TIỂU BỘ – CHUYỆN THIÊN CUNG – A. THIÊN CUNG NỮ GIỚI – 1. PHẨM CHIẾC GHẾ

TẠNG KINH – TIỂU BỘ

CHUYỆN THIÊN CUNG

 

Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri! 

A. THIÊN CUNG NỮ GIỚI

1. PHẨM CHIẾC GHẾ

 

  1. Thiên cung chiếc ghế thứ nhất
  2. Thiên cung chiếc ghế thứ nhì    
  3. Thiên cung chiếc ghế thứ ba     
  4. Thiên cung chiếc ghế thứ tư  
  5. Thiên cung voi     
  6. Thiên cung chiếc thuyền thứ nhất  
  7. Thiên cung chiếc thuyền thứ nhì
  8. Thiên cung chiếc thuyền thứ ba
  9. Thiên cung cây đèn    
  10. Thiên cung của sự cúng dường hạt mè   
  11. Thiên cung của người vợ chung thủy    
  12. Thiên cung của người vợ chung thủy thứ nhì 
  13. Thiên cung của người con dâu 
  14. Thiên cung của người con dâu thứ nhì  
  15. Thiên cung của Uttarā    
  16. Thiên cung của Sirimā    
  17. Thiên cung của Kesakārī

1. 1

  1. “Chiếc ghế của nàng làm bằng vàng, cao sang, di chuyển với tốc độ của tâm theo như ước muốn. Hỡi cô nàng đã được trang điểm, có mang vòng hoa, có y phục xinh đẹp, nàng chói sáng tựa như tia chớp ở đỉnh đám mây.  
  2. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?  
  3. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  
  4. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  
  5. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã bố thí chỗ ngồi nhỏ cho những người khách đi đến. Tôi đã chào hỏi, đã chắp tay, và đã dâng vật thí tùy theo khả năng.  
  6. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.  
  7. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung Chiếc Ghế thứ nhất.  

1. 2

  1. “Chiếc ghế của nàng làm bằng ngọc bích, cao sang, di chuyển với tốc độ của tâm theo như ước muốn. Hỡi cô nàng đã được trang điểm, có mang vòng hoa, có y phục xinh đẹp, nàng chói sáng tựa như tia chớp ở trên đỉnh đám mây.  
  2. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?  
  3. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  
  4. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  
  5. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã bố thí chỗ ngồi nhỏ cho những người khách đi đến. Tôi đã chào hỏi, đã chắp tay, và đã dâng vật thí tùy theo khả năng.  
  6. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.  
  7. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung Chiếc Ghế thứ nhì

1. 3

  1. “Chiếc ghế của nàng làm bằng vàng, cao sang, di chuyển với tốc độ của tâm theo như ước muốn. Hỡi cô nàng đã được trang điểm, có mang vòng hoa, có y phục xinh đẹp, nàng chói sáng tựa như tia chớp ở trên đỉnh đám mây.  
  2. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?  
  3. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  
  4. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  
  5. “Đây là quả báo của việc làm ít ỏi của tôi, do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy. Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, … 
  6. … tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động. Được tịnh tín, tôi đã tự tay dâng chiếc ghế đến vị ấy.  
  7. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.  
  8. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung Chiếc Ghế thứ ba

1. 4

  1. “Chiếc ghế của nàng làm bằng ngọc bích, cao sang, di chuyển với tốc độ của tâm theo như ước muốn. Hỡi cô nàng đã được trang điểm, có mang vòng hoa, có y phục xinh đẹp, nàng chói sáng tựa như tia chớp ở trên đỉnh đám mây 
  2. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?  
  3. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  
  4. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  
  5. “Đây là quả báo của việc làm ít ỏi của tôi, do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy. Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, … 
  6. … tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động. Được tịnh tín, tôi đã tự tay dâng chiếc ghế đến vị ấy.  
  7. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.  
  8. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung Chiếc Ghế thứ tư.  

1. 5

  1. “Con voi của nàng là vật cỡi cao quý, có sự trang hoàng với nhiều loại châu báu, khả ái, mạnh mẽ, có sự nhanh nhẹn, di chuyển an toàn ở không trung.  
  2. Hỡi nàng có mắt hình lá sen, (con voi của nàng) có màu sắc tựa như hoa sen,[1] có sự rực rỡ với màu sen hồng và sen xanh, có thân hình được rải rắc với nhụy phấn của hoa sen, có đeo tràng hoa sen bằng vàng.  
  3. Con voi đi một cách đều đều, ổn định, êm đềm, không gây xóc ở con đường được rải đầy hoa sen, được tô điểm với những lá sen.  
  4. Trong lúc con voi đang tiến bước, những chiếc chuông vàng (phát lên) âm thanh êm dịu. Tiếng ngân vang của chúng được nghe giống như từ năm loại nhạc cụ.  
  5. Ở trên thân của con voi ấy, nàng với xiêm y tinh khiết, đã được trang điểm, sáng chói vượt trội đoàn tiên nữ đông đảo về phương diện sắc đẹp.  
  6. Quả báo này của nàng là do sự bố thí, hay là do giới hạnh, hoặc của hành động chắp tay? Được hỏi, xin nàng hãy giải thích điều ấy cho ta.”  
  7. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  
  8. “Sau khi nhìn thấy vị thành tựu các đức hạnh, chứng thiền, thích thú về thiền, tốt lành, tôi đã dâng chỗ ngồi được phủ lên lớp vải, được rải rắc các bông hoa.  
  9. Được tịnh tín, tôi đã tự tay rắc lên ở xung quanh chỗ ngồi với những cánh hoa sen của một nửa bông hoa sen hồng.  
  10. Quả báo này như vầy của tôi là do nghiệp thiện ấy. Tôi có được sự tôn vinh, có được sự kính trọng, và được sùng bái bởi chư Thiên.  
  11. Nếu người nào tịnh tín dâng cúng chỗ ngồi đến các vị hành Phạm hạnh, thanh tịnh, đã được chân chánh giải thoát, sẽ được vui sướng như thế giống như tôi vậy.  
  12. Chính vì điều đó, những người mong mỏi lợi ích, ao ước quả báo lớn lao thì nên dâng cúng chỗ ngồi đến những vị đang mang thân mạng cuối cùng.”

Thiên Cung Voi. 

1. 6

  1. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, sau khi bước lên chiếc thuyền có mái bằng vàng. Nàng lội xuống hồ nước hái hoa sen bằng bàn tay.  
  2. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?  
  3. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  
  4. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào: 
  5. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, sau khi nhìn thấy các vị tỳ khưu bị thiếu nước, bị mệt nhọc, tôi đã đứng lên và đã dâng nước để uống.  
  6. Quả vậy, người nào đứng lên và dâng nước để uống đến những người bị mệt nhọc, bị khát nước, người ấy có được những dòng sông có nước mát, lắm bông hoa, và nhiều sen trắng.  
  7. Những dòng nước luôn luôn chảy xung quanh người ấy, những con sông có nước mát, được trải lót bằng cát. Có những cây xoài, cây sālā, cây tilakā, cây mận đỏ, cây bã đậu, và cây loa kèn nở rộ hoa.  
  8. Thiên cung hạng nhất ấy, có vẻ đẹp được ban cho với những vùng đất (như thế ấy), đang chiếu sáng rực rỡ. Ở đây, quả thành tựu này là của nghiệp ấy. Những người có phước báu đã làm đạt được như thế này.  
  9. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.  
  10. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung Chiếc Thuyền thứ nhất.  

1. 7

  1. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, sau khi bước lên chiếc thuyền có mái bằng vàng. Nàng lội xuống hồ nước hái hoa sen bằng bàn tay.  
  2. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?  
  3. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  
  4. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào: 
  5. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu bị thiếu nước, bị mệt nhọc, tôi đã đứng lên và đã dâng nước để uống.  
  6. Quả vậy, người nào đứng lên và dâng nước để uống đến người bị mệt nhọc bị khát nước, người ấy có được con sông có nước mát, lắm bông hoa, và nhiều sen trắng.  
  7. Những dòng nước luôn luôn chảy xung quanh người ấy, những con sông có nước mát, được trải lót bằng cát. Có những cây xoài, cây sālā, cây tilakā, cây mận đỏ, cây bã đậu, và cây loa kèn nở rộ hoa. 
  8. Thiên cung hạng nhất ấy, có vẻ đẹp được ban cho với những vùng đất (như thế ấy), đang chiếu sáng rực rỡ. Ở đây, quả thành tựu này là của nghiệp ấy. Những người có phước báu đã làm đạt được như thế này.  
  9. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.  
  10. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung Chiếc Thuyền thứ nhì.  

1. 8

  1. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, sau khi bước lên chiếc thuyền có mái bằng vàng. Nàng lội xuống hồ nước hái hoa sen bằng bàn tay.  
  2. Những ngôi nhà mái nhọn, các chỗ ngụ của nàng, được phân chia thành từng phần cân xứng. Trong lúc tỏa sáng rực rỡ, chúng chiếu sáng bốn phương ở xung quanh.  
  3. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?  
  4. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, Ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  
  5. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được chính đấng Toàn Giác hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  
  6. “Con, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, sau khi nhìn thấy các vị tỳ khưu bị thiếu nước, bị mệt nhọc, con đã đứng lên và đã dâng nước để uống.  
  7. Quả vậy, người nào đứng lên và dâng nước để uống đến những người bị mệt nhọc bị khát nước, người ấy có được con sông có nước mát, lắm bông hoa, và nhiều sen trắng.
  8. Những dòng nước luôn luôn chảy xung quanh người ấy, những con sông có nước mát, được trải lót bằng cát. Có những cây xoài, cây sālā, cây tilakā, cây mận đỏ, cây bã đậu, và cây loa kèn nở rộ hoa. 
  9. Thiên cung hạng nhất ấy, đang chiếu sáng rực rỡ, có được vẻ đẹp nhờ vào những khu vực của vùng đất. Ở đây, quả thành tựu này là của nghiệp ấy. Những người có phước báu đã tạo (trước đây) đạt được như thế này.  
  10. Những ngôi nhà mái nhọn, các chỗ ngụ của con, được phân chia thành từng phần cân xứng. Trong lúc tỏa sáng rực rỡ, chúng chiếu sáng bốn phương ở xung quanh.  
  11. Do điều ấy, con có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho con ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho con.  
  12. Do điều ấy mà con có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của con chiếu sáng khắp các phương. Quả báo này của con là của nghiệp ấy. Đức Phật đã uống nước vì sự lợi ích (của con).”

Thiên Cung Chiếc Thuyền thứ ba.  

1. 9

  1. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.  
  2. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?  
  3. Hỡi nàng tiên, do điều gì mà nàng có hào quang không bị vẩn đục sáng chói vượt trội? Do điều gì mà khắp các phương đều chói sáng nhờ vào tất cả các phần thân thể của nàng?  
  4. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  
  5. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào: 
  6. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, vào đêm tối đen mù mịt ấy, tôi đã bố thí cây đèn vào thời điểm cần đến đèn.  
  7. Người nào, vào đêm tối đen mù mịt, bố thí cây đèn vào thời điểm cần đến đèn thì được sanh lên cung Trời (nơi) có viên ngọc như ý, có lắm bông hoa, có nhiều sen trắng.  
  8. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.  
  9. Do điều ấy, tôi là vị Thiên nhân có hào quang không bị vẩn đục sáng chói vượt trội. Do điều ấy mà khắp các phương đều chói sáng nhờ vào tất cả các phần thân thể của tôi.  
  10. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung Cây Đèn. 

1. 10

  1. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.  
  2. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?  
  3. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  
  4. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  
  5. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người.Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động.  
  6. Sau khi đi đến gần, được tịnh tín, tôi đã tự tay dâng cúng vật thí, với hạt mè là vật cúng dường, không có dự tính trước, đến đức Phật, bậc xứng đáng cúng dường.  
  7. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.  
  8. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung của sự Cúng Dường Hạt Mè.  

1. 11

  1. “Những chim cò, chim công, chim thiên nga, và những con chim cu có giọng hót dễ thương thuộc cõi Trời bay quanh quẩn ở cung điện đáng yêu này, nơi được rải rắc bông hoa, được tô điểm nhiều màu sắc, được lai vãng bởi nhiều tiên nam tiên nữ.  
  2. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, nàng ngụ ở nơi ấy, đang biến hóa thần thông thành ra nhiều dáng vóc. Và nàng có các tiên nữ này nhảy múa, ca hát, làm trò tiêu khiển ở xung quanh.  
  3. Hỡi cô nàng có đại oai lực, nàng đã đạt được thần thông của chư Thiên. Khi là con người nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?”  
  4. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  
  5. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã là người vợ chung thủy, không tơ tưởng người khác. Giống như người mẹ đang bảo vệ đứa con trai, mặc dầu giận dữ tôi cũng đã không nói lời thô lỗ.  
  6. Vững trú ở sự chân thật, từ bỏ lời dối trá, ưa thích việc bố thí, có bản tính nhân hậu, có tâm tịnh tín, tôi đã trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống. 
  7. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.  
  8. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung của Người Vợ Chung Thủy. 

1. 12

  1. “Hỡi nàng tiên có đại oai lực, sau khi bước lên cung điện có cây cột bằng ngọc bích, đáng yêu, rực rỡ, được tô điểm nhiều màu sắc, nàng ngụ ở nơi ấy, đang biến hóa thần thông cao thấp đa dạng. Và nàng có các tiên nữ này nhảy múa, ca hát, làm trò tiêu khiển ở xung quanh.  
  2. Hỡi nàng có đại oai lực, nàng đã đạt được thần thông của chư Thiên. Khi là con người nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?”  
  3. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  
  4. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, tôi đã là nữ cư sĩ của đấng Hữu Nhãn. Tôi đã kiêng chừa việc giết hại mạng sống, tôi đã xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời.  
  5. Không có việc uống chất say, và tôi đã không nói lời dối trá, tôi đã được vui thích chỉ với người chồng của mình. Có tâm tịnh tín, tôi đã trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.  
  6. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.  
  7. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung của Người Vợ Chung Thủy thứ nhì

1. 13

  1. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.  
  2. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?  
  3. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  
  4. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  
  5. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã là người con dâu ở trong nhà của cha chồng. Tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động.  
  6. Được tịnh tín, tôi đã tự tay dâng bánh bột đến vị ấy. Sau khi dâng cúng một nửa phần chia (đã nhận được), tôi vui hưởng ở khu vườn Nandana (thuộc cõi Trời).  
  7. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.  
  8. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung của Người Con Dâu.  

1. 14

  1. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.  
  2. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?  
  3. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  
  4. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào: 
  5. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã là người con dâu ở trong nhà của cha chồng. Tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động.  
  6. Được tịnh tín, tôi đã tự tay dâng phần chia (đã nhận được) đến vị ấy. Sau khi dâng cúng miếng bánh kem, tôi vui hưởng ở khu vườn Nandana (thuộc cõi Trời).  
  7. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.  
  8. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung của Người Con Dâu thứ nhì. 

1. 15

  1. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.  
  2. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?  
  3. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  
  4. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  
  5. “Tôi không có ganh tỵ, bỏn xẻn, hằn học trong khi sống ở gia đình, không có giận dữ, có sự tuân theo lệnh của chồng, tôi luôn luôn không xao lãng trong ngày trai giới.  
  6. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng là có sự thọ trì tốt đẹp về tám giới.  
  7. Tôi đã hành trì ngày trai giới, luôn luôn thu thúc trong các giới. Tôi cư ngụ ở tòa lâu đài, có sự tự kiềm chế, có sự san sẻ.  
  8. Tôi kiêng chừa việc giết hại mạng sống, và thu thúc về việc nói dối, việc trộm cắp, việc tà hạnh, và xa lánh việc uống chất say.  
  9. Tôi được vui thích ở năm điều học, là người thông hiểu các Chân Lý Cao Thượng, là nữ cư sĩ của đấng Hữu Nhãn Gotama có danh tiếng.  
  10. Tôi đây có sự nổi tiếng nhờ vào giới hạnh và danh tiếng của mình. Và tôi đã thành tựu phước báu của mình, được an vui, không tật bệnh.  
  11. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.  
  12. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.  

Và thưa ngài, xin ngài đê đầu đảnh lễ ở bàn chân của đức Thế Tôn với lời nói của tôi rằng: ‘Bạch ngài, nữ cư sĩ tên Uttarā xin đê đầu đảnh lễ ở bàn chân của đức Thế Tôn.’ Thưa ngài điều này quả không kỳ lạ là việc đức Thế Tôn tuyên bố về tôi ở vào quả vị Sa-môn nào đó.” Đức Thế Tôn đã tuyên bố nàng ấy là ở quả vị Bất Lai.

Thiên Cung của Uttarā. 

1. 16

  1. “Những con ngựa của nàng đã được thắng vào, đã được trang hoàng tuyệt vời, có khuôn mặt hướng xuống dưới, di chuyển ở không trung, có sức mạnh, có tốc lực, và năm trăm cỗ xe đã được nàng hóa hiện ra. Những con ngựa, được đốc thúc bởi những người đánh xe, theo sau nàng.[2]  
  2. Nàng, đã được điểm trang, đứng ở chiếc xe cao quý, đang chói sáng như vì sao, đang rực cháy như ngọn lửa. Hỡi cô nàng có thân hình cao quý, có dáng vóc tuyệt vời, ta hỏi nàng, từ tập thể nào nàng đã đi đến với đấng Cao Quý Nổi Bật?”  
  3. “Người ta đã nói loại chư Thiên vui thích trong việc biến hóa thế này thế nọ là hạng cao nhất trong số chư Thiên đã đạt được tột đỉnh về dục lạc. Từ tập thể ấy, là tiên nữ có được dáng vóc theo như ý muốn, tôi đã đi đến nơi đây để lễ bái đấng Cao Quý Nổi Bật.”  
  4. “Trước đây, nàng đã hành thiện hạnh gì ở nơi này? Do điều gì nàng có danh tiếng vô lượng, được nuôi dưỡng trong hạnh phúc, và thần thông của nàng là cao quý nổi bật, có sự di chuyển ở không trung, và màu da của nàng chói sáng mười phương?  
  5. Nàng được chư Thiên vây quanh và tôn trọng. Hỡi nàng tiên, từ nơi đâu nàng đã chết đi, rồi đã đi đến chốn an vui? Hay là nàng đã thực hành theo lời chỉ dạy của vị nào? Nếu nàng đã là đệ tử của đức Phật, xin nàng hãy nói rõ cho ta.”  
  6. “Ở thành phố cao quý khéo được xây dựng nơi thung lũng, tôi đã là người thị tỳ của vị vua cao quý có sự vinh quang. Tôi đã khéo được học tập đến tột đỉnh về múa, về hát. Ở Rājagaha người ta đã biết đến tôi là Sirimā. 
  7. Và đức Phật, vị chúa của các ẩn sĩ, bậc Hướng Đạo đã thuyết giảng cho tôi về Tập Đế, về Khổ Đế, về tính chất vô thường, về sự không tạo tác, về sự Diệt Tận của Khổ, về tính chất trường cửu, và về Đạo Lộ không cong quẹo, thẳng tắp, tốt lành này.  
  8. Sau khi lắng nghe về Đạo Lộ Bất Tử, về sự không tạo tác, về Giáo Pháp cao quý nổi bật của đức Như Lai, tôi đã tuyệt đối khéo léo thu thúc trong các giới, được vững vàng trong Giáo Pháp đã được thuyết giảng bởi đức Phật cao quý của loài người.  
  9. Sau khi tôi biết được vị thế Vô Nhiễm, không tạo tác, đã được thuyết giảng bởi đức Như Lai, đấng Cao Quý tối thượng, ngay vào thời điểm ấy tôi đã chạm đến tầng định của thiền chỉ tịnh. Chính tôi đây đã có được bản thể vững bền tối thượng.  
  10. Sau khi đạt được sự Bất Tử cao quý đặc biệt, sau khi đã xác định về sự lãnh hội, tôi đã chắc chắn, không còn hoài nghi, được nhiều người tôn vinh. Tôi thọ hưởng sự vui thích khoái lạc không phải là ít.  
  11. Như vậy, tôi là vị Thiên nhân thấy được Bất Tử, là nữ Thinh Văn của đức Như Lai, đấng Cao Quý Nổi Bật. Tôi đã thấy được Pháp, đã được thiết lập ở quả vị thứ nhất, là vị Nhập Lưu, và hơn nữa không còn khổ cảnh đối với tôi.  
  12. Với sự tôn kính đối với đấng Pháp Vương vinh quang, tôi đây đã đi đến để đảnh lễ đấng Cao Quý Tối Thượng và để lễ bái các vị tỳ khưu, những vị vui thích thiện pháp, tạo nên niềm tin, tập hợp tốt lành của các Sa-môn.  
  13. Sau khi nhìn thấy bậc Hiền Trí, đức Như Lai, đấng Điều Ngự Trượng Phu cao quý, vị cắt đứt tham ái, bậc vui thích thiện pháp, đấng Hướng Đạo, tôi được hài lòng, có tâm ý hoan hỷ. Tôi đảnh lễ bậc có lòng thương tưởng đến điều lợi ích tối thượng (cho tất cả chúng sanh).”

Thiên Cung của Sirimā.  

1. 17

  1. “Thiên cung này đáng yêu, rực rỡ, có cây cột bằng ngọc bích, được trường tồn, khéo được hóa hiện ra, được che xung quanh với những cây cối bằng vàng, là trú xứ của ta, có nguồn gốc là quả thành tựu của nghiệp.  
  2. Những tiên nữ đến trước này, những Thiên nhân tiền bối, đã được sanh lên ở đây có hàng trăm ngàn. Nhờ vào nghiệp của mình, nàng đã đạt đến. Có được danh tiếng, nàng đứng, trong khi đang chói sáng.  
  3. Giống như mặt trăng chói sáng, vượt trội quần thể các tinh tú, tựa như vị vua của các vì sao, tương tự y như thế trong lúc tỏa sáng rực rỡ tập thể tiên nữ này, nàng chói sáng nhờ vào danh tiếng.  
  4. Hỡi cô nàng có dáng vóc tuyệt vời, từ nơi đâu nàng đã đi đến, rồi được sanh lên ở cung điện này của ta? Như thể ngắm nhìn đấng Tạo Hóa, tất cả Chư Thiên cõi Trời Ba Mươi (Ba) có cả Thần Inda không mệt nhọc với việc ngắm nhìn nàng.”  
  5. “Thưa (Thiên Chủ) Sakka, ngài ân cần hỏi tôi điều này: ‘Từ nơi đâu nàng đã chết đi, rồi đã đi đến nơi đây?’ – Có thành phố của xứ Kāsī tên là Bārāṇasī, tại nơi ấy, trước đây tôi đã là Kesakārikā.  
  6. Có tâm tịnh tín đối với Đức Phật, Giáo Pháp, và Hội Chúng, tôi đã đi đến sự dứt khoát, không còn hoài nghi, có các điều học không sứt mẻ, đã đạt đến Quả vị, đã được vững chắc ở trong Giáo Pháp của đấng Toàn Giác, và không bệnh tật.”  
  7. “Hỡi nàng tiên có tâm tịnh tín đối với Đức Phật, Giáo Pháp, và Hội Chúng, đã đi đến sự dứt khoát, không còn hoài nghi, có các điều học không sứt mẻ, đã đạt đến Quả vị, đã được vững chắc ở trong Giáo Pháp của đấng Toàn Giác, và không bệnh tật, chúng tôi vui mừng về việc đi đến tốt đẹp ấy của nàng. Và thông qua Giáo Pháp, nàng chói sáng nhờ vào danh tiếng.”  

Thiên Cung của Kesakārī.  

Phẩm Chiếc Ghế là thứ nhất

***** 

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY  

Năm (chuyện) chiếc ghế, ba (chuyện) chiếc thuyền, hai (chuyện) cây đèn và vật cúng dường hạt mè, hai người vợ, hai con dâu, (chuyện) Uttarā, Sirimā, và Kesakārikā; bởi vậy phẩm được gọi tên thế ấy.  

–ooOoo–

 

[1] Con voi ấy có màu như hoa sen nên được gọi là padumī (VvA, 35).

[2] Ở câu chuyện này, trưởng lão Vaṅgīsa hỏi và vị tiên nữ Sirimā trả lời (Sđd. 78).

[3] Hai câu kệ 183, 184 là lời của Chúa Trời Sakka nói với trưởng lão Mahākassapa (Sđd. 101).

[4] Hai câu kệ 193, 194 là lời của ngài Mahāmoggallāna nói với bà lão dòng hạ tiện (Sđd. 105).

[5] Ba câu kệ 204-206 là lời của đức Phật hỏi vị tiên nữ (Sđd. 110).

[6] 1 koṭi = 10.000.000 (10 triệu).

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Chuyện Thiên Cung“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Chuyện Ngạ Quỷ ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *