn, ngài không biết rõ nên mới chê bai như vậy. Không nhìn thấy cái rễ, làm thế nào có thể biết được cây đã phát triển như thế nào?”
Lời kia, người cũng chẳng hay,
Thế này trách cứ la rầy chúng tôi!
Nếu không biết rễ ngắn dài,
Làm sao thấy được cây trồi lớn đây?
411. Nāhaṃ tumhe vinindāmi ye caññe vānarā vane, vissasenova gārayho yassatthā rukkharopakā ”ti.
8. Ārāmadūsakajātakaṃ.
411. “Ta không chê bai ngươi và những con khỉ khác ở trong rừng. Chính đức vua Vissasena mới đáng chê trách, vì ngài sử dụng những kẻ trồng cây (như các ngươi).”
8. Bổn sanh Kẻ Làm Hỏng Khu Vườn.
Khỉ ơi, ta chẳng trách bây,
Cũng không trách bọn đó đây trong rừng.
Chủ kia mới thật điên khùng,
Ra đi giao hết cây trồng nhờ coi!
412. Na hi vaṇṇena sampannā mañjukā piyadassanā, kharavācā piyā honti asmiṃ loke paramhi ca.
412. “Người được thành tựu sắc đẹp, có giọng nói du dương, có dáng vẻ đáng yêu, nhưng có lời nói thô lỗ thì không được yêu mến ở đời này và đời khác.
Kẻ hưởng được vẻ ngoài duyên dáng,
Thoạt nhìn vào, tươi sáng đẹp thay,
Nhưng buông lời nói chối tai,
Ðời này đời kế chẳng ai yêu vì!
413. Nanu passasimaṃ kāḷiṃ dubbaṇṇaṃ tilakāhataṃ, kokilaṃ saṇhabhāṇena bahunnaṃ pāṇinaṃ piyaṃ.
413. Chẳng phải mẹ nhìn thấy con chim cu cu đen đủi, có màu sắc xấu xí, lốm đốm các chấm hạt mè, được yêu mến bởi nhiều sinh vật nhờ vào tiếng kêu êm dịu.
Chim Cu kia, thường khi mẹ thấy,
Lốm đốm đen xấu vậy mặc dầu,
Tiếng kêu êm dịu ngọt ngào,
Bao nhiêu kẻ đón người chào mến thương.
414. Tasmā sakhilavācassa mantabhāṇī anuddhato, atthaṃ dhammañca dīpeti madhuraṃ tassa bhāsitan ”ti.
9. Sujātajātakaṃ.
414. Vì thế, nên có lời nói tử tế, có cách nói khôn khéo, không cao ngạo, làm sáng tỏ ý nghĩa và Giáo Pháp; lời nói của vị ấy là ngọt ngào.”
9. Bổn sanh Nàng Sujātā.
Mong tiếng mẹ dịu dàng thanh lịch,
Lời khôn ngoan bỏ hết tự kiêu,
Âm thanh êm ái mỹ miều
Giảng bày Thánh pháp ý nêu tỏ tường.
415. Sabbehi kira ñātīhi kosiyo issaro kato, sace ñātīh’ anuññāto bhaṇeyyāhaṃ ekavāciyaṃ.
415. “Nghe nói chim cú được các bà con lập làm chúa tể, nếu được bà con cho phép, tôi xin phát biểu một lời.”
Cú là vua của các loài chim, Xin phép, cho tôi tỏ nỗi niềm.
416. Bhaṇa samma anuññāto atthaṃ dhammañca kevalaṃ, santi hi daharā pakkhī paññāvanto jutindharā.
416. “Này bạn, hãy nói, bạn được phép nói lời có ý nghĩa và thật sự hợp lý lẽ, bởi vì còn có những con chim còn trẻ, có trí tuệ, sáng láng.”
Giữa bọn trẻ kia, xin cứ nói,
Mong sao tốt đẹp, tỏ tường thêm.
417. Na me ruccati bhaddaṃ vo ulūkassābhisecanaṃ, akuddhassa mukhaṃ passa kathaṃ kuddho karissatī ”ti.
10. Ulūkajātakaṃ.
417. “Sự việc trọng đại của các vị không làm tôi vui thích, là việc phong vương cho chim cú. Hãy nhìn xem khuôn mặt của gã khi không giận dữ, khi giận dữ gã sẽ làm thế nào?”
10. Bổn sanh Con Chim Cú.
Trân trọng trình bày ý của tôi,
Tôi đây chẳng muốn Cú lên ngôi,
Hãy nhìn mặt mũi kia như thế,
Hắn sẽ làm gì lúc giận sôi?
Padumavaggo dutiyo.
*****
Phẩm Padumavaggo là thứ nhì.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Padumuttamanāgasirivhayano samahaṇṇavayūpakhurappavaro, atha kundalikuñjararukkha puna kharavāca-ulūkavarena dasā ”ti.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Hoa sen tối thượng, con voi có tên may mắn,
với đại dương, tòa lâu đài, và chuyện mũi tên,
rồi lừa cái Kundalī, con voi đực, lại cây cối nữa,
lời nói thô lỗ, với chuyện chim cú, là mười.
–ooOoo–
▪ 3. ARAÑÑAVAGGO
▪ 3. PHẨM KHU RỪNG
418. Āraññakassa isino cirarattatapassino, kiccā kataṃ udapānaṃ kathaṃ samma avāhasi.
418. “Giếng nước đẫ được thực hiện một cách khó khăn dành cho các vị ấn sĩ tu trong rừng và các đạo sĩ trường kỳ khổ hạnh, này bạn, tại sao bạn lại làm nhơ bẩn?”
Giếng được tạo do người ẩn dật,
Ðộc cư nơi khoảng đất rừng sâu,
Nhọc nhằn khổ cực bấy lâu,
Bạn ơi, sao vấy dơ vào giếng trong?
419. Esa dhammo sigālānaṃ yampītvā ohadāmase, pitupitāmahaṃ dhammo na naṃ ujjhātumarahasi.
419. “Điều ấy là tập quán của các con chó rừng, chúng tôi đại tiện sau khi uống nước, là thói quen của cha ông, bạn không xứng đáng để lên án điều ấy.”
Ðó là luật giống dòng tôi đấy,
Uống nơi nào là vấy cho dơ,
Tổ tiên làm thế đến giờ,
Lời ngài trách cứ, có ngờ sai chăng?
420. Yesaṃ vo ediso dhammo adhammo pana kīdiso, mā vo dhammaṃ adhammaṃ vā addasāma kudācanan ”ti.
1. Udapānadūsakajātakaṃ.
420. Việc như thế này đối với các bạn đây là điều hợp pháp, thế thì việc như thế nào là điều phi pháp? Chớ để chúng tôi nhìn thấy điều hợp pháp hay phi pháp của các bạn vào bất cứ lúc nào.”
1. Phẩm Kẻ Làm Bẩn Giếng Nước.
Nếu luật ấy chó rừng đã đặt,
Lạ lùng thay, phi pháp mất rồi!
Mong rằng lần cuối thấy ngươi,
Hành vi kia đúng hay sai, chớ làm.
421. Yena mittena saṃsaggā yogakkhemo vihiṃsati, pubbevajjhābhavantassa rakkhe akkhīva paṇḍito.
421. “Do sự tiếp xúc với người bạn nào khiến sự an toàn đối với các trói buộc bị tổn giảm, thì nên duy trì sự khống chế đối với kẻ ấy giống như trước đây, tựa như người sáng suốt bảo vệ cặp mắt.
Nếu do gần bạn tri âm,
Bình an có thể bị làm tiêu tan,
Còn gì cao trọng cho hơn
Như tròng con mắt người khôn giữ gìn.
422. Yena mittena saṃsaggā yogakkhemo pavaḍḍhati, kareyyattasamaṃ vuttiṃ sabbakiccesu paṇḍito.
422. Do sự tiếp xúc với người bạn nào khiến sự an toàn đối với các trói buộc được tăng trưởng, người sáng suốt nên thực hiện sự đối xử bình đẳng như là đối với bản thân trong tất cả các công việc.”
Nhưng khi bạn tri âm thực sự
Làm tăng thêm mức độ bình an;
Hãy làm đời bạn an khang,
Hãy thương đời bạn như thương đời mình.
423. Etha vyagghā nivattavho paccametha mahāvanaṃ, mā vanaṃ chindi nivyagghaṃ vyagghā māhesu nibbanā ”ti.
2. Vyagghajātakaṃ.
423. “Này các ông hổ, xin các ông hãy đi đến, xin các ông hãy quay lại, xin các ông hãy trở về khu rừng lớn. Chớ để người ta chặt phá khu rừng không có cọp. Mong rằng các ông hổ chớ lìa khỏi khu rừng.”
2. Bổn sanh Con Cọp.
Xin quay trở lại rừng già,
Ðể rừng khỏi bị san ra đồng bằng.
Bạn đi, rìu sẽ hạ rừng,
Không rừng, mãi mãi bạn không có nhà!
424. Ko nu udditabhattova pūrahatthova brāhmaṇo, kahannu bhikkhaṃ acari kaṃ saddhaṃ upasaṅkami.
424. “Ai giống như là người có bữa ăn thịnh soạn, ai tựa như vị Bà-la-môn với hai tay được chất đầy? Vậy đã đi khất thực nơi đâu, đã đi đến tín đồ nào?” Ai kia đem bát xin ăn,
Vốn từ đâu lại, có phần gì chăng?
425. Ahaṃ kapismi dummedho anāmāsāni āmasiṃ, tvaṃ maṃ mocaya bhaddante mutto gaccheyya pabbataṃ.
425. “Tôi là con khỉ ngu muội. Tôi đã sờ vào những chỗ không nên sờ đến. Xin ngài hãy cứu thoát tôi. Cầu mong sự tốt đẹp đến ngài. Được tự do, tôi sẽ đi đến ngọn núi.”
Con làm quấy, thật điên khùng,
Xin ngài cứu giúp; con mong vào rừng.
426. Kacchapā kassapā honti koṇḍaññā honti makkaṭā, muñca kassapa koṇḍaññaṃ kataṃ methunakaṃ tayā ”ti.
3. Kacchapajātakaṃ.
426. “Loài rùa là dòng họ Kassapa, loài khỉ là dòng họ Koṇḍañña. Này Kassapa, hãy phóng thích Koṇḍañña. Ngươi đã làm việc có tính chất đôi lứa.”
3. Bổn sanh Con Rùa.
Qui, Hầu hai giống vốn đồng,
Rùa ơi, tha khỉ cho xong đi nào!
427. Kāyaṃ balākā sikhinī corī laṅghipitāmahā, oraṃ balāke āgaccha caṇḍo me vāyaso sakhā.
427. “Con hạc nâu có chỏm lông này, kẻ trộm cướp, tổ tiên của cơn dông, là ai? Này hạc nâu, hãy đi đến nơi khác, con quạ bạn của tôi là dữ tợn.”
Cô Hạc này là ai thế nhỉ,
Cô đâu có thể ở nơi đây?
Ra mau! Bạn Quạ tôi gần đến,
E Quạ sẽ làm hại Hạc ngay!
428. Nāhaṃ balākā sikhinī ahaṃ lolosmi vāyaso, akatvā vacanaṃ tuyhaṃ passa lūnosmi āgato.
428. “Tôi không phải là con hạc nâu có chỏm lông, tôi là con quạ tham lam. Sau khi không làm theo lời nói của bạn, bạn hãy nhìn xem tôi đã đi đến tình trạng bị vặt trụi lông.”
Không, không, chẳng Hạc chẳng ai mà,
Tên Quạ tham ăn quả thật ta.
Ta chẳng muốn làm như được dặn,
Bạn nhìn, ta bị vặt lông ra.
429. Puna pāpajjasi samma sīlaṃ hi tava tādisaṃ, na hi mānusakā bhogā subhuñjā honti pakkhinā ”ti.
4. Lolajātakaṃ.
429. “Này bạn, bạn lại phạm vào điều ác, bởi vì bản chất của bạn là như thế ấy, bởi vì của cải thuộc con người là không dễ gì thọ dụng bởi loài chim.”
4. Bổn sanh Con Chim Tham Lam.
Tôi biết bạn còn phải muộn phiền,
Cũng do bản tính bạn gây nên.
Ai đâu để thịt mời chim nhỏ,
Khi đã dọn thành một đĩa lên?
430. Kāyaṃ balākā rucirā kākanīḷasmiṃ acchati, caṇḍo kāko sakhā mayhaṃ tassa cetaṃ kulāvakaṃ.
430. “Con hạc nâu xinh xắn này là ai mà ngụ ở trong ổ của con quạ? Con quạ bạn của tôi là dữ tợn, và cái tổ này là của nó.”
Hạc kia xinh đẹp là ai,
Cớ sao chú đến nơi đây mà nằm?
Bạn tôi, anh Quạ dữ dằn,
Tổ anh ta đó, tôi cần chú hay!
431. Nanu maṃ samma jānāsi dija sāmākabhojana, akatvā vacanaṃ tuyhaṃ passa lūnosmi āgato.
431. “Này bạn, chẳng lẽ bạn không biết tôi? Này chim (bồ câu), này loài có thức ăn là hạt kê, sau khi không làm theo lời nói của bạn, bạn hãy nhìn xem tôi đã đi đến tình trạng bị vặt trụi lông.”– Bạn chẳng nhận ra tôi sao bạn?
Ta cùng nhau thường vẫn đi ăn.
Chẳng làm như được bảo răn,
Nên lông bị vặt, bạn trông rõ ràng!
432. Puna pāpajjasi samma sīlaṃ hi tava tādisaṃ, na hi mānusakā bhogā subhuñjā honti pakkhinā ”ti.
5. Rucirajātakaṃ.
432. “Này bạn, bạn lại phạm vào điều ác, bởi vì bản chất của bạn là như thế ấy, bởi vì của cải thuộc con người là không dễ gì thọ dụng bởi loài chim.”
5. Bổn sanh Con Chim Xinh Xắn.
– Tôi biết bạn hãy còn phiền muộn,
Ðó là do tính bạn mà thôi.
Người ta làm đĩa thịt rồi,
Phải đâu là để đem mời chim ăn!
433. Tava saddhañca sīlañca viditvāna janādhipa, vaṇṇaṃ añjanavaṇṇena kāliṅgasmiṃ nimimhase.
433. “Tâu quân vương, biết được đức tin và giới hạnh của ngài, chúng tôi, thay mặt vua xứ Kāliṅga, xin trao đổi vàng bạc lấy con voi Añjanavaṇṇa.”
Biết ngài tín hạnh cao sâu,
Chúng tôi đến để mong cầu ngài đây:
Chỉ vì muốn có voi này,
Chúng tôi tiêu hết tiền tài quốc gia.
434. Annabhaccā ca bhaccā ca yodha uddissa gacchati, sabbe te appaṭikkhippā pubbācariyavaco idaṃ.
434. “Người nào đi đến nơi này liên quan đến việc phục dịch kiếm ăn và không phục dịch, tất cả bọn họ đều không bị xua đuổi; điều này là lời dạy của các bậc cha mẹ (vị thầy đầu tiên).”
Các người có làm sao chăng ấy,
Ta vẫn theo thầy dạy ngày xưa:
Hễ ai đã đến với ta,
Ta luôn chào đón, thiết tha mọc mời!
435. Dadāmi vo brāhmaṇā nāgametaṃ rājārahaṃ rājabhoggaṃ yasassinaṃ, alaṅkataṃ hemajālābhichannaṃ sasārathiṃ gacchatha yena kāman ”ti.
6. Kurudhammajātakaṃ.
435. “Này các Bà-la-môn, trẫm sẽ ban cho các khanh con voi ấy, (là con voi) có danh tiếng, xứng đáng với vua, thuộc sở hữu của vua, (con voi) đã được trang điểm, đã được choàng lên bằng tấm lưới vàng, cùng với viên quản tượng. Các khanh hãy ra đi theo như ý thích.”
6. Bổn sanh Tập Quán Xứ Kuru.
Trao quý vị thớt voi quà tặng
Ðáng một phần tài sản quân vương,
Voi đây, trang phục, xích vàng,
Và nài, mọi thứ, hãy mang trở về.
436. Vassāni paññāsa samādhikāni vasimha selassa guhāya romaka, asaṅkamānā abhinibbutattā hatthattamāyanti mamaṇḍajā pure.
36. “Sánh bằng hoặc hơn năm mươi năm, chúng ta đã sống ở hang đá, này Romaka. Trong khi không nghi ngờ, có trạng thái tĩnh lặng, trước đây, các con chim (bồ câu) đi đến với ta trong khoảng tầm tay.”
Dãy đồi này, năm mươi năm lẻ một,
Lũ chim muông vẫn lui tới thăm ta.
Ở nơi đây bao đầm ấm, an hòa.
Ðâu cần phải e dè hay sợ hãi!
437. Tedāni vakkaṅga kimatthamussukā bhajanti aññaṃ girikandaraṃ dijā, na nūna maññanti mamaṃ yathā pure cirappavuttā athavā na te ime.
437. Này Vakkaṅga, giờ đây, chúng vì lý do gì mà có vẻ chộn rộn? Các con chim rủ nhau đi đến hang núi khác, phải chăng chúng nghĩ rằng ta không còn giống như trước đây,
hay những con này không phải là chúng, khi sống xa cách đã lâu?”
Thế mà nay lũ cháu chắt con cái
Ngại nơi này, bay đến ở đồi kia.
Chúng đã quên niềm kính trọng ngày xưa,
Chúng có phải bầy chim dòng giống cũ?
438. Jānāma taṃ na mayamsma mūḷhā soyeva tvante mayamasma nāññe, cittañca te asmiṃ jane paduṭṭhaṃ ājīvaka tena taṃ uttasāmā ”ti.
7. Romakajātakaṃ.
438. “Chúng tôi biết ông, chúng tôi không phải là khờ dại, ông vẫn y như thế, chúng tôi cũng vậy, không phải những ai khác, nhưng tâm của ông là độc ác với lũ chim chúng tôi.
Này gã tu khổ hạnh, vì thế chúng tôi khiếp sợ ông.”
7. Bổn sanh Bồ Câu Romaka.
Ta chẳng khùng đâu, biết rõ ông,
Ta đây, dòng giống của tôn tông.
Còn ông vẫn thế, rắp tâm hại,
Ẩn giả, ta đây phải ngại ngùng.
439. Kamatthamabhisandhāya lahucittassa dūbhino, sabbakāmaduhasseva idaṃ dukkhaṃ titikkhasi.
439. “Đối với con khỉ, kẻ có tâm khinh suất, bội bạc, có thái độ như là của người ban cho mọi điều mong muốn (có thái độ như là của chủ nhân), liên quan đến lợi ích gì gì mà ngài chịu đựng khổ đau này?
Sao ngài vẫn kiên trì
Chịu đựng chuyện kỳ quặc,
Khỉ hỗn hào ích kỷ
Quấy phá ngài lắm khi?
440. Siṅgena nihanāhetaṃ padasā ca adhiṭṭhaha, bhīyo bālā pakujjheyyuṃ no cassa paṭisedhako.
440. Bạn hãy quật ngã con thú này bằng sừng và hãy dẫm đạp nó bằng bàn chân. Và nếu không có người ngăn chặn, những kẻ ngu dốt có thể quậy phá nhiều hơn nữa.”
Hãy đạp nó bằng chân
Hãy đâm nó bằng sừng,
Phải liền ngăn cản nó
Kẻo bọn trẻ khinh lờn.
441. Mamevāyaṃ maññamāno aññampevaṃ karissati, te taṃ tattha vadhissanti sā me mutti bhavissatī ”ti.
8. Mahisajātakaṃ.
441. “Nó cũng sẽ làm như vậy với kẻ khác trong khi nghĩ rằng kẻ này chính là ta. Trong trường hợp ấy, chúng sẽ giết chết nó, sự giải thoát (khỏi việc) ấy sẽ có cho ta.”
8. Bổn sanh Con Trâu.
Nếu nó quấy kẻ khác,
Như đã quấy ta đây,
Nó liền bị hạ sát,
Ta sẽ thảnh thơi ngay.
442. Yathā māṇavako panthe sigāliṃ vanagocariṃ, atthakāmaṃ pavedentiṃ anatthakāmāti maññati, anatthakāmaṃ satapattaṃ atthakāmoti maññati.
442. “Giống như chàng trai trẻ trên đường đi nghĩ rằng con chó rừng cái–đi kiếm ăn ở khu rừng, có ý định tốt, đang (tìm cách) thông báo (tai họa)–là ‘kẻ có ý định không tốt,’ và nghĩ rằng con chim gõ kiến–có ý định không tốt– là ‘kẻ có ý định tốt.’”
Như chàng trai trẻ trên đường,
Chó rừng ấy đã làm chùng bước chân.
Chàng ta nhầm tưởng ác nhân,
Nào ngờ là kẻ cho chàng điều hay.
Lại nhầm Hạc chính bạn ngay,
Trong khi Hạc lại quyết bày ác mưu.
443. Evameva idhekacco puggalo hoti tādiso, hitehi vacanaṃ vutto patigaṇhāti vāmato.
443. Tương tự y như vậy, một người nào đó, ở đây, là thuộc hạng người như vậy, khi được nói lời nói với những điều lợi ích, thì tiếp thu ngược lại.
Nay có kẻ được nhiều bạn tốt,
Lại hiểu lầm sai sót bạn hiền,
Tai không nghe tiếng bạn khuyên
Những điều tốt đẹp dành riêng cho mình.
444. Ye ca kho naṃ pasaṃsanti bhayā ukkaṃsayanti ca, tañhi so maññate mittaṃ satapattaṃva māṇavo ”ti.
9. Satapattajātakaṃ.
444. Và thật vậy, những người nào khen ngợi và tán dương kẻ ấy do sự sợ hãi, kẻ ấy nghĩ rằng chính người kia là bạn bè, tựa như chàng trai trẻ nghĩ về con chim gõ kiến.”
9. Bổn sanh Con Chim Gõ Kiến.
Hễ người ca tụng mới tin,
Ấy điều hung xấu đã liền hé ra:
Như chàng trai trẻ ngày xưa
Yêu con Hạc nọ bay qua đầu mình.
445. Addhā hi nūna migarājā puṭakammassa kovido, tathāhi puṭaṃ dūseti aññaṃ nūna karissati.
445. “Có lẽ vua loài thú đương nhiên là rành rẽ về việc làm giỏ. Bởi vì, gã làm hỏng cái giỏ như thế này, có lẽ gã sẽ làm cái khác.”
Hẳn chúa đàn có tài khéo léo
Làm giỏ kia lắm nẻo công phu,
Ðời nào ông lại làm hư
Trừ phi giỏ khác ông trù làm thêm.
446. Na me pitā vā mātā vā puṭakammassa kovido, kataṃ kataṃ kho dūsema evaṃ dhammamidaṃ kulaṃ.
446. “Cha tôi hoặc mẹ tôi là không rành rẽ về việc làm giỏ. Chúng tôi quả thật làm hỏng từng cái giỏ đã được làm ra; gia tộc có tập quán này như vậy.”
Từ cha mẹ đến tôi nữa đó,
Có thế nào làm giỏ như người?
Người làm, ta xé rã rời
Tính riêng loài khỉ truyền đời là đây!
447. Yesaṃ vo ediso dhammo adhammo pana kīdiso, mā vo dhammaṃ adhammaṃ vā addasāma kudācanan ”ti.
10. Puṭadūsakajātakaṃ.
447. “Việc như thế này đối với các bạn đây là tập quán, thế thì việc như thế nào là phi tập quán? Chớ để chúng tôi nhìn thấy tập quán hay phi tập quán các bạn vào bất cứ lúc nào.”
10. Bổn sanh Kẻ Làm Hỏng Cái Giỏ.
Nếu ta tính riêng bầy khỉ đột,
Quả là không thích hợp tính này!
Dù ngươi có đúng hay sai,
Cũng không đáng kể cả hai, cút liền!
Araññavaggo tatiyo.
*****
Phẩm Khu Rừng là thứ ba.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Udapānavaraṃ vanabyagghakapi
sikhinī ca balākaruciravaro,
sujanādhiparomakadūsa puna
satapattavaro puṭakamma dasā ”ti.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Chuyện giếng nước, khu rừng và con cọp, con khỉ, và con hạc nâu có chỏm lông, chuyện con chim xinh xắn, vị vua tốt, bồ câu Romaka, thêm nữa kẻ làm hại, chuyện con chim gõ kiến, công việc làm giỏ, là mười.
–ooOoo–
▪ 4. ABBHANTARAVAGGO
▪ 4. PHẨM CHÍNH GIỮA
448. Abbhantaraṃ nāma dumo yassa dibbamidaṃ phalaṃ, bhutvā dohaḷinī nārī cakkavattiṃ vijāyati.
448. “Có loại cây tên là Chính Giữa, trái của nó thuộc về cõi trời. Sau khi ăn vào, người đàn bà ốm nghén (sẽ) hạ sanh vị vua chuyển luân.
Có cây nọ trên cành mang trái
Thật diệu kỳ tên gọi Chính trung
Phu nhân ăn trái vào lòng,
Sinh con ngôi báu nắm tròn thế gian.
449. Tañca bhadde mahesīsi sā cāsi patino piyā, āharissati te rājā idaṃ abbhantaraṃ phaḷaṃ.
449. Tâu lệnh bà, lệnh bà là chánh cung hoàng hậu. Và lệnh bà đây được chồng yêu quý; đức vua sẽ mang lại trái Chính Giữa này cho lệnh bà.”
Thưa Chánh hậu, bà hoàng trọng đại,
Ðấng quân vương sủng ái người thay,
Hãy xin ngài bảo mang xoài
Chính trung trái ấy mà người cần ăn.
450. Bhatturatthe parakkanto yaṃ ṭhānamadhigacchati, sūro attapariccāgī labhamāno bhavāmahan ”ti.
1. Abbhantarajātakaṃ.
450. “Quyền lợi nào mà người dũng sĩ đạt được trong lúc nỗ lực cho những mục đích của chủ nhân, trong khi nhận lãnh (thứ ấy), tôi là người dũng sĩ, có sự buông bỏ bản thân.”
1. Bổn sanh Chính Giữa.
Những người dũng cảm quyên mình
Một lòng sốt sắng hy sinh cuộc đời,
Chốn nào họ đạt đến rồi,
Nơi kia chốc lát nữa tôi tới gần.
451. Seyyaṃso seyyaso hoti yo seyyamupasevati, ekena sandiṃ katvāna sataṃ vajjhe amocayiṃ.
451. “Người thân cận với người tốt là tốt hơn, là tốt hơn một phần. Sau khi tạo sự kết giao với một người (bằng tâm từ ái), ta đã cứu thoát một trăm người khỏi phải chết.
Ðiều tốt nhất các khanh nên biết:
Việc tốt hơn hãy quyết lòng làm,
Kẻ kia, ta đối thiện tâm
Nên ta cứu tử được năm trăm người.
452. Tasmā sabbena lokena sandhiṃ katvāna ekako, pecca saggaṃ nigaccheyya idaṃ suṇotha kāsayo.
452. Vì thế, này các cư dân xứ Kāsi, các người hãy lắng nghe điều này. Sau khi tạo sự kết giao với tất cả thế gian (bằng tâm từ ái), mỗi một cá nhân có thể sanh về cõi trời sau khi chết.”
Khuyên các khanh, với đời hãy tỏ
Vẻ khoan dung đức độ, hiền hòa,
Cõi trời, vào hết chẳng riêng
Dân Kà-si hỡi, hãy liền nghe ta.
253. Idaṃ vatvā mahārājā kaṃso bārāṇasiggaho, dhanuṃ tūṇiñca nikkhippa saṃyamaṃ ajjhupāgamī ”ti.
2. Seyyaṃsajātakaṃ.
453. “Đại vương Kaṃsa, người cai trị thành Bārāṇasī, đã nói lời này: ‘Sau khi quăng bỏ cây cung và túi tên, ta đã đạt đến sự tự chế ngự (thiền chứng).’”
2. Bổn sanh Tốt Hơn Một Phần.
Ta là Ðại đế Ba-la-nại
Vua Kam-sa, có bấy nhiêu lời:
Cung tên ta đã bỏ rời,
Thành người tự thắng, ta thời nên công.
454. Varaṃ varaṃ tvaṃ nihanaṃ pure cari asmiṃ padese abhibhuyya sūkare, sodāni eko vyapagamma jhāyasi balannu te vyaggha na cajja vijjati.
454. “Trước đây, sau khi đã khuất phục các con heo rừng ở khu vực này, ông đã thực hiện việc giết chết con heo nào mập nhất, ngon nhất. Bây giờ, ông đây chỉ một mình phải trốn chạy và bực bội. Này ông cọp, phải chăng hôm nay sức mạnh của ông không hiện hữu?”
Mồi ngon nhất bạn luôn luôn được
Mỗi khi đi săn rượt heo rừng.
Bạn nay phiền muộn, tay không,
Nào đâu sức mạnh hào hùng trước đây?
455. Ime sudaṃ yanti disodisaṃ pure bhayaṭṭitā leṇagavesino puthu, te dāni saṃgamma rasanti ekato yattha ṭhitā duppasahajja me mayā.
455. “Trước đây, những con heo này chạy tứ tán. Bị khốn khổ vì sợ hãi, chúng tìm kiếm nơi nương náu một cách riêng rẽ. Giờ đây, chúng kết hợp lại, cùng nhau gào thét. Hôm nay, ta khó áp chế được chúng ở nơi chúng sinh sống.”
Trước kia chúng thường hay tháo chạy,
Tìm về hang, kinh hãi, tả tơi;
Nay thành hàng ngũ hẳn hoi,
Ðứng lên dũng mãnh, quyết đòi ta lui.
456. Namatthu saṅghānaṃ samāgatānaṃ disvā sayaṃ sakhyaṃ vadāmi abbhutaṃ, vyagghaṃ migā yattha jiniṃsu dāṭhino sāmaggiyā dāṭhabalesu muccare ”ti.
3. Vaḍḍhakīsūkarajātakaṃ.
456. “Hãy tỏ sự kính nể đến các hội chúng đã được tập hợp lại, ta nói về tình bằng hữu kỳ diệu sau khi tự thân nhìn thấy. Nơi ấy, những con thú có răng nanh đã chiến thắng con cọp. Do sự hợp nhất giữa các con heo rừng mà chúng được tự do.”
3. Bổn sanh Con Heo Rừng Của Người Thợ Mộc.
Ta đã thấy một kết đoàn kỳ đặc
Vinh quang thay, những bộ tộc hợp quần!
Ðám heo rừng đã đánh hổ tan hoang
Bằng sức mạnh và sừng nanh hợp nhất.
457. Yaṃ ussukā saṅgharanti alakkhikā bahuṃ dhanaṃ, sippavanto asippā ca lakkhivā tāni bhuñjati.
457. “Những người siêng năng gom góp được nhiều tài sản không do vận may, còn những người có nghề nghiệp hoặc không có nghề nghiệp có vận may thọ hưởng chúng.
Những của cải do mình tạo dựng,
Chẳng phải nhờ may mắn mà thành,
Do ơn thần nữ phúc lành
Người hay, kẻ dở đều dành phần cho.
458. Sabbattha katapuññassa aticcaññeva pāṇino, uppajjanti bahū bhogā appanāyatanesupi.
458. Ở tất cả các nơi, nhiều của cải sanh lên cho người đã có tạo phước (trước đây) vượt trội những chúng sinh khác, thậm chí ở một số ít trường hợp không phải là đối tượng thích hợp.”
Trên cuộc thế sờ sờ lắm kẻ
Thiện hiền hay ác tệ hung tàn,
Cuối cùng được hưởng giàu sang,
Ðúng ra nào phải là phần họ đâu?
459. Kukkuṭamaṇayo daṇḍā thiyo ca puññalakkhaṇā, uppajjanti apāpassa katapuññassa jantuno ”ti.
4. Sirijātakaṃ.
459. “Con gà trống, các viên ngọc ma-ni, các cây gậy, và những người phụ nữ có phước tướng sanh lên cho người không ác độc, đã có tạo phước (trước đây).”
4. Bổn sanh Sự May Mắn.
Gà kia, ngọc nọ, gậy này,
Rồi người vợ nữa, vận may luân hành.
Cho hay một kẻ thiện lành
Kho tàng kia vẫn được dành phần riêng.
460. Dariyā sattavassāni tiṃsamattā vasāmase, hañjema maṇino ābhaṃ iti no mantitaṃ ahu.
460. “Chúng tôi gồm ba mươi mạng sống ở hang được bảy năm. ‘Chúng ta hãy hủy ánh sáng của ngọc ma-ni,’ chúng tôi đã có suy nghĩ như thế.
Ba chục chúng tôi đã sống trong
Vẻ sáng động kia nay nhọc sức,
Chúng tôi chẳng thể vấy dơ xong.
461. Yāva yāva nighaṃsāma bhiyyo vodāyate maṇi, idañcadāni pucchāma kiṃ kiccaṃ idha maññasi.
461. Chúng tôi càng chà xát chừng nào thì ngọc ma-ni càng trong sáng thêm. Vậy giờ đây, chúng tôi hỏi điều này: ‘Ở đây, ông nghĩ việc nên làm là việc gì?’”
Dù đã tốn công đem hết sức,
Làm lu mờ bóng sáng kia đi,
Bóng kia càng sáng hơn lên mãi,
Xin hỏi chẳng hay duyên cớ gì?
462. Ayaṃ maṇi veḷuriyo akāco vimalo subho, nāssa sakkā siriṃ gantuṃ apakkamatha sūkarā ”ti.
5. Maṇisūkarajātakaṃ.
462. “Ngọc ma-ni này là ngọc bích, không tì vết, không vết nhơ, chói sáng, các ngươi không thể nào hủy được sự chói sáng, các heo rừng hãy lánh xa.”
5. Bổn sanh Ngọc Ma-ni Và Heo Rừng.
Thủy tinh kia quý giá dường bao,
Trong sáng, luôn luôn rực ánh hào,
Tuyệt chẳng vật gì ngăn vẻ sáng,
Heo nên dời chỗ ở đi nào!
463. Mā sālukassa pihayi āturannāni bhuñjati, appossukko bhusaṃ khāda etaṃ dīghāyulakkhaṇaṃ.
463. “Chớ mong cầu (cuộc sống) của Sāluka, nó ăn thức ăn (vỗ béo) của kẻ sắp bị giết. Em hãy ít đòi hỏi, hãy nhai rơm rạ; điều ấy là dấu hiệu của cuộc sống thọ.
Chớ ganh với món Liên căn,
Ðồ ăn của nó là phần tử vong,
Rạ rơm kia, hãy bằng lòng,
Dài lâu cuộc sống, riêng phần của em.
464. Idāni so idhāgantvā atithi yuttasevako, atha dakkhisi sālukaṃ sayantaṃ musaluttaraṃ.
464. Giờ đây, người khách ấy, sau khi đi đến nơi này, là người phục vụ đã được giao phó. Rồi em sẽ nhìn thấy Sāluka (bị giết chết) nằm dài với phần môi phía trên.”
Chẳng bao lâu khách quen sẽ tới,
Chuyện trò vui, cười nói này kia,
Liên căn sẽ bị chặt ra,
Với mồm há bẹp thật là đáng thương.
465. Vikantaṃ sūkaraṃ disvā sayantaṃ musaluttaraṃ, jaraggavā vicintesuṃ varamhākaṃ bhusāmivā ”ti.
6. Sālukajātakaṃ.
465. “Sau khi nhìn thấy con heo bị xẻ banh, nằm dài với phần môi phía trên, hai con bò già đã cân nhắc rằng: ‘Chỉ có rơm rạ là tuyệt vời cho chúng ta.’”
6. Bổn sanh Con Heo Sāluka.
Thấy Liên căn trăm đường tội nghiệp
Bị chặt rời, mõm bẹp phơi bày,
Ðôi bò mới tỏ nói lời này:
Rạ rơm thô thiển tốt may hơn nhiều.
466. Nānummatto nāpisuno nānaṭo nākutūhalo, mūḷhesu labhate lābhaṃ esā te anusāsanī.
466. “Trong số những người bị mê mờ, kẻ nhận được lợi lộc không phải là kẻ không bị điên, không phải là kẻ không nói đâm thọc, không phải là kẻ không nhảy múa, không phải là kẻ không nói lung tung; sự giáo huấn này là dành cho ngươi.”
Kẻ cuồng si, kẻ chuyên lời phỉ báng,
Kẻ tinh ranh như những bọn phường chèo.
Kẻ nói ác, đều thu lợi thật nhiều,
Châm ngôn ấy, giữa đám người điên loạn.
467. Dhiratthu taṃ yasalābhaṃ dhanalābhañca brāhmaṇa, yā vutti vinipātena adhammacariyāya vā.
467. “Thưa Bà-la-môn, thật xấu hổ thay việc đạt được danh vọng và đạt được tài sản theo lối hành xử với sự hủy hoại hoặc với việc làm sai pháp.
Hổ thẹn thay kẻ nào
Thâu đạt lợi danh vào
Bằng hủy diệt tàn hại,
Bằng tội lỗi gắt gao.
468. Api ce pattamādāya anāgāro paribbaje, esāva jīvikā seyyo yā cādhammena esanā ”ti.
7. Lābhagarahajātakaṃ.
468. Và hơn nữa, vị (xuất gia) không nhà nên cầm lấy bình bát hành hạnh du sĩ, chính sự nuôi mạng ấy là tốt hơn việc tầm cầu sai pháp.”
7. Bổn sanh Chê Trách Lợi Lộc.
Trong tay một bình bát,
Theo cuộc đời không nhà
Còn hơn theo kiếp sống
Tham lam và ác tà.
469. Agghanti macchā adhikaṃ sahassaṃ na so atthi yo imaṃ saddaheyya, mayhañca assu idha satta māsā ahampi taṃ macchuddānaṃ kiṇeyyaṃ.
469. “Những con cá trị giá hơn một ngàn, không có người nào có thể tin chuyện này. Còn đối với tôi, ở đây đã là bảy xu, tôi cũng đã mua phần cá dành riêng ấy.”
Nào ai tin được chuyện này
Mấy con cá nọ giá ngay ngàn đồng,
Ta đây chỉ bảy hào con,
Mong gì mua được cá tròn một dây?
470. Macchānaṃ bhojanaṃ datvā mama dakkhiṇamādisi, taṃ dakkhiṇaṃ sarantiyā kataṃ apacitiṃ tayā.
470. “Sau khi cho thức ăn đến những con cá, ngài đã đề cập đến việc cúng dường đến ta. Trong khi ta nhớ lại sự cúng dường ấy, sự nể vì đã được ta thực hiện.
Người cho lũ cá ăn
Cúng dường ta có phần,
Ta ghi công đức ấy
Và đạo tâm vẹn toàn.
471. Paduṭṭhacittassa na phāti hoti na cāpi naṃ devatā pūjayanti, yo bhātaraṃ pettikaṃ sāpateyyaṃ avañcayī dukkatakammakārī ”ti.
8. Macchuddānajātakaṃ.
471. Không có sự hưng thịnh dành cho kẻ có tâm xấu xa, và các Thiên thần cũng không cúng dường kẻ ấy, kẻ đã lừa gạt, đã làm hành động sái quấy đối với người anh trai về tài sản (thừa kế) của cha.”
8. Bổn sanh Phần Cá Dành Riêng.
Tâm địa xấu, dối lừa, trộm cắp,
Gạt anh em mong đạt gia tài;
Ác tâm nào gặp vận may,
Quỉ thần chẳng chút tỏ bày kính tâm.
472. Nānācchandā mahārāja ekāgāre vasāmase, ahaṃ gāmavaraṃ icche brāhmaṇī ca gavaṃ sataṃ.
472. “Tâu đại vương, chúng tôi sống trong một ngôi nhà với những mong muốn khác nhau, tôi thích ân huệ là ngôi làng, còn người vợ Bà-la-môn thích một trăm bò sữa.
Chúng tôi chung sống một nhà,
Ý này ý nọ chia ra mỗi người!
Trăm bò sữa, ý vợ tôi;
Còn tôi thì muốn một ngôi làng giàu;
473. Chatto ca ājaññarathaṃ kaññā ca maṇikuṇḍalaṃ, yā cesā puṇṇikā jammī udukkhalaṃ abhikaṅkhati.
473. Con trai thích cỗ xe kéo bởi ngựa thuần chủng, con gái thích bông tai ngọc ma-ni, còn đứa tớ gái hèn hạ ấy mong mỏi cái cối giã.”
Trai ưa ngựa kéo xe sau;
Hoa tai gắn ngọc, mong cầu gái kia;
Punnà bé nhỏ, nữ tỳ
Nói rằng nàng muốn cối đi cùng chày!
474. Brāhmaṇassa gāmavaraṃ detha brāhmaṇiyā gavaṃ sataṃ, puttassa ājaññarathaṃ kaññāya maṇikuṇḍalaṃ, yañcetaṃ puṇṇikaṃ jammiṃ paṭiyādetha udukkhalan ”ti.
9. Nānācchandajātakaṃ.
474. “Trẫm ban cho người Bà-la-môn ân huệ là ngôi làng, cho người vợ Bà-la-môn một trăm bò sữa, cho người con trai cỗ xe kéo bởi ngựa thuần chủng, cho người con gái bông tai ngọc ma-ni, và trẫm thí cho đứa tớ gái hèn hạ ấy cái cối giã.”
9. Bổn sanh Các Mong Muốn Khác Nhau.
Hãy cho người vợ trăm bò;
Người chồng tốt bụng được cho ngôi làng;
Hoa tai ngọc tặng cô nàng;
Xe đôi ngựa kéo gởi chàng trai kia;
Còn cô giúp việc trong nhà
Trao cho chày cối – Thế là thỏa chung.
475. Sīlaṃ kireva kalyāṇaṃ sīlaṃ loke anuttaraṃ, passa ghoraviso nāgo sīlavāti na haññati.
475. “Nghe nói giới là tốt lành, giới là vô thượng ở thế gian. Hãy nhìn xem con rồng dữ tợn, có nọc độc, không bị giết chết vì ‘có giới hạnh.’
Cho rằng Ðức hạnh đáng yêu
Người ta tôn quí bao nhiêu trên đời.
Xem kia! Rắn độc chết người,
Bảo rằng nó tốt, chẳng đòi chết ngay.
476. Sohaṃ sīlaṃ samādissaṃ loke anumataṃ sivaṃ, ariyavuttisamācāro yena vuccati sīlavā.
476. Tôi đây sẽ thọ trì giới, sự an toàn đã được chứng thực ở thế gian. Người có sự thực hành lối sống của bậc Thánh được gọi là ‘người có giới.’
Tôi nay bảo, khắp đầy trần thế
Ðức hạnh là tôn quí đáng yêu:
Kẻ nào đạo đức vẫn nêu
Con đường đạo quả bước theo mãi hoài.
477. Ñātīnañca piyo hoti mittesu ca virocati, kāyassa bhedā sugatiṃ upapajjati sīlavā ”ti.
10. Sīlavīmaṃsajātakaṃ.
477. Người có giới được các thân nhân yêu quý, và chói sáng trong số những bạn bè, khi thân này bị tan rã sẽ tái sanh vào chốn an vui.”
10. Bổn sanh Suy Xét Về Giới.
Tình thân thiết, sáng ngời chúng bạn
Rồi đến khi số tận mạng chung,
Kẻ nào tích đức sẵn sàng
Cõi trời, kẻ ấy được phần tái sinh.
Abbhantaravaggo catuttho.
*****
Phẩm Chính Giữa là thứ tư.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Dumakaṃsavaruttamabyagghamigā maṇiyo maṇi sālukamavhayano, anusāsaniyopi ca macchavaro maṇikuṇḍalakena kirena dasā ”ti.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Cây cối, chuyện vua Kaṃsa hay nhất, cọp và thú (có nanh), các viên ngọc ma-ni, ngọc ma-ni, con heo tên Sāluka, các lời giáo huấn và chuyện các con cá, với bông tai ngọc ma-ni, với việc nghe nói, là mười.
–ooOoo–
▪ 5. KUMBHAVAGGO
▪ 5. PHẨM CÁI HŨ
478. Sabbakāmadadaṃ kumbhaṃ kuṭaṃ laddhāna dhuttako, yāva so anupāleti tāva so sukhamedhati.
478. “Gã vô lại đã nhận được cái chậu, cái hũ ban cho mọi điều ước muốn. Ngày nào gã còn gìn giữ cái hũ thì ngày ấy gã còn thành tựu hạnh phúc.
Kẻ vô dụng một lần được bát,
Lòng muốn gì, Bát tất thỏa ngay,
Bao lâu còn giữ Bát này,
Tiền tài luôn vẫn còn đầy cho anh.
479. Yadā matto ca ditto ca pamādā kumbhamabbhidā, tato naggo ca pottho ca pacchā bālo vihaññati.
479. Vào lúc bị say sưa và kiêu ngạo, do xao lãng gã đã làm vỡ cái hũ. Từ đó, gã sống lõa lồ và rách rưới. Về sau, gã ngu si lâm cảnh khốn cùng.
Trong một lúc ngông nghênh say khướt,
Anh làm tan Bát phước lành rồi!
Lõa lồ, rách rưới tả tơi,
Kẻ rồ tội nghiệp sống đời đắng cay.
480. Evameva yo dhanaṃ laddhā amattā paribhuñjati, pacchā tapati dummedho kuṭaṃ1 bhinnova dhuttako ”ti.
1. Bhadraghaṭajātakaṃ.
480. Tương tự y như vậy, người nào sau khi đạt được tài sản rồi thọ dụng không chừng mực, về sau kẻ ngu muội bị sầu muộn, tựa như gã vô lại đã làm vỡ cái chậu.”
1. Bổn sanh Cái Bình Tốt Lành.
Kẻ nào có gia tài đồ sộ
Nhưng hưởng đời, tiết độ chẳng hay,
Phút giây tàn mạt! – cũng tày
Anh chàng khờ khạo vỡ ngay Bát thần.
481. Bārāṇassaṃ mahārāja kākarājā nivāsiko, asītiyā sahassehi supatto parivārito.
481. “Tâu đại vương, quạ vương tên Supatta thường trú ở Bārāṇasī là được tùy tùng bởi tám mươi ngàn con quạ.
Ở nơi đây, thành Ba-la-nại,
Tâu Ðại vương, có vị Quạ Vua,
Tên Hoàng Dực, với đàn kia,
Tám mươi ngàn quạ đều là thần dân.
482. Tassa dohaḷinī bhariyā suphassā macchamicchati, rañño mahānase pakkaṃ paccagghaṃ rājabhojanaṃ.
482. Vợ của quạ vương là Suphassā bị ốm nghén, và muốn ăn cá là món ăn đắt giá của vua, được nấu ở bếp của nhà vua.
Nhu Hoàng hậu muôn phần mơ ước:
Bà khát khao có được bữa cơm,
Cá kia riêng của Ðại vương
Bắt tươi nấu chín vừa mang lên bàn.
483. Tesāhaṃ pahito dūto rañño camhi idhāgato, bhattu apacitiṃ kummi nāsāyamakaraṃ vaṇan ”ti.
2. Supattajātakaṃ.
483. Được bọn họ phái đi, tôi là sứ giả của đức vua, và tôi đã đi đến nơi này. Tôi thể hiện sự kính nể đến chủ nhân, tôi đã gây nên vết thương ở mũi.”
2. Bổn sanh Quạ Vương Supatta.
Xin xem tôi như hàng sứ giả,
Vua tôi sai nên đã đến đây.
Kính Vua, tôi tỏ lòng này,
Mũi người kia bị tôi gây đau phiền.
484. Phuṭṭhassa me aññatarena vyādhinā rogena bāḷhaṃ dukhitassa ruppato, parisussati khippamidaṃ kaḷebaraṃ pupphaṃ yathā paṃsuni ātape kataṃ.
484. “Lúc tôi bị tác động bởi một cơn bệnh nào đó, tôi bị khổ sở, bị hành hạ một cách dữ dội bởi sự ốm đau, thân xác này của tôi bị tàn tạ một cách nhanh chóng, giống như bông hoa được đặt trên mặt đất ở nơi nắng nóng, bị héo úa.
Bị cơn bệnh trầm kha quật xuống,
Ta nằm dài đau đớn sầu bi.
Thân ta chóng héo tàn đi
Như hoa trên đất khô vì nắng kia.
485. Ajaññaṃ jaññasaṅkhātaṃ asuciṃ sucisammataṃ, nānākuṇapaparipūraṃ jaññarūpaṃ apassato.
485. Đối với người không nhìn thấy sắc thân mỹ miều chứa đầy các vật ghê tởm khác loại, thì vật không mỹ miều được xem là mỹ miều, vật không trong sạch được gọi là trong sạch.
Cao sang cũng như là hèn nhục,
Tinh khiết cùng vẩn đục như nhau.
Kẻ nào mù quáng biết đâu
Tưởng vùng hư thối là mầu đẹp tươi.
486. Dhiratthu taṃ āturaṃ pūtikāyaṃ jegucchiyaṃ asuciṃ byādhidhammaṃ, yatthappamattā adhimucchitā pajā hāpenti maggaṃ sugatūpapattiyā ”ti.
3. Kāyavicchandajātakaṃ.
486. Thật xấu hổ thay cái thân xác hôi thối ốm đau, đáng ghê tởm, không trong sạch, có bản chất bệnh hoạn ấy! Bị say đắm, bị mê mẫn thân xác này, chúng sanh bỏ quên đạo lộ đưa đến việc tái sanh ở cảnh giới an vui.”
3. Bổn sanh Không Còn Mong Muốn Ở Thân.
Thân bệnh hoạn này thời đáng thẹn
Quá thối hư, bất tịnh mà thôi.
Kẻ cuồng si hễ biếng lười,
Lang thang khắp lối, cõi trời chẳng sinh.
487. Koyaṃ bindussaro vaggu pavadantānam uttamo, accuto jambusākhāya moracchāpova kūjati.
487. “Người này là ai mà có giọng hót tròn trịa, có âm thanh ngọt ngào, hạng nhất trong số những loài có tiếng hót, đang đậu ở cành cây đào đỏ, tựa như con công trẻ kêu líu lo?”
Ai đó ngồi cây đào đỏ hồng,
Giọng ca thanh lịch rót vào lòng,
Dáng nàng uyển chuyển như công múa
Và vẫn ngồi yên, vẫn lặng không!
488. Kulaputtova jānāti kulaputte pasaṃsituṃ, vyagghacchāpasarīvaṇṇo bhuñja samma dadāmi te.
488. “Chỉ con nhà danh giá mới biết ca ngợi những người con nhà danh giá. Này bạn, với vóc dáng tựa như cọp con, bạn hãy ăn đi, ta tặng cho bạn.”
Kẻ nào gia thế cao sang
Mới khen kẻ khác là hàng quý cao.
Chàng cùng mãnh hổ khác nào,
Ðến đây! Ăn thứ tôi trao tặng chàng!
489. Cirassaṃ vata passāmi musāvādī samāgate, vantādaṃ kuṇapādañca aññamaññaṃ pasaṃsake ”ti.
4. Jambukhādakajātakaṃ.
489. “Thật vậy, cuối cùng ta nhìn thấy những kẻ nói lời dối trá gặp gỡ nhau, con quạ chuyên ăn vật ói mửa và con chó rừng ăn thịt xác chết, những kẻ ca ngợi lẫn nhau.”
4. Bổn sanh Kẻ Nhai Trái Đào Đỏ.
Quân nói dối, ta đây rõ quá!
Tên Quạ kia, tên Chó rừng kia,
Chuyên ăn xác chết thối tha,
Nịnh nhau qua lại nghe ra om sòm!
490. Usabhasseva te khandho sīhasseva vijambhitaṃ, migarāja namo tyatthu api kiñci labhāmase.
490. “Thân hình của ngài tựa như con bò mộng, sự vươn vai của ngài tựa như loài sư tử. Thưa vị vua của loài thú, xin kính lễ ngài! Chúng ta có nhận được một vật gì đó không?”
Như chàng bò mộng, tấm thân ông,
Sinh hoạt như sư tử mạnh hùng,
Vinh hiển thay ông, vua các thú!
Ðừng quên một miếng tặng tôi cùng.
491. Kulaputtova jānāti kulaputte pasaṃsituṃ, mayūragīvasaṅkāsa ito pariyāhi vāyasa.
491. “Chỉ con nhà danh giá mới biết ca ngợi những người con nhà danh giá. Này quạ, kẻ (có cái cổ) giống như cổ của chim công, bạn hãy đi loanh quanh ở nơi đây (để ăn thịt xác chết).”
Những ai gia thế trọng cao
Mới ca ngợi đúng kẻ nào quí sang.
Cổ cô giống cổ chim công.
Quạ ơi, bay xuống mà dùng thịt đây.
492. Migānaṃ kotthuko anto pakkhīnaṃ pana vāyaso, eraṇḍo anto rukkhānaṃ tayo antā samāgatā ”ti.
5. Antajātakaṃ.
492. “Chó rừng là hạng chót trong số các loài thú, thêm nữa, con quạ là hạng chót trong số các loài chim, cây eraṇḍa là hạng chót trong số các giống cây, ba kẻ hạng chót gặp gỡ nhau.”
5. Bổn sanh Hạng Chót.
Loài thú hèn nhất, là Chó rừng,
Trong loài chim, Quạ bét sau cùng,
Thầu dầu hạ liệt nhất loài mộc,
Ba thứ chung đây, tối hạ tầng!
493. Konāyaṃ loṇatoyasmiṃ samantā paridhāvati, macche makare ca vāreti ūmīsu ca vihaññati.
493. “Kẻ này là ai mà chạy loanh quanh khắp các nơi ở vùng nước mặn, ngăn cản các loài cá và các cá đao, rồi bị khốn khổ về những làn sóng?”
Trên sóng biển ai bay qua đó?
Ai cố công cản trở thủy loài,
Ngăn đàn cá lội ngoài khơi,
Sợ rằng biển cả sẽ vơi dần dà?
494. Anantapāyī sakuṇo atittoti disāsuto, samuddaṃ pātumicchāmi sāgaraṃ saritaṃ patiṃ.
494. “Tôi được nổi tiếng khắp bốn phương là ‘con chim không được thỏa mãn tên Anantapāyī (uống không giới hạn).’ Tôi muốn uống cạn biển lớn, biển cả, chúa tể của các con sông.”
Trên thế giới người ta vẫn nói
Rằng tôi đây uống mãi chẳng vừa,
Ra công uống hết biển kia
Làm cho biển chúa giang hà cạn khô.
495. Svāyaṃ hāyati ceva pūrate ca mahodadhi, nāssa nāyati pītanto apeyyo kira sāgaro ”ti.
6. Samuddajātakaṃ.
495. “Đại dương này đây tự cạn xuống và đầy lên (thủy triều lên xuống). Không nhận ra mức nước đã được uống của biển cả; nghe nói biển cả không thể bị uống cạn.”
6. Bổn sanh Biển Cả.
Dù biển cả có vơi dần nước,
Cũng lại đầy cùng một ngày thôi,
Nào ai làm biển được vơi?
Uống vào nước ấy kể thời thấm chi!
496. Ucce sakuṇa ḍemāna pattayāna vihaṅgama, vajjāsi kho tvaṃ vāmūruṃ ciraṃ kho sā karissati.
496. “Này chim, trong khi di chuyển ở trên cao, này loài di chuyển bằng đôi cánh, này loài đi lại ở hư không, bạn có thể nói cho người vợ có cặp đùi xinh đẹp của tôi không? Đã quá lâu, nàng ấy sẽ thể hiện sự giận dữ!
Chim ơi, bay ở trên trời,
Chim mang cánh nọ, cao vời xa bay.
Vợ tôi, đùi đẹp lắm thay,
Nhắn dùm nàng, đã lâu rày phải chăng?
497. Idaṃ kho sā na jānāti asiṃ sattiñca oḍḍitaṃ, sā caṇḍī kāhati kodhaṃ taṃ me tapati no idha.
497. Nàng ấy thật sự không biết điều này, là việc gươm và giáo đã được dựng lên. Nàng ấy tàn nhẫn, sẽ thể hiện sự giận dữ; điều ấy làm tôi bực bội, không phải sự việc (tôi bị hành hạ) ở đây.
Nàng đâu biết tới đao, thương,
Giận hờn, nàng hẳn lắm đường so đo.
Việc kia, tôi sợ, tôi lo,
Chứ không do bị treo giò nơi đây!
498. Esa uppalasannāho nikkhamussīsake kataṃ, kāsikañca muduṃ vatthaṃ tappatu dhanakāmikā ”ti.
7. Kāmavilāpajātakaṃ.
498. Chiếc áo giáo màu xanh ấy, chiếc cà rá được đặt ở gối, và loại vải mềm mại của xứ Kāsi, hãy làm thỏa mãn cô nàng mong muốn tài sản.”7. Bổn sanh Lời Than Vãn Về Điều Mong Muốn.
Áo hoa sen, tôi nay bỏ lại,
Cùng ngọc ngà trên gối nằm kia.
Lụa Ba-la-nại mượt mà,
Ðể nàng thỏa ý cửa nhà giàu sang.
499. Udumbarā cime pakkā nigrodhā ca kapitthanā, ehi nikkhama bhuñjassu kiṃ jighacchāya mīyasi.
499. “Các cây sung, các cây đa, và các cây vú sữa này đã chín tới. Này bạn hãy đến, hãy đi ra ngoài, hãy ăn, việc gì bạn phải chết vì đói?”
Sung đã chín trên cây ngon đẹp,
Khỉ nhà ta được dịp no nê.
Cùng ta đến đó ăn đi,
Bạn ơi, nào phải sợ gì đói đâu?
500. Evaṃ so suhito hoti yo vaddhamapacāyati, yathāhamajja suhito dumapakkāni-m-āsito.
500. “Như vậy, người nào tôn kính bậc trưởng thượng, người ấy được lợi ích tốt đẹp, giống như tôi hôm nay, được lợi ích tốt đẹp, được ăn những trái cây chín.”
Hạnh phúc thay kẻ nào cảm phục
Và tôn sùng những bậc niên cao,
Tôi đây hạnh phúc làm sao!
Bao nhiêu trái ấy ăn vào thỏa thuê!
501. Yaṃ vanejo vanejassa vañceyya kapino kapi, daharopi taṃ na saddheyya na hi jiṇṇo jarākapī ”ti.
8. Udumbarajātakaṃ.
501. “Việc một con khi sanh ra ở rừng lường gạt một con khỉ khác cũng sanh ra ở rừng, ngay cả con khỉ nhỏ còn không thể tin vào điều ấy, thì con khỉ già cả, lão niên, càng không thể tin.”
8. Bổn sanh Cây Sung.
Người Hy Lạp gặp nhau sinh chiến,
Khỉ gặp nhau, ngửi chuyện mưu xa,
Dù cho trẻ nọ tinh ma,
Ðời nào lừa bắt chim già được đâu.
502. Pure tuvaṃ sīlavataṃ sakāse okkandikaṃ kīḷasi assamamhi, karohare makkaṭiyāni makkaṭa na taṃ mayaṃ sīlavataṃ ramāma.
502. “Trước đây, khi ngươi ở gần các vị có giới hạnh, ngươi thường xuyên giỡn hớt ở khu ẩn cư. Ồ, này khỉ, ngươi hãy làm các trò khỉ, chúng ta không vui thích giới và phận sự ấy.”
Lúc trước đây người thường nghịch phá
Trong lều cùng ẩn giả chúng ta,
Hãy làm trò khỉ như xưa,
Thành người đức hạnh chẳng vừa lòng đây!
503. Sutā hi mayhaṃ paramā visuddhi komāyaputtassa bahussutassa, mādāni maṃ maññi tuvaṃ yathā pure jhānānuyuttā viharāma āvuso.
503. “Bởi vì tôi đã được nghe về sự thanh tịnh tuyệt đối của vị đa văn tên Komāyaputta. Giờ đây, xin ông chớ nghĩ về tôi giống như trước đây, chúng tôi sống gắn bó với việc tham thiền, thưa đạo hữu.”
Ko-mà-ya, bậc thầy trí tuệ,
Tôi đã nghe lời lẽ tuyệt vời.
Tôi nay đã khác xưa rồi,
Giờ đây suy tưởng tôi thời noi theo.
504. Sacepi selasmiṃ vapeyya bījaṃ devo ca vasse neva hi taṃ ruheyya, sutā hi te sā paramā visuddhi ārā tuvaṃ makkaṭa jhānabhūmiyā ”ti.
9. Komāyaputtajātakaṃ.
504. “Nếu có thể gieo hạt giống ở trên đá, và Trời có thể đổ mưa, nhưng hạt ấy chẳng bao giờ có thể mọc lên. Dầu ngươi đã được nghe về sự thanh tịnh tuyệt đối ấy, này khỉ, ngươi vẫn cách xa lĩnh vực của thiền.”
9. Bổn sanh Ẩn Sĩ Komāyaputta.
Nếu hạt kia người gieo trên đá,
Dù trời mưa, hạt chả nên cây.
Dù người Tuệ Giác tròn đầy,
Suy tư ngươi chẳng mảy may được nào.
505. Parapāṇarodhā jīvanto maṃsalohitabhojano, vako vataṃ samādāya upapajji uposathaṃ.
505. “Trong khi sống nhờ vào sự giết hại mạng sống kẻ khác, có thức ăn là thịt và máu tươi, con chó sói đã thọ trì phận sự và đã thực hành ngày Trai giới.
Chó Sói nọ chuyên bắt sống thú
Làm bữa ăn với máu thịt kia.
Một lần phát thành nguyện ra,
Giữ ngày trai giới quyết là chẳng sai.
506. Tassa sakko vataññāya ajarūpenupāgami, vītatapo ajjhappatto bhañji lohitapo tapaṃ.
506. Biết được sự thọ trì của nó, Thiên Chủ Sakka đã đi đến với hình dáng con dê. Lìa bỏ khổ hạnh, con chó sói đã lao vào (con dê); kẻ uống máu tươi đã phá vỡ sự khổ hạnh.
Thần Ðế Thích biết ngay chuyện ấy
Hóa thành dê đến đấy thử coi.
Sói kia khát máu vồ mồi,
Hạnh liền ném mất, quên lời nguyện ngay.
507. Evamevaṃ idhekacce samādānasmiṃ dubbalā, lahuṃ karonti attānaṃ vakova ajakāraṇā ”ti.
10. Vakajātakaṃ.
507. Tương tự y như vậy, ở đây, một số người xem nhẹ bản thân do có năng lực yếu đuối trong việc thọ trì, tựa như con chó sói với chuyện con dê.”
10. Bổn sanh Con Chó Sói.
Người trên thế gian này cũng vậy,
Ðịnh việc mà chẳng thấy sức mình,
Sai đường mục đích chẳng thành,
Như khi Sói nọ thấy hình Dê kia.
Kumbhavaggo pañcamo.
*****
Phẩm Cái Hũ là thứ năm.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Varakumbhasupattasirivahayano sucisammatabinduvaro cūsabho, saritaṃpaticaṇḍijarākapinā atha makkaṭiyā vakakena dasā ”ti.
Tikanipāto niṭṭhito.
*****
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Chuyện cái hũ, tên gọi tốt lành Supatta, được gọi là trong sạch, chuyện giọng hót tròn trịa, và như con bò mộng, chúa tể của các con sông, tàn nhẫn, với con khỉ già cả, rồi các trò khỉ, với con chó sói, là mười. Nhóm Ba Kệ Ngôn được chấm dứt.
*****
VAGGUDDĀNAṂ
Saṅkappo padumo ceva udapānena tatiyaṃ, abbhantaraṃ ghaṭabhedaṃ tikanipātamhi ’laṅkatan ”ti.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC CÁC PHẨM
Phẩm tư duy, và hoa sen nữa, với giếng nước là thứ ba, phẩm chính giữa, làm bể cái chậu, đã được tô điểm ở nhóm ba kệ ngôn.
–ooOoo–
—-
Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda