XIỂN MINH PHẦN BỐN CHI (CATUKKANIDDESO)

[104] – Thế nào là hạng người phi hiền sĩ (asappuriso)?

Ở đây có hạng ngưòi sát sanh, lấy của chia cho tà hạnh trong dục lạc, nói dối, sống dễ duôi say rượu ngâm rượu cất. Ðây gọi là hạng người phi hiền sĩ.

– Thế nào là hạng người phi hiền sĩ quá phi hiền sĩ (asappurisena asappuri-sataro)?

Ở đây có hạng người tự mình sát sanh và xúi dục người khác sát sanh; tự mình trôm cắp và xúi dục người khác trôm cắp, tự mình tà dâm và xúi dục người khác tà dâm, tự mình nói dối và xúi dục người khác nói dối, tự mình dễ duôi say rượu chè và xúi dục người khác dễ duôi say rượu chè. Ðây gọi là hạng người phi hiền sĩ quá phi hiền sĩ.

– Thế nào là hạng người hiền sĩ (sappuriso)?

Ở đây có hạng người kiêng sát sanh, kiêng trộm cắp, kiêng tà dâm, kiêng nói dối, kiêng dễ duôi say sưa rượu chè. Ðây gọi là hạng người hiền sĩ.

– Thế nào là hạng người hiền sĩ quá hiền sĩ (sappurisena sappurisataro)?

Ở đây có hạng người tự kiêng sát sanh và khuyên kẻ khác kiêng sát sanh, tự kiêng trộm cắp và khuyên kẻ khác kiêng trộm cắp, tự kiêng tà dâm và khuyên kẻ khác kiêng tà dâm, tự kiêng nói dối và kiêng kẻ khác kiêng nói dối, tự kiêng dễ duôi say rượu chè và kiêng kẻ khác kiêng dễ duôi say rượu chè. Ðây gọi là hạng hiền sĩ quá hiền sĩ.

[105] – Thế nào là hạng ác nhơn (puggalo pāpo)?

Ở đây có hạng người sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối nói đâm thọc, nói độc ác, nói chuyện nhảm, tham lam (abhijjhācu), sân độc tâm (byāpanacitto), tà kiến.

Ðây gọi là hạng ác nhơn.

– Thế nào là hạng ác nhơn quá ác nhơn (puggalo pāpena pāpataro)?

Ở đây có hạng người tự mình sát sanh và xúi giục kẻ khác sát sanh, tự mình trộm cắp và xúi giục kẻ khác trộm cắp, tự mình tà dâm và xúi giục kẻ khác tà dâm, tự mình nói dối và xúi giục kẻ khác nói dối tự mình nói đâm thọc và xúi dục kẻ khác nói đâm thọc tự mình nói độc ác và xúi giục kẻ khác nói độc ác tự mình nói chuyện nhảm và xúi giục kẻ khác nói chuyện nhảm, tự mình tham lam và xúi giục kẻ khác tham lam tự mình sân độc tâm và xúi giục kẻ khác sân độc tâm, tự mình tà kiến và xúi giục kẻ khác tà kiến. Ðây gọi là hạng người ác nhơn quá ác nhơn.

– Thế nào là hạng người thiện nhơn (puggalo kalyāṇo)?

Ở đây có hạng người kiêng sát sanh, kiêng trộm cắp, kiêng tà dâm, kiêng nói dối, kiêng nói đâm thọc, kiêng nói độc ác, kiêng nói chuyện nhảm, không tham lam, không sân độc tâm, chánh kiến. Ðây gọi là hạng người thiện nhơn.

Ở đây có hạng người tự kiêng sát sanh và khuyên kẻ khác không sát sanh, tự kiêng trộm cắp và khuyên kẻ khác kiêng trộm cắp, tự kiêng tà dâm và khuyên kẻ khác kiêng tà dâm, tự kiêng nói dối và khuyên kẻ khác quyên nói dối, tự kiêng nói đâm thọc và khuyên kẻ khác kiêng nói đâm thọc, tự kiêng nói độc ác và khuyên kẻ khác nói độc ác, tự kiêng nói chuyện nhảm và khuyên kẻ khác kiêng nói chuyện nhảm, tự mình không tham lam và khuyên kẻ khác kẻ khác không tham lam, tự mình không sân độc tâm và khuyên kẻ khác không sân độc tâm, tự mình chánh kiến và khuyên kẻ khác chánh kiến. Ðây gọi là hạng người thiệt nhơn quá thiệt nhơn.

[106] – Thế nào là hạng người ác tánh (pāpadhammo)?

Ở đây có hạng người sát sanh, trộm cắp… (trùng)… tà kiến. Ðây gọi là hạng người ác tánh.

– Thế nào là hạng người ác tánh quá ác tánh (pāpadhammena pāpadhamma-taro)?

Ở đây có hạng người tự mình sát sanh và xúi giục kẻ khác sát sanh, tự mình trộm cắp và xúi giục kẻ khác trộm cắp… (trùng)… tự mình tà kiến và xúi giục kẻ khác tà kiến. Ðây gọi là hạng người ác tánh quá ác tánh.

– Thế nào là hạng người thiện tánh (kalyāṇadhammo)?

Ở đây có hạng người kiêng sát sanh, kiêng trộm cắp… (trùng)… có chánh kiến. Ðây gọi là hạng người thiện tánh.

– Thế nào là hạng người thiện tánh quá thiện tánh (kalyāṇadhammena kalyāṇadhammataro)?

Ở đây có hạng người tự kiêng sát sanh và khuyên kẻ khác kiêng sát sanh, tự kiêng trộm cắp và khuyên kẻ khác kiêng trộm cắp… (trùng)… tự mình chánh kiến và khuyên kẻ khác chánh kiến. Ðây gọi là hạng người thiện tánh quá thiện tánh.

[107] – Thế nào là hạng người có tội lỗi (sāvajjo)?

Ở đây có hạng người thành tựu thân nghiệp tội lỗi, thành tựu khẩu nghiệp tội lỗi, thành tựu ý nghiệp tội lỗi. Ðây gọi là hạng người tội lỗi.

– Thế nào là hạng người nhiều tội lỗi (vajjabahulo)?

Ở đây có hạng người thành tựu nhiều thân nghiệp tội lỗi ít khi vô tội; thành tựu phần nhiều khẩu nghiệp tội lỗi, ít khi vô tội; tành tựu phần nhiều ý nghiệp tội lỗi, ít khi vô tội. Ðây gọi là hạng người nhiều tội lỗi.

– Thế nào là hạng người ít tội lỗi (appasāvajjo)?

Ở đây có hạng người thành tựu phần nhiều thân nghiệp vô tội, ít khi có tội; thành tựu phần nhiều khẩu nghiệp vô tội, ít khi có tội; thành tựu phần nhiều ý nghiệp vô tội, ít khi có tội. Ðây gọi là hạng người ít tội lỗi.

– Thế nào là hạng người không tội lỗi (anavajjo)?

Ở đây có người thành tựu thân nghiệp vô tội, thành tựu khẩu nghiệp vô tội, tành tựu ý nghiệp vô tội. Ðây gọi là hạng người không tội lỗi.

[108] – Thế nào là hạng người khai thị tri (ugghaṭitaññū)?

Ðối với hạng người nào tỏ ngộ pháp vừa khi mới mở đề. Ðây gọi là hạng người khai thị tri.

– Thế nào là hạng người quảng điển tri (vipañcitaññū)?

Ðối với hạng người nào tỏ ngộ pháp (Pug. A. giải thích: dhamābhisamayo hotīti arahattappatti hoti, tỏ ngộ pháp tức là đắc A-la-hán) khi ý nghĩa của lời lược thuyết được phân tích rộng ra. Ðây gọi là hạng người quảng diễn tri.

– Thế nào là hạng người ứng dẫn (neyyo)?

Ðối với hạng người nào tỏ ngộ pháp do cách tuần tự tiến như nhờ thuyết giáo, rồi nhờ cần vấn, nhờ khéo tác ý, nhờ giao du giao thiệp thân cận bạn lành. Ðây gọi là hạng người ứng dẫn.

– Thế nào là hạng người văn cú tối vi (padaparamo)?

Ðối với hạng người nào chỉ có nghe nhiều, đọc tụng nhiều, nhớ cũng nhiều, thuyết dạy cũng nhiều mà không tỏ ngộ pháp trong kiếp sống này. Ðây gọi là hạng người văn cú tối vi (Pug. A. giải thích: vyañjanapadaṃ eva paraman assā ti padaparamo, là người chỉ giỏi về văn chương cú pháp).

[109] – Thế nào là hạng người tương ứng biện vô tự tại biện (yuttapatibhāno no muttapaṭibhāno)?

Ở đây có hạng người khi được hỏi một vấn đề (pañhaṃ) thì đáp đúng (yuttaṃ) mà không nhanh. Ðây gọi là hạng người tương ứng biện vô tự tại biện.

– Thế nào là hạng người tự tại biện bất tương ứng biện (muttapaṭibhāṇo no yuttapaṭibhāṇo)?

Ở đây có hạng người khi được hỏi một vấn đề thì đáp nhanh nhưng không đúng. Ðây gọi là hạng người tự tại biện bất tương ứng biện.

– Thế nào là hạng người tương ứng biện tự tại (yuttapatibhāno muttapatibhāno)?

Ở đây có hạng người khi được hỏi một vấn đề thì đáp đúng và nhanh. Ðây gọi là hạng người tương ứng biện tự tại biện.

– Thế nào là hạng người bất tương ứng biện vô tự tại biện (neva yuttapaṭibhāṭo no muttapaṭibhāṭo)?

Ở đây có hạng người khi được hỏi một vấn đề thì đáp không đúng cũng không nhanh. Ðây gọi là hạng người bất tương ứng biện vô tự tại biện.

[110] – Trong ấy, thế nào là bổn chủng nhân pháp sư (dhammkathikā puggalā)?

Ở đây có hạng pháp sư thuyết ít lại không hữu lý (asahitam) và hội chúng không khéo nhận sự hữu lý, và không hữu lý, hạng pháp sư như vậy không được kể là hạng pháp sư với hội chứng thích hợp.

Lại nữa ở đây có hạng pháp sư thuyết ít nhưng hữu lý, và hội chứng khéo nhân sự hữu lý và không hữu lý; hạng pháp sư như vậy được kể là hạng pháp sư với hội chứng thích hợp.

Lại nữa ở đây có hạng pháp sư thuyết nhiều mà không hữu lý, và hội chứng khéo nhân sự hữu lý và không hữu lý; hạng pháp sư như vậy được tạm kể là hạng pháp sư với hội chứng thích hợp.

Lại nữa ở đây có hạng pháp sư thuyết nhiều và hữu lý, hội chứng khéo nhân sự hữu lý và không hữu lý; hạng pháp sư như vậy đáng được kể là hạng pháp sư với hội chứng thích hợp.

Ðây là bốn chủng nhân pháp sư.

Trong ấy, thế nào là bốn hạng người dụ như chuyển mưa (vahālakūpamā-puggalā)?

[111] – Có bốn cảnh chuyển mưa (valāhakā ):

Sấm mà không mưa, mưa mà không sấm, có sấm có mưa, không sấm cũng không mưa.

[112] – Cũng vậy, có bốn hạng người nầy dụ như chuyển mưa, xuất hiện trong đời. Thế nào là bốn hạng?

Hạng sấm không mưa, hạng mưa không sấm, hạng vừa sấm vừa mưa, hạng không sấm không mưa.

– Hạng người sấm không mưa là sao?

Ở đây có hạng người nói mà không làm, hạng người như vậy là sấm không mưa; cũng ví như chuyển mưa, sấm mà không mưa, hạng người này thí dụ như thế.

– Hạng người mưa không sấm là sao?

Chuyển mưa, mưa mà không sấm, hạng người này thí dụ như thế.

– Hạng người vừa sấm vừa mưa là sao?

Ở đây có hạng người nói và làm, hạng người như vậy là vừa sấm vừa mua; cũng ví như chuyển mưa có sấm có mưa, hạng người này thí dụ như thế.

– Hạng người không sấm không mưa là sao?

Ở đây có hạng người không nói cũng không làm, hạng người như vậy là không sấm không mưa; cũng ví như chuyển mưa, mà không sấm cũng không mưa, hạng người này thí dụ như thế.

Ðây là bốn hạng người dụ như chuyển mưa, có mặt xuất hiện trong đời.

Trong ấy thế nào là bốn hạng người dụ như chuột (mūsikupamaà puggalā)?

[113] – Có bốn loại chuột; loại làm hang mà không ở, loại ở mà không làm hang, loại làm hang và ở, loại không làm hang cũng không ở.

[114] – Cũng vậy, có bốn hạng người này dụ như chuột xuất hiện trong đời. Thế nào là bốn hạng?

Hạng làm hang không ở, hạng ở không làm hang, hạng làm hang và ở, hạng không làm hang cũng không ở.

– Hạng người làm hang không ở là sao?

Ở đây có hạng người học được giáo pháp khế kinh, ứng tụng, ký thuyết, kệ ngôn, cảm ngữ, như thị thuyết. Bổn sanh, vị tăng hữu, phương quảng; người ấy không hiểu như thật “đây là khổ”, không hiểu như thật “đây là khổ tập”, không hiểu như thật “đây là khổ diệt”, không hiểu như thật “đây là khổ diệt hành lộ” như vậy gọi là hạng người làm hang không ở; cũng ví như loài chuột nọ làm hang mà không ở, hạng người này thí dụ như thế.

– Hạng người ở không làm hang là sao?

Ở đây có hạng người không học được giáo pháp khế kinh, ứng tụng, ký thuyết, kệ ngôn, cảm ngữ, như thị thuyết, Bổn sanh, vị tằng hữu, phương quảng; những người ấy hiểu như thật “đây là khổ”, hiểu như thật “đây là khổ tập”, hiểu như thật “đây là khổ diệt”, hiểu như thật “đây là khổ diệt hành lộ”, như vậy gọi là hạng người ở không làm hang; cũng ví như loài chuột nọ ở mà không làm hang, hạng người này thí dụ như thế.

– Hạng người làm hang và ở là sao?

Ở đây có hạng người học được giáo pháp khế kinh, ứng tụng, ký thuyết, kệ ngôn, cảm ngữ, như thị thuyết, Bổn sanh, vị tằng hữu, phương quảng; những người ấy cũng hiểu như thật “đây là khổ”, hiểu như thật “đây là khổ tập”, hiểu như thật “đây là khổ diệt”, hiểu như thật “đây là khổ diệt hành lộ”, như vậy gọi là hạng người làm hang và ở; cũng ví như loài chuột nọ làm hang vả ở, hạng người này thí dụ như thế.

– Hạng người không làm hang cũng không ở là sao?

Ở đây có hạng người không học được giáo pháp khế kinh, ứng tụng, ký thuyết, kệ ngôn, cảm ngữ, như thị thuyết, Bổn sanh, vị tằng hữu, phương quảng; người ấy không hiểu như thật “đây là khổ”, không hiểu như thật “đây là khổ tập”, không hiểu như thật “đây là khổ diệt”, không hiểu như thật “đây là khổ diệt hành lộ”, như vậy gọi là hạng người không làm hang cũng không ở; cũng ví như loài chuột nọ không làm hang cũng không ở, hạng người này thí dụ như thế.

Ðây là bốn hạng người dụ như chuột, có mặt xuất hiện trong đời.

Trong ấy thế nào là bốn hạng người dụ như trái xoài (ambūpamāpuggalā)?

[115] – Có bốn loại trái xoài: xoài sống (āmo) có màu chín, (pakkavaṇṇi) xoài chín (pakko) có màu sống (āmavaṇṇī) xoài sống có màu sống, xoài chín có màu chín.

[116] – Cũng vậy, có bốn hạng người này dụ như trái xoài xuất hiện trong đời. Thế nào là bốn hạng?

Hạng sống có màu chín, hạng chín có màu sống, hạng sống có màu sống, hạng chín có màu chín.

– Hạng người sống có màu chín là sao?

Ở đây đối với hạng người cách bước tới, bước lui, nhìn tới, nhìn lui, tay chân co duỗi, mang y- bát-tăng già lê, thấy khả kính (pāsādikaṃ), nhưng người ấy không hiểu như thật “đây là khổ”, không hiểu như thật “đây là khổ tập”, không hiểu như thật “đây là khổ diệt” không hiểu như thật “đây là khổ diệt khổ hành lộ”, như vậy là hạng người sống có màu chín; cũng ví như trái xoài sống có màu chín, hạng người nầy thí dụ như thế.

– Hạng người chín có màu sống là sao?

Ở đây, đối với một hạng người cách bước tới, bước lui, nhìn tới, nhìn lui, tay chân co duỗi, mang y bát tăng-già-lê thấy không khả kính, nhưng người ấy hiểu như thật “đây là khổ”, hiểu như thật “đây là khổ tập” hiểu như thật “đây là khổ diệt” hiểu như thật “đây là khổ diệt hành lộ”, như vậy là hạng người chín có màu sống; cũng ví như trái xoài kia chín có màu sống, hạng người này thí dụ như thế.

– Hạng người sống có màu sống là sao?

Ở đây, đối với một hạng người cách bước tới, bước lui, nhìn tới, nhìn lui, tay chân co duỗi, mang y-bát-tăng già lê thấy không khả kính, người ấy cũng không hiểu như thật “đây là khổ”… (trùng)… không hiểu như thật “đây là khổ diệt hành lộ”, như vậy là hạng người sống có màu sống; cũng ví như trái xoài kia sống có màu sống, hạng người này thí dụ như thế.

– Hạng người chín có màu chín là sao?

Ở đây, đối với một hạng người cách bước tới, bước lui, nhìn tới, nhìn lui, tay chân co duỗi, mang y-bát-tăng già lê thấy khả kính, người ấy cũng hiểu như thật “đây là khổ”… (trùng)…… hiểu như thật “đây là khổ diệt hành lộ”, như vậy là hạng người chín có màu chín; cũng ví như trái xoài kia chín có màu chín, hạng người này thí dụ như thế.

Ðây là bốn hạng người dụ như trái xoài, có mặt xuất hiện trong đời.

Trong ấy thế nào là bốn hạng người dụ như cái nồi (kumbhūpamà)?

[117] – Có bốn cái nồi: nồi trống không (tuccho) được đậy kín (pihito), nồi chứa đầy (pūro) mà mở toang (vivato), nồi trống không lại mở toang, nồi chứa đầy lại đậy kín.

[118] – Cũng vậy có bốn hạng người này dụ như cái nồi, xuất hiện trong đời. Thế nào là bốn hạng?

Hạng rỗng đậy kín; hạng đầy mở toang; hạng rỗng mở toang; hạng đầy đậy kín.

– Hạng người rỗng đậy kín là sao?

Ở đây, đối với một hạng ngưới cách bước tới, bước lui, nhìn tới, nhìn lui, co duỗi, mang y-bát-tăng già lê thấy khả kính, nhưng người ấy không hiểu biết như thật “đây là khổ”… (trùng) … không hiểu biết như thật “đây là khổ diệt hành lộ”, như vậy là hạng người rỗng đậy kín; cũng như cái nồi kia trống rỗng mà đậy kín, hạng người này thí dụ như thế.

– Hạng người đầy mở toang là sao?

Ở đây, đối với một hạng người cách bước tới, bước lui, nhìn tới, nhìn lui, tay chân co duỗi, mang y-bát-tăng già lê thấy không khả kính, những người ấy hiểu biết như thật “đây là khổ”… (trùng)…… hiểu biết như thật “đây là khổ diệt hành lộ”, như vậy là hạng nngười đầy mở toang; cũng ví như cái nồi kia chứa đầy mở toang, hạng người này ví dụ như thế.

– Hạng người rỗng mở toang là sao?

Ở đây đối với hạng người cách bước tới, bước lui, nhìn tới, nhìn lui, tay chân co duỗi, mang y – bát – tăng già lê thấy không khả kính, người ấy cũng không hiểu biết như thật “đây là khổ”… (trùng)… không hiểu biết như thật “đây là khổ diệt hành lộ”, như vậy là hạng người rỗng mở toang; cũng ví như cái nồi kia trống không lại mở toang, hạng người này ví dụ như thế.

– Hạng người này đậy kín ra sao?

Ở đây đối với một hạng người cách bước tới, bước lui, nhìn tới, nhìn lui, chân tay co duỗi mang y – bát – tăng già lê thấy khả kính, người ấy lại hiểu biết như thật “đây là khổ” …(trùng)… hiểu như thật “đây là khổ diệt hành lộ”, như vậy là hạng người đầy đậy kín; cũng ví như cái nồi kia chứa đầy lại đậy kín, hạng người này thí dụ như thế.

Ðây là bốn hạng người dụ như cái nồi, có mặt xuất hiện trong đời.

Trong ấy thế nào là bốn hạng người dụ như hồ nước (udakarahadūpamā puggalā)?

[119] – Có bốn loại hồ nước là hồ cạn bóng sâu, hồ sâu bóng cạn, hồ cạn bóng cạn, hồ sâu bóng sâu.

[120] – Cũng vậy, có bốn hạng người nầy dụ như hồ nước, xuất hiện trong đời. Thế nào là bốn hạng?

Hạng cạn bóng sâu, hạng sâu bóng cạn, hạng cạn bóng cạn, hạng sâu bóng sâu.

– Hạng người cạn bóng sâu là sao?

ở đây, đối với một hạng người cách bước tới, bước lui, nhìn tới, nhìn lui, tay chân co duỗi, mang y-bát-tăng già lê thấy khả kính, nhưng người ấy không hiểu biết như thật “đây là khổ” … (trùng) …… không hiểu biết như thật “đây là khổ diệt hành lộ”, như vậy là hạng người cạn bóng sâu; cũng ví như cái hồ nước kia cạn mà có vẻ sâu, hạng người này thí dụ như thế.

– Hạng người sâu bóng cạn là sao?

Ở đây đối với một hạng người cách bước tới, bước lui, nhìn tới, nhìn lui, tay chận co duỗi, mang y-bát-tăng già lê thấy không khả kính, người ấy hiểu biết như thật “đây là khổ” … (trùng) …… hiểu biết như thật “đây là khổ diệt hành lộ”, như vậy là hạng người sâu bóng cạn; cũng ví như cái hồ nước kia sâu mà có vẻ cạn, hạng người này thí dụ như thế.

– Hạng người cạn bóng cạn là sao?

Ở đây, đối với một hạng người cách bước tới, bưóc lui, nhìn tới, nhìn lui, co, duỗi, mang y bát tăng già lê thấy không khả kính, người ấy cũng không hiểu biết như thật “đây là khổ”… (trùng) …… không hiểu biết như thật “đây là khổ diệt hành lộ”, như vậy là hạng người cạn bóng cạn; cũng ví như hồ nước kia cạn cũng có vẻ cạn, hạng người này thí dụ như thế.

– Hạng người sâu bóng sâu là sao?

Ở đây, đối với một hạng người cách bước tới, bước lui, nhìn tới, nhìn lui, co, duỗi, mang y-bát-tăng già lê thấy khả kính, người ấy cũng hiểu biết như thật “đây là khổ” … (trùng) …… hiểu biết như thật “đây là khổ diệt hành lộ”, như vậy là hạng người sâu bóng sâu; cũng ví như hồ nước kia sâu cũng có vẻ sâu, hạng người này thí dụ như thế.

Ðây là bốn hạng người dụ như hồ nước, có mặt xuất hiện trong đời.

Trong ấy thế nào là bốn hạng người dụ như bò (balibaddūpamā puggalā)?

[121] – Có bốn loại bò: loại hung dữ với đàn bò mình mà không hung dữ với đàn bò khác, loại hung dữ với đàn bò khác nhưng không hung dữ với đàn bò mình, loại hung dữ với đàn bò mình, cũng hung dữ với đàn bò khác, loại không hung dữ với đàn bò mình cũng không hung dữ với đàn bò khác.

[122] – Cũng vậy có bốn hạng người này dụ như bò, xuất hiện trong đời. Thế nào là bốn hạng?

Hạng hung dữ với đám mình không hung dữ với đám khác, hạng hung dữ với đám khác không hung dữ với đám mình, hạng hung dữ với đám mình hung dữ với đám khác, hạng không hung dữ với đám mình không hung dữ với đám khác.

– Hạng người hung dữ với đám mình, không hung dữ vối đám khác là sao?

Ở đây, có một hạng người thị uy (ubbejitā) với hội chúng của mình mà không với hội chúng người khác, như vậy là hạng người hung dữ với đám mình, không hung dữ với đám khác; cũng ví như con bò kia hung dữ với đàn bò mình mà không hung dữ với đàn bò khác, hạng người này thí dụ như tnế.

– Hạng người hung dữ với đám khác không dữ với đám mình là sao?

Ở đây có một hạng người thị uy với hội chúng người khác mà không với hội chúng của mình, như vậy là hạng người hung dữ với đám khác không hung dữ với đám mình; cũng ví như con bò kia hung dữ với đàn bò khác mà không hung dữ với đàn bò mình, hạng người này thí dụ như thế.

– Hạng người hung dữ với đám mình hung dữ với đám khác là sao?

Ở đây có một hạng người thị uy với hội chúng của mình cả với hợi chúng người khác, như vậy là hạng người hung dữ với đám mình hung dữ với đám khác; cũng ví như con bò kia hung dữ với đàn bò mình và hung dữ với đàn bò khác, hạng người này thí dụ như thế.

– Hạng người không hung dữ với đám mình không hung dữ với đám khác là sao?

Ở đây có một hạng người không thị uy với hội chúng người khác, như vậy là hạng người không hung dữ với đám mình, không hung dữ với đám khác; cũng ví như con bò kia không hung dữ với đàn bò mình cũng không hung dữ với đàn bò khác, hạng người này thí dụ như thế.

Ðây là bốn hạng người dụ như bò, có mặt xuất hiện trong đời.

Trong ấy thế nào là bốn hạng người dụ như nọc rắn (asvisūpamā puggalā)?

[123] – Có bốn loại nọc rắn : nọc dẫn chạy mà không độc, nọc độc không dẫn chạy, nọc dẫn chạy và độc, nọc không dẫn chạy và không độc,

[124] – Cũng vậy có bốn hạng người này dụ như nọc rắn, xuất hiện trong đời. Thế nào là bốn hạng?

Hạng nọc dẫn chạy mà không độc, hạng nọc độc không dẫn chạy, hạng nọc dẫn chạy và độc, hạng nọc không dẫn chạy và không độc.

– Hạng người nọc dẫn chạy mà không độc là sao?

Ở đây có một hạng người thường phẫn nộ, nhưng sự phẫn nộ của người ấy không ngấm ngầm lâu dài, như vậy là hạng người nọc dẫn chạy mà không độc; cũng ví như nọc rắn kia là nọc dẫn chạy mà không độc, hạng người này thí dụ như thế.

– Hạng người nọc độc không dẫn chạy là sao?

Ở đây có một hạng người không thường phẫn nộ, nhưng sự phẫn nộ của người ấy ngấm ngầm lâu dài, như vậy là hạng người nọc độc không dẫn chạy; cũng ví như nọc rắn kia độc mà không dẫn chạy, hạng người này thí dụ như thế.

– Hạng người nọc dẫn chạy và độc là sao?

Ở đây có một hạng người thường phẫn nộ, và sự phẫn nộ của người ấy ngấm ngầm lâu dài, như vậy là hạng người nọc dẫn chạy và độc; cũng ví như nọc rắn kia là nọc dẫn chạy và độc, hạng người này thí dụ như thế.

– Hạng người nọc không dẫn chạy và không độc là sao?

Ở đây có hạng người không thường phẫn nộ không ngấm ngầm lâu dài, như vậy là hạng người nọc không dẫn chạy và không độc; cũng ví như nọc rắn kia không dẫn chạy và không độc, hạng người này thí dụ như thế.

Ðây là hạng người dụ như nọc rắn có mặt, xuất hiện trong đời.

[125] – Thế nào là hạng người chưa nghĩ suy vội khen người đáng chê (ananuvicca apariyogāhetvā avaṇṇārahassa vaṇṇaṃ bhāsitā hoti)?

Ở đây có hạng người tán thán bọn ngoại đạo và đệ tử ngoài đạo, những kẻ ác hướng (duppattipanna) tà hướng (micchāpatipanna) mà cho rằng là bậc thiện hướng (suppatipanna),chánh hướng (sammāpatipanna); như vậy là hạng người chưa nghĩ suy vội khen người đáng chê.

– Thế nào là hạng người chưa nghĩ suy vội chê người đáng khen (ananuvicca apariyogāhetvā vaṇṇārahassa avaṇṇaṃ bhāsitā hoti)?

Ở đây có hạng người chỉ trích Ðức Phật và đệ tử Phật, những bậc thiện hướng, chánh hướng cho rằng là hạng người ác hướng, tà hướng; như vậy là hạng người chưa nghĩ suy vội chê người đáng khen.

– Thế nào là hạng người chưa nghĩ suy vội tín ngưỡng điều không đáng tín ngưỡng

Ở đây có hạng người phát niềm tin với điều ác hướng, tà hướng cho rằng là điều thiện hướng, chánh hướng như vậy là hạng người không suy nghĩ vội tín ngưỡng điều không đáng tín ngưỡng.

– Thế nào là người chưa nghĩ suy vội không tín ngưỡng điều đáng tín ngưỡng.

Ở đây có hạng người không tin tưởng điều thiện hướng, chánh hướng, cho rằng là điều ác hướng, tà hướng; như vậy là hạng người chưa nghĩ suy vội không tín ngưỡng điều đáng tín ngưỡng.

[126] – Thế nào là hạng người đã suy kỹ nghĩ cùng mới chê kẻ đáng chê (anuvicca pariyogāhetvā avaṇṇārahassa avaṇṇaṃ bhāsitā)?

Ở đây có hạng người chỉ trích bọn ngoại đạo và đệ tử ngoại đạo, những hạng ác hướng, tà hướng cho rằng là hạng ác hướng, tà hướng; như vậy là hạng người suy kỹ nghĩ cùng mới chê kẻ đáng chê.

– Thế nào là hạng người đã suy kỹ nghĩ cùng mới khen bậc đáng khen (anuvicca priyogāhetvā vaṇṇārahassa vaṇṇaṃ bhāsitā).

Ở đây có hạng người tán thán Ðức Phật và đệ tử Phật, những bậc thiện hướng, chánh hướng, cho rằng những bậc thiện hướng, chánh hướng; như vậy là hạng người đã suy kỹ nghĩ cùng mới khen người đáng khen.

– Thế nào là hạng người suy kỹ nghĩ cùng mới không tín ngưỡng điều không đáng tín ngưỡng (anuvicca apariyogāhetvā appsādanīye thāne appasādaṃ)?

Ở đây có hạng người không tin tưởng điều ác hướng, tà hướng, cho rằng là điều ác hướng tà hướng, như vậy là hạng người suy kỹ nghĩ cùng mới không tín ngưỡng điều không đáng tín ngưỡng.

– Thế nào là hạng người suy kỹ nghĩ cùng mới tín ngưỡng điều đáng tín ngưỡng (anuvicca apariyogāhetvā pasādanīye thāne pasādaṃ)?

Ở đây có hạng người phát tín ngưỡng với điều thiện hướng, chánh hướng, cho rằng là điều thiện hướng chánh hướng; như vậy là hạng người suy kỹ nghĩ cùng mới tín ngưỡng điều đáng tín ngưỡng.

[127] – Thế nào là hạng người chê kẻ đáng chê bằng sự có thật và đúng lúc (bhūtaṃ tacchaṃ kālena) nhưng lại không khen kẻ đáng khen bằng sự có thật và đúng lúc?

Ở đây có người cũng gặp trường hợp khen (vaṇṇo) cũng gặp trường hợp chê (avaṇṇo); trong những trường hợp ấy, trường hợp chê thì nó nói thành thật và đúng lúc, nhưng trường hợp khen thì nó không nói thành thật và đúng lúc; như vậy là hạng người chê kẻ đáng chê bằng sự có thật và đúng lúc nhưng lại không khen kẻ đáng khen bằng sự có thật và đúng lúc.

– Thế nào là hạng người khen kẻ đáng khen bằng sự có thật và đúng lúc, nhưng lại không chê kẻ đáng chê bằng sự có thật và đúng lúc?

Ở đây có người cũng gặp trường hợp khen cũng gặp trường hợp chê; trong những trường hợp ấy, trường hợp khen thì nó nói thành thật và đúng lúc nhưng trường hợp chê thì nó không nói thành thật và đúng lúc; như vậy là hạng người khen kẻđáng khen bằng sự có thật và đúng lúc, nhưng lại không chê kẻ đáng chê bằng sự có thật và đúng lúc

– Thế nào là hạng người chê kẻ đáng chê bằng sự có thật và đúng lúc, khen kẻ đáng khen bằng sự có thật và đúng lúc?

Ở đây có người cũng gặp trường hợp khen cũng gặp trường hợp chê; trong những trường hợp ấy, trường hợp chê thì nó nói thành thật và đúng lúc, trường hợp khen thì nó cũng nói thành thật và đúng lúc; trong các trường hợp ấy nó là người chi thời để giải quyết (veyyākaranāya) vấn đề đó. Như vậy là hạng người chê kẻ đáng chê bằng sự có thật và đúng lúc, khen kẻ đáng khen bằng sự có thật và đúng lúc.

– Thế nào là hạng người không chê kẻ đáng chê bằng sự có thật và đúng lúc, không khen kẻ đáng khen bằng sự có thật và đúng lúc?

Ở đây có người cũng gặp trường hợp khen cũng gặp trường hợp chê; trong những trường hợp ấy, trường hợp chê thì nó không nói dù thành thật và đúng lúc, trường hợp khen thì nó cũng không nói dù thành thật và đúng lúc; là người sống thản nhiên, chánh nhiệm, tỉnh giác. Như vậy là hạng người không khen kẻ đáng khen bằng sự có thật và đúng lúc, không chê kẻ đáng chê bằng sự có thật và đứng lúc.

[128] – Thế nào là hạng người sống bằng quả cần lao, không sống bằng quả phúc (utthānaphalūpajīvī no punnaphalūpajīvī)?

Ðối với hạng người nào sinh sống được do nhờ sự nỗ lực, nhờ sự cố gắng, nhờ sự chuyên cần, không phải do phước báo. Ðây gọi là hạng người sống bằng quả cần lao không sống bằng quả phúc.

– Thế nào là hạng ngưòi sống bằng quả phúc, không sống bằng quả cần lao (puññaphalūpajīvī no utthānaphalūpajīvī)?

Chư thiên thượng tầng ảnh hưởng đến chư thiên tha hóa tự tại (paranimmita-vasavatti) là những hạng sống bằng quả phúc không sống bằng quả cần lao.

– Thế nào là hạng người vừa sống bằng quả cần lao, vừa sống bằng quả phúc (utthānaphalūpajīvī ca puññaphalūpajīvī )?

Ðối với hạng người nào sinh sống được do nhờ sự nỗ lực, nhờ sự cố gắng, nhờ sự chuyên cần, và nhờ cả phước báo. Ðây gọi là hạng người sống bằng quả cần lao vừa sống bằng quả phúc.

– Thế nào là hạng người không sống bằng quả cần lao cũng không sống bằng quả phúc (neva uṭṭhanaphalūpajīvī no puññaphalūpajīvī)?

Loài địa ngục (nerayikā) là những hạng không sống nhờ quả cần lao cũng không sống nhờ quả phúc.

[129] – Thế náo là hạng người bóng tối hướng đến bóng tối (tamo hoti tamaparāyano)?

Ở đây có hạng người sinh ra trong gia đình hạ cấp như nô lệ hay gia đình thợ săn, hay gia đình đan sọt, hay gia đình thợ đóng xe, hay gia đình người đổ rác, nhà nghèo đói, cơm nước thiếu thốn, sinh kế khổ sở, tìm được cái ăn tấm mặc khó khăn, và người ấy là xấu xí, khó nhìn thấy lùn, bệnh tật, đui chột (kāno, Pug. A giải thích: kāno’ti ekakkhikāṇo vā ubhayakkhikāṇo và, nghĩa là mù một mắt -chột, hoặc mù cả hai mắt), tật tay (kunī), què chân (khañjo), bại liệt (pakkahato), không có được cơm ăn, nước uống, áo mặc, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, chỗ nằm, chỗ ở, đèn đuốc; người ấy hành ác hạnh bằng thân, hành ác hạnh bằng khẩu, ác hạnh bằng ý, người ấy sau khi hành thân ác hạnh, hành khẩu ác hạnh, hành ý ác hạnh, thân hoại mạng chung bị sanh vào khổ cảnh, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy là hạng người bóng tối hướng đến bóng tối.

– Thế nào là hạng người bóng tối hương đến ánh sáng (tamo hoti jotitarāyano)?

Ở đây có hạng người sanh ra trong gia đình hạ cấp như gia đình nô lệ, hay gia đình thợ săn, gia đình đan sọt, gia đình thợ đóng xe, gia đình người đổ rác, nhà nghèo đói, cơm nước thiếu thốn, sinh kế khổ sở, tìm được cái ăn tấm mặc khó khăn, và người ấy là người xấu xí, khó nhìn, thấp lùn, bệnh tật, đui chột, tật tay, què chân, bại liệt, không có được cơm ăn, nước uống, áo mặc, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, chỗ nằm, chỗ ở, đèn đuốc; người ấy hành thiện hạnh bằng thân, hành thiện hạnh bằng khẩu, hành thiện hạnh bằng ý, người ấy sau khi hành thân thiện hạnh, hành khẩu thiện hạnh, hành ý thiện hạnh, thân hoại mạng chung được sanh nên thiện thú cõi trời. Như vậy là hạng người bóng tối hướng đến ánh sáng.

– Thế nào là hạng người ánh sáng hướng đến bóng tối (joti hoti tamaparāyano)?

Ở đây có hạng người sanh ra trong gia đình thượng lưu, như gia tộc vua chúa, hào phú hay gia tộc phạm chí hào phú hay gia tộc chủ hào phú, sang trọng, tài sản lớn của cải nhiều, sung túc vàng bạc, sung túc tư trang vật dụng, sung túc lúa gạo mễ cốc, người ấy lại xinh đẹp, dễ nhìn, dễ thương có nước da tuyệt vời nhận được cơm ăn, nước uống, áo mặc, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, chỗ nằm, chỗ ở, đèn đuốc; nhưng ngưòi ấy hành ác hạnh bằng thân, hành ác hạnh bằng khẩu, hành ác hạnh bằng ý, người ấy sau khi hành thân ác hạnh hành khẩu ác hạnh, hành ý ác hạnh, thân hoại mạng chung bị sanh vào khổ cảnh, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy là hạng người ánh sáng hướng đến bóng tối.

– Thế nào là hạng người ánh sáng hướng đến ánh sáng (joti hoti tamaparāyano)?

Ở đây có hạng người sanh ra trong gia đình thượng lưu, như gia tộc vua chúa, hào phú hay gia tộc phạm chí hào phú hay gia tộc chủ hào phú, sang trọng, tài sản lớn của cải nhiều, sung túc vàng bạc, sung túc tư trang vật dụng, sung túc lúa gạo mễ cốc, người ấy lại xinh đẹp, dễ nhìn, dễ thương có nước da tuyệt vời nhận được cơm ăn, nước uống, áo mặc, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, chỗ nằm, chỗ ở, đèn đuốc; và người ấy hành thiện hạnh bằng thân, hành thiện hạnh bằng khẩu, hành thiện hạnh bằng ý, người ấy sau khi hành thân thiện hạnh hành khẩu thiện hạnh, hành ý thiện hạnh, thân hoại mạng chung được sanh nên thiện thú cõi trời. Như vậy là hạng người ánh sáng hướng đến ánh sáng.

[130] – Thế nào là hạng người thấp đến thấp (oṇatoṇatohoti)?

… (trùng)… Như vậy là hạng người thấp đến thấp.

– Thế nào là hạng người thấp đến cao (oṇatuṇṇatohoti)?

… (trùng)… Như vậy là hạng người thấp đến cao

– Thế nào là hạng người cao đến thấp (uṇṇatoṇatohoti)?

… (trùng)… Như vậy là hạng người cao đến thấp.

– Thế nào là hạng người cao đến cao (uṇṇatuṇṇatohoti)?

… (trùng) … Như vậy là hạng người cao đến cao.

Trong ấy thế nào là bốn hạng người dụ như cây (rukkhūpamāpuggalā)?

[131] – Có bốn loại cây: cây xốp (bheggu) chung quanh cứng (sāraparivāro), cây cứng (sāro) chung quanh xốp (phegguparivāro), cây xốp chung quanh xốp, cây cứng chung quanh cứng.

[132] – Cũng vậy có bốn hạng người nầy dụ như cây, xuất hiện trong đời. Thế nào là bốn hạng?

Hạng xốp chung quanh cứng, hạng cứng chung quanh xốp, hạng xốp chung quanh xốp, hạng cứng chung quanh cứng.

– Thế nào là hạng người xốp chung quanh cứng (pheggu hoti sāraparivāro)?

Ở đây có hạng người ác giới, ác tánh nhưng hội chúng của người ấy có giới hạnh, thiện tánh, như vậy là hạng người xốp chung quanh cứng; cũng ví như cây kia xốp chung quanh cứng chắc, hạng người này thí dụ như thế.

– Thế nào là hạng người cứng chung quanh xốp (sāro hoti phegguparivāro)

Ở đây có hạng người giới hạnh, thiện tánh nhưng hội chúng của người ấy ác giới, ác tánh như vậy là hạng người cứng chung quanh xốp; cũng ví như cây kia cứng chắc chung quanh xốp, hạng người này thí dụ như thế.

– Thế nào là hạng người xốp chung quanh xốp (pheggu hoti phegguparivāro)?

Ở đây có hạng người ác giới, ác tánh và hội chúng của người ấy cũng ác giới, ác tánh, như vậy là hạng người xốp chung quanh xốp; cũng ví như cây kia xốp chung quanh xốp, hạng người này thí dụ như thế.

– Thế nào là hạng người cứng chung quanh cứng (sāro hoti sāraparivāro)?

Ở đây có người giới hạnh, thiện tánh, và hội chúng của người ấy cũng có giới hạnh, thiện tánh như vậy là hạng người cứng chung quanh cứng; cũng ví như cây kia cứng chắc chung quanh cũng cứng chắc, hạng người này thí dụ như thế.

Ðây là bốn hạng người dụ như cây, có mặt, xuất hiện trong đời.

[133] – Thế nào là hạng người lượng xét sắc tướng, tịnh tín do sắc tướng (rūpappam āno rūpappasanno)?

Ở đây có hạng người khi thấy tướng tầm thước (āroham), hoặc thấy tướng phốp pháp (parināham), hoặc thấy cung cách (santhāna), hay thấy vẻ hoàn hảo (pārippurim), lượng xét theo cách ấy liền phát sanh niềm tin. Ðây gọi là hạng người lượng xét sắc tướng, tịnh tín do sắc tướng.

– Thế nào là hạng người lượng xét âm thinh, tịnh tín do âm thinh (ghosappamāno ghosappasanno)?

Ở đây có hạng người theo lời người khác khen ngợi, theo lời người khác ca tụng, theo lời người khác tán thán, theo lời người khác truyền tụng, mới lượng xét vào sự kiện ấy mà phát sanh niền tin. Ðây gọi là hạng người lượng xét âm thinh, tịnh tín do âm thinh.

– Thế nào là hạng người lượng xét bần hạnh, tịnh tín do bần hạnh (lūkhappam āno lūkhappasanno)?

Ở đây có hạng người nhìn thấy vẻ bần thô y phục, hay vẻ bần thô bình bát, hay thấy vẻ bần thô sàng tọa (senāsanam), hoặc nhìn thấy nhiều cách thức khổ hạnh, lượng xét vào sự kiện ấy rồi phát sanh niềm tin. Ðây gọi là hạng người lượng xét bần hạnh, tịnh tín do bần hạnh.

– Thế nào là hạng người lượng xét pháp tánh tịnh tín do pháp tánh (dhammappamāno dhammappasanno)?

Ở đây có hạng người sau khi nhận thấy giới hạnh, nhận thấy thiền định, nhân thấy trí tuệ, lượng xét trong sự kiện ấy mới phát sanh niềm tin. Ðây gọi là hạng người lượng xét pháp tánh tịnh tín do pháp tánh.

[134] – Thế nào là hạng người hành tự lợi không lợi tha (attahitāya patipanno hoti no parahitāya)?

Ở đây có hạng người tự mình thành tựu giới mà không khuyên người khác thành tựu giới, tự mình thành tựu định mà không khuyên người khác thành tựu định, tự mình thành tựu tuệ mà không khuyên người khác tành tựu tuệ, từ mình thành tựu giải thoát mà không khuyên người khác thành tựu giải thoát, từ mình thành tựu tri kiến giải thoát mà không khuyên người khác thành tựu tri kiến giải thoát. Như vậy là hạng người hành tự lợi không lợi tha.

– Thế nào là hạng người hành lợi tha không tự lợi (parahitāya patipanno hoti no attahitāya)?

Ở đây có hạng người tự mình không thành tựu giới nhưng khuyên kẻ khác thành tựu giới, tự mình không thành tựu định nhưng khuyên kẻ khác thành tựu định, tự mình không thành tựu tuệ nhưng khuyên kẻ khác thành tựu tuệ, tự mình không thành tựu giải thoát nhưng khuyên kẻ khác thành tựu giải thoát, từ mình không thành tựu tri kiến giải thoát nhưng khuyên kẻ khác thành tựu tri kiến giải thoát. Như vậy là hạng người hành lợi tha không tự lợi.

– Thế nào là hạng người hành tự lợi và lợi tha (attahitāya ceva patipanno hoti parahitāya ca)?

Ở đây có hạng người tự mình thành tựu giới và khuyên kẻ khác thành tựu giới, tự mình thành tựu định và khuyên kẻ khác thành tựu định, tự mình thành tựu tuệ và khuyên kẻ khác thành tựu tuệ, tự mình thành tựu giải thoát và khuyên kẻ khác thành tựu giải thoát, tự mình thành tựu tri kiến giải thoát và khuyên kẻ khác thành tựu tri kiến giải thoát. Như vậy là hạng người hành tự lợi và lợi tha.

– Thế nào là hạng người không hành tự lợi cũng không lợi tha (neva attahitāya patipanno hoti no parahitāya)?

Ở đây có hạng người tự mình không thành tựu giới cũng không khuyên kẻ khác thành tựu giới, tự mình không tựu định cũng không khuyên kẻ khác thành tựu định, tự mình không thành tựu tuệ, cũng không khuyên kẻ khác thành tựu tuệ, tự mình không thành tựu giải thoát cũng không khuyên kẻ khác thành tựu giải thoát, tự mình không thành tựu tri kiến giải thoát cũng không khuyên kẻ khác thành tựu tri kiến giải thoát, Như vậy là hạng người không hành tự lợi cũng không lợi tha

[135] – Thế nào là hạng người tự hành khổ cố tình tự đốt nóng (attantapo hoti attaparitapanānuyogamanuyutto)?

Ở đây có người sống lỏa thể, hành động phóng túng (“muttacāro: vissaṭṭhācaro“, Pug . A giải thích là người phóng túng lễ nghi, họ đứng xổng mà tiểu tiện, đại tiện hay ăn uống) liếm tay phân, mời ăn không đến, mời gọi không dừng, không ăn đồ mang lại, không thích đồ ăn dành riêng không thích mời thỉnh, không thọ nhận từ miệng nồi, không thọ nhận từ miệng chảo, không nhận tại ngưỡng cửa, không nhận giữa những cây gậy, không nhận giữa cối giả, không nhận của hai người đang ăn, không nhận từ phụ nữ mang thai, không nhận từ phụ nữ cho con bú, không nhận từ phụ nữ đang giữa người nam, không nhận đồ quyên góp, không nhận tại chỗ có chó đứng, không nhận tại chỗ có ruồi bu, không ăn cá, không ăn thịt, không uống rượu nấu, không uống rượu men, không uống rượu ngâm; vị ấy chỉ ăn tại một nhà hay chỉ ăn một miếng, chỉ ăn tại hai nhà hay chỉ ăn hai miếng … (trùng) … chỉ ăn tại bảy nhà hay chỉ ăn bảy miếng, chỉ nuôi sống bằng một chén nhỏ, chỉ nuôi sống bằng hai chén nhỏ …(trùng)… chỉ nuôi sống bằng bảy chén nhỏ, chỉ ăn mỗi ngày một bữa, chỉ ăn hai ngày một bữa …(trùng) … chỉ ăn bảy ngày một bữa cứ như vậy họ hạn chế ăn dần dần cho đến khi chỉ còn nửa tháng một lần; Người ấy ăn rau, ăn lúa tắc, ăn bông cỏ, ăn da vụn, ăn mủ cây, ăn đọt lá, ăn váng nước cơm, ăn bột hạt vừng, ăn cỏ, ăn phân bò, lấy rễ cây trái cây rừng về nuôi sống, ăn trái cây rụng; vị ấy mặc vải bố, mặc vải bá nạp, mặc vải bó thây, mặc vải phấn tảo, mặc vỏ cây, mặc da hắc sơn dương, mặc da hắc báo, mặc áo cỏ tranh, mặc áo sơ cây, mặc áo tấm gỗ, mặc áo dệt tóc, mặc áo dệt lông thú, mặc áo dệt lông cánh chim hạnh, nhổ râu tóc chuyên sống nhổ râu tóc, theo hạnh đứng thẳng từ bỏ cách ngồi, theo hạnh ngồi chồm hổm chuyên cần ngồi chồm hổm, đi đứng chỗ thảm gai, thừng nằm trên giường gai, sống chuyên hạnh xuống ngâm nước ngày ba lần, họ sống cố tình đốt nóng bức xúc thân xác bằng nhiều cách thức như thế. Như vậy là người tự hành khổ cố tình tự đốt nóng.

– Thế nào là hạng người hành khổ tha nhân cố tình đốt nóng tha nhân (parantapohoti paraparitāpanānuyogamanuyutto)?

Ở đây có hạng người giết cừu, giết heo, giết nai, giết chim, là tên thợ săn, ngư phủ, đạo tặc, đao phủ, đồ tể cai ngục, hoặc là làm những nghề chi ác độc. Như vậy là hạng người hành khổ tha nhân cố tình đốt nóng tha nhân.

– Thế nào là hạng người vừa tự hành khổ cố tình tự đốt nóng vừa hành khổ tha nhân vừa cố tình đốt nóng tha nhân (attantapo… paraparitāpanānuyogama-nuyutto)?

Ở đây có hạng người là vua hoàng tộc đã đăng quang tức vị hay một vị Bà-la-môn phú hào, vị ấy sai khiến tạo ngôi tế đường mới tại phía đông thành phố, rồi cạo bỏ râu tóc, mặc áo da beo có móng vuốt, dùng bơ và dầu thoa khắp thân, vừa gải lưng bằng sừng nai vừa đi vừa ngồi tế đường cùng với hoàng hậu và vị quan tế tự Bà-la-môn; vị ấy nằm xuống trên đất trống có trải cỏ tươi nhà vua sống bằng sữa từ một vú của bò cái có bê con cùng sắt, hoàng hậu sống bằng sữa ở cái vú bò thứ hai, quan tư-tế bà-la-môn sống bằng sữa từ cái vú bò thứ ba, còn sữa từ cái vú bò thứ tư thì dùng đó tế lửa, con bê thì sẽ sống bằng thứ sữa dư thừa; vị vua ấy phán như sau “Hãy giết bò đực bấy nhiêu đó để cúng tế! hãy giết bê đực bấy nhiêu đó để giết cúng tế! hãy giết bê cái bấy nhiêu đó để chúng ta giết cúng tế! hãy giết dê bấy nhiêu đó để giết cúng tế! hãy giết cừu bấy nhiêu đó để cúng tế! hãy giết ngựa bấy nhiêu đó để cúng tế! hãy đốn cây bấy nhiêu đó để dựng lễ đài! hãy cắt cỏ tranh để lợp mái!” những người là tôi tớ, là tay sai, là công nhân của vị ấy, họ sợ, đòn phạt, sợ nguy hiểm, mặt đầy nước mắt, vừa khóc than vừa làm việc. Như vậy là hạng người vừa tự hành khổ cố tình tự đốt nóng vừa hành khổ tha nhân cố tình đốt nóng tha nhân.

– Thế nào là hạng nguời không tự hành khổ không tự đốt nóng cũng không hành khổ tha nhân, không đốt nóng tha nhân; vị ấy không tự làm khổ mình không làm khổ người, hiện tại vô dục, tịch tịch, thanh lượng, lạc cảm, tự an trú phạm thế?

Ở đây Ðức Như Lai xuất hiện trong đời, là bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Giác Giả, Thoại Ðức Giả, vị ấy đã tự mình với thắng trí chứng ngộ rồi tuyên bố về thế giới này gồm cả thiên giới, ma giới, phạm thiên giới, quần sanh có chủng sa môn, bà-la-môn, trời và người; vị ấy quyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn trình bày về phạm hạnh hoàn bị thanh tịnh. Một gia chủ hay con gia chủ hoặc một người sanh trong giai cấp nào đó nghe được giáo pháp ấy; khi đã nghe được giáo pháp ấy họ có lòng tin với Ðức Như lai. Họ thành tựu lòng tin ấy rồi bèn tự suy xét rằng: “Nếp sống tại gia đầy ràng buộc, đường đời lắm bụi trần, hạnh xuất gia thật phóng khoáng (abbho-kāso); đời sống cư sĩ này thật không dễ gì hành phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, hoàn toàn thanh tịnh như xa-cừ được mài giũa, vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, mặc y-cà-sa, ra khỏi nhà sống không nhà, thời gian sau người ấy từ bỏ tài sản nhỏ hoặc bỏ tài sản lớn. Từ bỏ thân thuộc nhỏ hoặc bỏ thân thuộc lớn rồi cạo sạch râu tóc, mặc y-cà-sa, rời khỏi nhà sống hạnh không nhà”.

Vị ấy, khi xuất gia như vậy đã hành trì các học giới hạnh sống (sikkhāsājīva amāpanno) của hàng Tỳ-khưu; bỏ sát sanh, kiêng tránh sự sát sanh, gát trượng gát kiếm, sống liêm sĩ (lajjī),nhân ái (dayāpanno), nghĩ tưởng đến lợi lạc cho mọi loài; bỏ trộm cắp, kiêng tránh sự trộm cắp, chỉ nhận lấy vật được cho, chỉ muốn lảnh vật được cho, tự mình sống trong sạch không chiếm đoạt; từ bỏ phi phạm hạnh, sống phạm hạnh viễn-ly hạnh, kiêng tránh sự dâm dục thấp hèn; bỏ nói dối kiêng tránh sự nói dối, chỉ nói chân thật, liên hệ sự thật, chắc chắn, tín nhiệm, không lừa gạt thế gian; từ bỏ lời nói đâm thọc, kiêng tránh lời đâm thọc, khi nghe đằng này không nói lại với đằng kia đề chia rẽ những người này, khi nghe đằng kia không nói lại với đằng này để chia rẽ những người kia, như thế vị ấy hàn gắn những người chia rẻ hoặc cổ võ những người hòa thuận, vị ấy vui sự hòa hợp, thích sự hòa hợp, hoan hỷ sự hòa hợp, nói lời tạo sự hòa hợp; từ bỏ lời độc ác, kiêng tránh lời độc ác, vị ấy chỉ nói lời thế nào mà không thô lổ, êm tai, dễ thương, rót vào tim, nhã nhặn, được quần chúng ưa thích, được quần chúng vừa lòng; từ bỏ câu chuyện nhảm, kiêng tránh câu chuyện nhảm, chỉ nói hợp thời, nói điều thật, nói lợi ích, nói về pháp, nói về luật, nói ra lời đáng cất giữ, đúng lúc, hợp lý, có hệ thống, hữu ích.

Vị ấy kiêng tránh làm hại giống mầm và thảo mộc ăn một bữa (trong ngày), tránh dùng ban đêm, cử ăn phi thời; kiêng tránh tham dự khiêu vũ, ca hát, tấu nhạc và diễn kịch; kiêng tránh sự thoa xức, mang đeo, chưng diện, trang điểm bằng các loại hương thơm và vòng hoa; kiêng tránh giường cao, sàng rộng; kiêng tránh lãnh nhận vàng bạc; kiêng tránh thọ nhận mễ cốc tươi sống; kiêng tránh thọ nhận thịt tươi sống; kiêng tránh thâu nhận phụ nữ, thiếu nữ, kiêng tránh thâu nhận tôi trai, tớ gái; kiêng tránh lãnh nhận dê, cừu; kiêng tránh lãnh nhận gà, heo; kiêng tránh lãnh nhận voi, bò, ngựa, lừa; kiêng tránh lãnh nhận ruộng đất; kiêng tránh làm sứ giả và tay sai; kiêng tránh sự buôn bán; kiêng tránh cân gian, bạc lận, đo xảo; kiêng tránh sự sai trái như hối lộ, gạt gẫm, lừa đảo; kiêng tránh sự chém, giết, giam cầm, bức đoạt, cướp giật, trấn lột.

Vị ấy sống tri túc với mảnh y che thân, với miếng ăn nuôi bụng, vị ấy đi đến đâu cũng mang theo ví như loài chim bay đến đâu cũng mang đôi cánh mà bay, cũng thế vị Tỳ-khưu tri túc với mảnh y che thân, với miếng ăn nuôi bụng, vị ấy đi đâu cũng mang (y bát ) theo đi.

Vị ấy thành tựu với giới uẩn cao thượng này, nội tâm cảm thọ lạc vô tội.

Vị ấy khi mắt thấy sắc không chấp tướng chung, không chấp tướng riêng; do nhân nào mà sự tham ưu ác bất thiện pháp có thể xâm nhiễm người sống không thu thúc nhãn quyền, thì vị ấy phòng ngừa nhân đó, hộ trì nhãn quyền, thu thúc nhãn quyền. Khi tai nghe tiếng … (trùng)… khi mũi ngửi mùi … (trùng) … khi lưỡi nếm vị … (trùng) … khi thân chạm cảnh xúc … (trùng) … khi ý suy nghĩ cảnh pháp không chấp tướng chung, không chấp tướng riêng; do nhân nào mà sự tham ưu ác bất thiện pháp có thể xâm nhiễm người sống không thu thúc ý quyền thì vị ấy phòng ngừa nhân đó, hộ trì ý quyền, thu thúc ý quyền. Vị ấy thành tựu với sự thu thúc quyền cao thượng này nên nội tâm cảm thọ lạc vô tạp nhiễm [abyāsekasukhaṃ – Pug. A. giải thích: abyāsekasukhanṇtikilesehi anavasittasukhaṃ, lạc không lẫn lộn phiền não].

Vị ấy tập tỉnh giác khi bước tới, bước lui, tập tỉnh giác khi nhìn tới nhìn lui, tập tỉnh giác khi co duỗi, tập tỉnh giác khi mang y-bát và tăng già lê, tập tỉnh giác khi ăn uống nhai nếm, tập tỉnh giác khi đại tiện tiểu tiện, tập tỉnh giác khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói chuyện, im lặng.

Vị ấy thành tựu giới uẩn cao thượng này, thành tựu sự thu thúc quyền cao thượng này, thành tựu chánh nhiệm tỉnh giác cao thượng này, thành tựu sự tri túc cao thượng này, bèn thích nghi với trú xứ xa vắng như khu rừng, gốc cây, triền núi, thạch động, sơn cốc, nghĩa địa, chỗ heo hút, chỗ hoang sơ, chỗ đống rơm. Vị ấy khi khất thực trở về, sau bữa ăn, liền ngồi xuống xếp chân kiết gà, giữ thân hình ngay thẳng, an niệm trước mặt; vị ấy từ bỏ ái tham ở đời, sống với tâm ly tham ái, gội rửa sạch tham ái; từ bỏ sân độc, sống với tâm vô sân độc, chiếu cố đến lợi lạc cho mọi loài, gội rửa tâm sạch sân độc; từ bỏ hôn trầm thụy miên, sống ly hôn thụy, quang tưởng, chánh niệm, tỉnh giác, gội rửa tâm sạch hôn trầm thụy miên; từ bỏ trạo cử hối tiếc, sống vô phóng dật, nội tâm tỉnh lặng, gội rửa tâm sạch trạo hối; từ bỏ hoài nghi, sống vuợt qua ngờ vực, không nghi ngờ trong các thiện pháp, gội rửa tâm sạch hoài nghi.

Vị ấy sau khi đoạn trừ năm triền cái này là những tùy phiền não của tâm, là nhân muội lược trí tuệ; ly các dục, ly các ác bất thiện pháp, chứng và trú sơ thiền một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ; nhờ vắng lặng tầm tứ, vị ấy chứng và trú nhị thiền một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh nhất tâm; Nhờ ly hỷ trú xả chánh niệm tỉnh giác và thân cảm thọ lạc vị ấy chứng và trú tam thiền, một trạng thái mà chư thánh gọi là xả niệm lạc trú; Nhờ đoạn trừ lạc, đoạn trừ khổ, diệt hỷ ưu đã có từ trước, chứng và trú tứ thiền, một trạng thái xả niệm thanh tịnh, phi khổ phi lạc.

Khi tâm được định tỉnh, thanh tịnh, trong sáng vô uế, lìa phiền não, như nhuyển, ứng dụng, vững trú, đạt tới bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến túc mạng ký ức trí (pubbenivāsānussatiñānāya). Vị ấy nhớ lại đa dạng tiền kiếp như là một kiếp, hai kiếp, ba kiếp, bốn kiếp, năm kiếp, mười kiếp, hai mươi kiếp, ba mươi kiếp, bốn mươi kiếp, năm mươi kiếp, một trăm kiếp một ngàn kiếp, một trăm ngàn kiếp, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều thành hoại kiếp, nhờ trong kiếp đó ta có tên như vậy, có họ như vậy, có dòng dõi như vậy, có vật thực như vậy, có cảm thọ lạc khổ như vậy, có giới hạn tuổi thọ như vậy, rồi từ kiếp ấy chết đã sanh lại chỗ kia, tại đây ta có tên như vậy, có họ như vậy, có dòng dõi như vậy và có vật thực như vậy, có cảm thọ lạc khổ như vậy, có giới hạn tuổi thọ như vậy; và từ đó chết sanh ra ở đây, vị ấy nhớ lại đa dạng tiền kiếp với nét đại cương và chi tiết như thế.

Khi tâm được định tỉnh, thanh tịnh, trong sáng, vô uế, lìa phiền não, nhu nhuyễn, ứng dụng, vững trú, đạt tới bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến chúng sanh sinh tử trí (sattānaṃ cutūpapatañānāya). Vị ấy với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhân, thấy rõ các chúng sanh đang tử, đang sanh, biết rõ các chúng sanh có hạ liệt, cao sang, đẹp sắc, xấu sắc, thiện thú, khổ thú tùy theo hạnh nghiệp biết rằng: “những chúng sanh trưởng thành này có thân ác hạnh, có khẩu ác hạnh, có ý ác hạnh, phỉ báng các bậc thánh, có tà kiến, chấp hành nghiệp tà kiến, những kẻ ấy khi thân hoại mang chung bị sanh vào khổ cảnh, ác thú đọa xứ, địa ngục. Trái lại, những chúng sanh trưởng thành này có thân thiện hạnh, có khẩu thiện hạnh, có ý thiện hạnh, không phỉ báng các thánh nhơn, có chánh kiến, chấp hành nghiệp chánh kiến, thì những kẻ ấy khi thân hoại mạng chung được sanh về thiện thú, thiên giới như thế vị ấy mới thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, thấy rõ các chúng sanh đang tử đang sanh, biết rõ các chúng sanh có hạ liệt cao sang, đẹp sắc, xấu sắc, thiện thú, ác thú tùy theo hạnh nghiệp”.

Khi tâm được định tỉnh, thanh tịnh, trong sáng, vô uế, lìa phiền não, nhu nhuyễn, ứng dụng, vững trú, đạt tới bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến lậu tận trí (āsavānaṃ khayañānāya). Vị ấy như thật liễu tri “đây là khổ” như thật liễu tri “đây là khổ tập”, như thật liễu tri “đây là khổ diệt”, như thật liễu tri “đây là khổ diệt hành lộ”, như thật liễu tri “đây là các lậu hoặc” như thật liễu tri “đây là lậu tập khởi”, như thật liễu tri “đây là lậu đoạn diệt” như thật liễu tri “đây là lậu đoạn diệt hành lộ”. Khi vị ấy biết như vậy, thấy như vậy thì tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, tâm giải thoát khỏi hữu lậu, tâm giải thoát khỏi vô minh lậu, khi được giải thoát, vị ấy có sự hiểu biết rằng “đã được giải thoát”, vị ấy nhận được rõ là “sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn gì khác sau đời này nữa”. Như vậy là hạng người không tự hành khổ, không tự đốt nóng, cũng không hành khổ tha nhân, không đốt nóng tha nhân, vị ấy không làm khổ mình, không làm khổ người, hiện tại vô dục, tịch tịnh, thanh lương, lạc cảm, tư ïan trú phạm thể.

[136] – Thế nào là hạng người hữu tham (sarāgo)?

Ðối với hạng người nào ái tham chưa được đoạn trừ, thì đấy gọi là hạng người hữu tham.

– Thế nào là hạng người hữu sân (sadosa)?

Ðối với hạng người nào sân chưa đuợc đoạn trừ thì đấy gọi là hạng người hữu sân.

– Thế nào là hạng người hữu si (samaho)?

Ðối với hạng người nào si chưa đuợc đoạn trừ thì đấy gọi là hạng người hữu si.

– Thế nào là hạng người hữu mạn (samāno)?

Ðối với hạng người nào kiêu mạn đuợc đoạn trừ thì đấy gọi là hạng người hữu mạn.

[137] – Thế nào là hạng ngưòi đắc nội tâm tịnh chỉ mà không đắc tuệ minh sát pháp (lābhī hoti ajjhattaṃ cetosamathassa na lābhī adhipaññādhammavipassa-nāya)?

Ở đây có hạng người đắc được thiền định câu hữu sắc hoặc câu hữu vô sắc, nhưng không đắc được đạo hay quả siêu thế. Như vậy là hạng người đắc nội tâm tịnh chỉ, không đắc tuệ minh sát pháp.

– Thế nào là hạng người đắc tuệ minh sát pháp, không đắc nội tâm tịnh chỉ (lābhī hoti lābhī adhipaññādhammavipassanāya na lābhī ajjhattaṃ cetosama-thassa)?

Ở đây có hạng người đắc được đạo hay quả siêu thế, nhưng không đắc được thiền định câu hữu sắc hoặc câu hữu vô sắc. Như vậy là hạng người đắc tuệ minh – sát pháp, không đắc nội tâm tịnh chỉ.

– Thế nào là hạng người đắc nội tâm tịnh chỉ và đắc tuệ minh sát pháp (lābhī ceva hoti ajjhattaṃ cetosamathassa lābhī ca adhipaññādhammavipas sanāya)?

Ở đây có hạng người đắc được thiền định câu hữu sắc hay câu hữu vô sắc, lại đắc được đạo quả siêu thế. Như vậy là hạng người đắc nội tâm tịnh chỉ, và đắc tuệ – minh sát pháp.

– Thế nào là hạng ngưòi không đắc nội tâm, tịnh chỉ cũng không đắc tuệ minh sát pháp (neva lābhī hoti ajjhattaṃ cetosamathassa na lābhī adhipaññādhamma-vipassañāya)?

Ở đây có hạng người không đắc được thiền định câu hữu sắc hay câu hữu vô sắc và cũng không đắc được đạo-quả Siêu thế. Như vậy là hạng người không đắc nội tâm tịnh chỉ cũng không đắc tuệ minh sát pháp.

[138] – Thế nào là hạng người đi thuận dòng (anusotagāmī)?

Ở đây có hạng người hưởng thụ dục lạc và tạo ác nghiệp. Ðây gọi là hạng người đi thuận dòng.

– Thế nào là hạng người đi ngược dòng (patisotagāmī)?

Ở đây có hạng người không hưởng thụ dục lạc, không tạo nghiệp ác, người ấy dù đang khóc than với nỗi khổ, với nỗi buồn, với mặt đầy nước mắt, vẫn thực hành phạm hạnh hoàn bị thanh tịnh. Ðây gọi là hạng người đi ngược dòng.

– Thế nào là hạng người trụ lại (ṭhitatto)?

Ở đây có hạng người năm đoạn tận, năm hạ phần triền phược, thành hạng hóa sanh thïiên, sẽ níp bàn tại đấy, từ cõi đó không còn trở lui nữa. Ðây gọi là hạng người trụ lại.

– Thế nào là hạng người vượt qua, đến bờ kia, đứng trên bờ, thành phạm-chí (tiṇṇo pāragato thale tiṭṭhatibrahamaṇo)?

Ở đây có hạng người do đoạn trừ các lậu hoặc, ngay trong hiện tại đã tự mình với thắng tri, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ðây gọi là hạng người vượt qua, đi đến bờ kia, đúng trên bờ thành phạm-chí.

[139] – Thế nào là hạng người học ít không hành theo điều đã học (appassuto hoti sutena anupapanno)?

Ở đây đối với một hạng người ít được nghe về khế kinh, ứng tụng, ký thuyết, kệ ngôn, cảm ngữ, như thị thuyết, bổn sanh kinh vị tằng hữu, phương quảng; bởi không hiểu nghĩa, không hiểu pháp đối với điều được nghe ít, nên không tuần tự hành giáo pháp. Như vậy là hạng người học ít, không hành theo điều đã học.

– Thế nào là hạng người học ít nhưng hành theo điều đã học (appassuto hoti sutena upapanno)?

Ở đây đối với một hạng người ít được nghe về khế kinh, ứng tụng, ký thuyết, kệ ngôn, cảm ngữ. Như thị thuyết, bổn sanh kinh, vị tằng hữu, phương-quảng; nhưng vị ấy đã tuần tự hành giáo pháp theo sự hiểu nghĩa, hiểu pháp đối với điều nghe được ít. Như vậy là hạng người học ít nhưng hành theo điều đã học.

– Thế nào là hạng người học nhiều nhưng không hành theo điều đã học (bahussuto hoti sutena annupapanno)?

Ở đây đới với một hạng người được nghe nhiều về khế kinh, ứng tụng, ký thuyết, kệ ngôn, cảm ngữ, như thị thuyết, bổn sanh kinh, vị tằng hữu, phương quảng; nhưng vị ấy do không hiểu nghĩa, không hiểu pháp đối với điều được nghe nhiều nên không tuần tự hành giáo pháp. Như vậy là hạng người học nhiều nhưng không hành theo điều đã học.

– Thế nào là hạng người học nhiều và hành theo điều đã học (bahussuto hoti sutena upapanno)?

Ở đây đối với một hạng người được nghe nhiều về khế kinh, ứng tụng, ký thuyết, kệ ngôn, cảm ngữ, như thị thuyết, bổn sanh kinh, vị tằng hữu, phương quảng; và vị ấy đã tuần tự hành giáo pháp theo sự hiểu nghĩa, hiểu pháp đối với điều được nghe nhiều. Như vậy là hạng người học nhiều và hành theo điều đã học.

[140] – Thế nào là hạng người bất động sa môn (samanacalo)?

Ở đây có hạng người dự lưu do đoạn tận ba triền phược, chắc chắn không rơi đọa sứ, nhất định thành tựu giác ngộ. Ðây gọi là hạng người bất động sa môn.

– Thế nào là hạng người Hồng Liên Sa-môn (samanapadumo)?

Ở đây có hạng người do đoạn tận ba triền phược giảm thiếu tham, sân, si thành bậc nhất lai, chỉ trở lại đời này một lần rồi chấm dứt khổ. Ðây gọi là hạng người hồng liên Sa-môn.

– Thế nào là hạng người Bạch Liên Sa-môn (samanapundarīko)?

Ở đây có hạng người do đoạn tận năm hạ phần triền phược, thành hạng hóa sanh thiện sẽ níp bàn tại đấy, từ cõi đó không còn trở lui nữa. Ðây gọi là hạng người bạch liên Sa-môn.

– Thế nào là hạng người tế nhị sa-môn giữa Sa-môn (samaneru samaṇasukhu-mālo)?

Ở đây có hạng người do đoạn trừ các lậu hoặc, ngay trong hiện tại đã tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ðây gọi là hạng người tế nhị sa môn giữa Sa-môn.

DỨT XIỂN MINH PHẦN BỐN CHI .

XIỂN MINH PHẦN NĂM CHI (PAÑCAKANIDDESO)

[141] – Trong đây (tatra’tiṭesu ādinā nayena heṭṭhā uddiṭṭhapuggalesu – nghĩa là trong những hạng người đã xiển thuật ở phần đầu – Năm chi) hạng người phạm lỗi, ray rứt và thật như chẳng liễu chi tâm giải thoát, tuệ giải thoát, là điều mà các ác bất thiện pháp kia của họ đã sanh bị diệt trừ hết. Người ấy phải được khuyên nhắc như sau “Nay các lậu hoặc do phạm tội sanh, chúng hiện khởi ở tôn – giả rồi! các lậu hoặc do ray rứt sanh, chúng tăng trưởng ở tôn-giả rồi! ôi thiện thay, mong tôn giả hãy đoạn trừ các lậu hoặc do phạm tội sanh, hãy khử trừ các lậu hoặc do ray rức sanh, rồi phát triển tâm [ở đây, citta (tâm) dồng nghĩa với samādhi(định)] và tuệ; làm như vậy tôn giả mới mong đồng đẳng với hạng người thứ năm kia”.

Trong đây hạng người phạm lỗi mà không ray rức và chẳng như thật liễu-tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát là điều mà các bất thiện pháp ấy của họ đã sanh bị diệt trừ hết. Người ấy phải được khuyên nhắc như sau: “Nay các lậu hoặc do phạm tội sanh, chúng hiện khởi ở tôn giả rồi! dù các cậu hoặc do ray rức lo không tăng trưởng ở tôn giả! Ôâi thiện thay, mong tôn giả hãy đoạn tận các lậu hoặc do phạm tội sanh, và phát triển tâm cùng tuệ; làm như vậy tôn giả mới mong đồng đẳng với hạng người thứ năm kia”.

Trong đây hạng người không phạm lỗi mà ray rức và chẳng như thật liễu tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát, là điều mà các ác bất thiện pháp ấy của họ đã sanh bị diệt trừ hết. Người ấy phải được khuyên nhắc như sau: “Nay dù các lậu hoặc do phạm tội sanh, không hiện khởi ở tôn giả! Nhưng các lậu hoặc do ray rức sanh, vẫn tăng trưởng ở tôn giả! ôi thiện thay, mong tôn giả hãy trừ khử các lậu hoặc do ray rức sanh và phát triển tâm cùng tuệ; làm như vậy tôn giả mới mong đồng đẳng với hạng người thứ năm kia”.

Trong đây hạng người không phạm lỗi, không ray rức, nhưng chẳng thật liễu tri tâm giải thoát tuệ giải thoát, là điều mà các ác bất thiện pháp của họ đã sanh bị diệt trừ hết. Người ấy phải được khuyên nhắc như sau : “Nay dù các lậu hoặc do phạm tội sanh, không hiện khởi ở tôn giả, và các lậu hoặc do ray rức sanh, không tăng trưởng ở tôn giả, nhưng thiện thay, mong tôn giả hãy phát triển tâm và tuệ; làm như vậy tôn giả mới mong đồng đẳng với hạng người thứ năm kia”.

Bốn hạng người này khi được hạng người thứ năm giới huấn như vậy, chỉ bảo như vậy thì tuần tự họ sẽ đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc.

[142] – Thế nào là hạng người cho rồi khinh (datvāavajānāti)?

Ở đây có người cho ai cái gì rồi như y phục, vật thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, thì người ấy có suy nghĩ như sau :

“Ta bố thí, còn người này chỉ biết nhận”, cho rồi khinh khi. Như vậy là hạng người cho rồi khinh.

– Thế nào là hạng người do chung sống mà khinh (samvāsena avajānāti)?

Ở đây có hạng người sống chung với ai hai hoặc ba năm rồi khinh khi do sự sống chung với người ấy. Như vậy gọi là hạng người do sống chung mà khinh.

– Thế nào là hạng người dễ nuốt (ādheyyamukho)?

Ở đây có hạng người khi nghe ai khen hoặc chê kẽ khác thì vội xu hướng theo. Như vậy là hạng người dễ nuốt.

– Thế nào là hạng người yếu mềm (lolo)?

Ở đây có hạng người niềm tin nhất thời (ittara), ngưỡng mộ nhất thời, tình cảm nhất thời, thương kính nhất thời. Như vậy là hạng người yếu mềm.

– Thế nào là hạng người ám độn ngu si (mandomomūho )?

Ở đây có hạng người không hiểu biết các pháp thiện bất thiện, không hiểu biết các pháp có tội, vô tội, không hiểu biết các pháp hạ liệt, ưu thắng, không hiểu biết các pháp tự màu trắng, màu đen. Như vậy là hạng người ám độn ngu si.

Trong ấy thế nào là năm hạng người dụ như chiến sĩ (yodhājīvūpamā puggalā)?

[143] – Có năm hạng chiến sĩ

Ở đây cỏ một hạng chiến sĩ chỉ mới nhìn thấy bụi mù dấy lên, đã chùn chân (samsīdati), rủn chí (visīdati), không còn can đảm (na santhambhati), không thể tham chiến (sangāmaṃ otarituṃ); như vậy ở đây là một hạng chiến sĩ. Hạng chiến sĩ thứ nhất này có mặt xuất hiện trong đời.

– Lại nữa, ở đây có một hạng chiến sĩ khác chịu đựng được bụi mù dấy lên, nhưng khi nhìn thấy rợp cờ xí thì chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không thể tham chiến. Như vậy ở đây là một hạng chiến sĩ. Hạng chiến sĩ thứ hai này xuất hiện ở đời.

– Lại nữa, ở đây có một hạng chiến sĩ khác chịu đựng được bụi mù, chịu đựng được cờ xí, nhưng khi nghe tiếng hò hét (ussādanaṃ) thì chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không thể tham chiến; như vậy ở đây là một hạng chiến sĩ. Hạng chiến sĩ thứ ba này có mặt xuất hiện ở đời.

– Lại nữa, ở đây có một hạng chiến sĩ khác chịu đựng được bụi mù, chịu đựng được cờ xí, chịu đựng được tiếng hò hét, nhưng bị thương trong cuộc giao tranh (sampahāre) thì khiếp sợ (vyāpajjati); như vậy ở đây là một hạng chiến sĩ. Hạng chiến sĩ thứ tư này có mặt xuất hiện ở đời.

– Lại nữa, ở đây có một hạng chiến sĩ khác chịu đựng được bụi mù, chịu đựng được cờ xí, chịu đựng được tiếng hò hét, chịu đựng cuộc giao tranh, vị ấy đã chiến thắng trận mạc là người thắng trận dẫn đầu trong chiến trường; như vậy ở đây là một hạng chiến sĩ.

Hạng chiến sĩ thứ năm này có mặt xuất hiện ở đời.

[144] – Cũng thế, có năm hạng người nầy dụ như chiến sĩ xuất hiện trong hàng tỳ-khưu. Thế nào là năm?

– Ở đây có hạng tỳ-khưu chỉ mới nhìn thấy bụi mù dấy lên thì chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không thể tiếp tục phạm-hạnh, đã thố lộ sự yếu kém trong học tập, xả bỏ học giới vào hoàn tục (hīnāyāvattati, quay lại nếp sống thấp, thế tục). Bụi mù đối với vị ấy là gì? Ở đây vị Tỳ- khưu nghe nói tại xóm làng hay thị trấn kia có một phụ nữ hay thiếu nữ xinh đẹp, dễ coi, thanh tú, được nước da như hoa sen tối thắng; vị ấy sau khi nghe thế liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không thế tiếp tục phạm hạnh, bèn thố lộ sự yếu kém trong học tập, xả bỏ học giới và hoàn tục; đây là bụi mù đối với vị ấy cũng ví như người chiến sĩ kia vừa thấy bụi mù dấy lên thì chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không thể tham chiến, hạng người nầy thí dụ như thế; ở đây cũng có hạng người như vậy. Ðây là hạng người dụ như chiến sĩ thứ nhất có mặt xuất hiện trong hàng Tỳ-khưu.

Lại nữa, ở đây có một hạng chiến sĩ khác chịu đựng được bụi mù, nhưng khi thấy rợp cờ xí thì chùn chân, rủn chí, không còn can đảm; không thể tiếp tục phạm-hạnh, đã thố lộ sự yếu kém trong học tập, xả bỏ học giới và hoàn tục. Cờ xí (dhajagga) đối với vị ấy là gì? Ở đây vị Tỳ-khưu mặc dù không nghe nói tại xóm làng thị trấn kia có một phụ nữ, thiếu nữ xinh đẹp, dễ coi, thanh tú, được nước da như hoa sen tối thắng; vị ấy sau khi nghe thế liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không thế tiếp tục phạm hạnh, bèn thố lộ sự yếu kém trong học tập, xả bỏ học giới và hoàn tục; Ðây là cờ xí đối với vị ấy. Cũng ví như người chiến sĩ kia, chịu đựng được bụi mù, nhưng khi thấy rợp cờ xí thì chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không thể tham chiến, hạng người này thí dụ như thế; Ở đây cũng có hạng người như vậy đây là hạng người dụ như chiến sĩ thứ hai có mặt xuất hiện trong hàng Tỳ-khưu.

Lại nữa, ở đây có vị Tỳ-khưu chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng được cờ xí nhưng khi nghe tiếng hò hét thì chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không thể tiếp tục phạm-hạnh, đã thố lộ sự yếu kém trong học tập, xả bỏ học giới và hoàn tục. Tiếng hò hét đối với vị ấy là gì? Ở đây là một nữ nhân (mātugāmo) đi đến vị Tỳ-khưu đang ở tại khu rừng hay tại gốc cây, hay tại ngôi nhà trống ả cười (ūhasati) nói (ullatati), giỡn hớt (ujjagghati), trêu chọc (uppandeti); Tỳ-khưu ấy khi bị nữ nhân cười, nói, giỡn hớt, trêu chọc liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không thể tiếp tục phạm hạnh, đã thố lộ sự yếu kém trong học tập, xả bỏ học giới và hoàn tục; Ðây là tiếng hò hét đối với vị ấy. Cũng ví như người chiến sĩ kia chịu đựng được bụi mù, chịu đựng được cờ xí nhưng khi nghe tiếng hò hét thì chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không thể tham chiến; Hạng người nầy thí dụ như thế. Ở đây cũng có hạng người như vậy. Ðây là hạng người dụ như chiến sĩ thứ ba có mặt xuất hiện trong hàng Tỳ – khưu.

Lại nữa, ở đây có vị tỳ- khưu chịu đựng được bụi mù, chịu đựng được cờ xí, chịu đụng được tiếng hò hét, nhưng vị ấy bị thương trong cuộc giao tranh và khiếp sợ. Cuộc giao tranh đối với vị ấy là gì? Ở đây, một nữ nhân đi đến vị Tỳ-khưu đang ở tại khu rừng hay tại gốc cây, hay tại ngôi nhà trống, ả ngồi kề (abhinis īdati), nằm kề (abhinippajjati), vuốt ve (ajjhottharati). Tỳ-khưu ấy khi được nữ nhân ngồi kề, nằm kề, vuốt ve, liền hành dâm, chưa kịp xả bỏ học giới, chưa kịp thố lộ sự yếu kém; Ðây là cuộc giao tranh đối với vị ấy. Cũng ví như người chiến sĩ kia chịu đựng được bụi mù, chịu đựng được cờ xí, chịu đựng được tiếng hò hét nhưng trong cuộc giao tranh, bị thương và khiếp sợ, hạng người này thí dụ như thế. Ở đây cũng có hạng người như vậy. Ðây là hạng người dụ như chiến sĩ thứ tư có mặt, xuất hiện trong hạng Tỳ-khưu.

Lại nữa, ở đây có vị Tỳ-khưu chịu đựng được bụi mù, chịu đựng được cờ xí, chịu đựng được tiếng hò hét, chịu đựng được cuộc giao tranh, vị ấy chiến thắng trận mạc, là người thắng trận dẫn đầu trong chiến trường, sự thắng trận đối với vị ấy là gì? Ở đây có một nữ nhân đi đến vị tỳ-khưu ở tại khu rững hay tại gốc cây ở tại ngôi nhà trống, ả ngồi kề, nằm kề, vuốt veṬỳ khưu ấy khi được nữ nhân ngồi kề nằm kề, vuốt ve liền gỡ ra vùng thoát rồi bỏ đi đến chỗ muốn đi. Vị ấy bèn thích nghi với trú xứ xa vắng như khu rừng, gốc cây, triền núi, thạch động, sơn cốc, nghĩa địa, chỗ heo hút, chỗ hoang xơ, chỗ đống rơm. Vị ấy đến khu rừng hay đến một gốc cây hoặc đến một ngôi nhà. Ngồi xếp chân kiết già, giữ thân ngay thẳng, an lập niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ cái tham ở đời, sống với tâm ly tham ái, gội rửa tâm sạch tham ái; từ bỏ sân độc. Sống với tâm vô sân độc, chiếu cố đến lợi lạc cho mọi loài, gội rửa tâm sạch sân độc. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, sống ly hôn thụy, quang tưởng, chánh niệm tỉnh giác, gội rửa tâm sạch hôn trầm thụy miên, tử bỏ trạo cử hối tiếc, sống vô phóng dật, nội tâm tỉnh lặng, gội rửa tâm sạch trạo hối, từ bỏ hoài nghi sống vượt qua ngờ vực không nghi ngờ trong các thiện pháp, gội rửa tâm sạch hoài nghi: Vị ấy sau khi đoạn trừ năm triền cái nầy, là những tùy phiền não của tâm, là nhân muội lược trí tuệ, vị ấy ly cái dục, ly các ác bất thiện pháp, chứng và trú sơ thiền một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm có tứ, nhờ vắng lặng tầm tứ vị ấy chứng và trú nhị thiền… tam thiền … tứ thiền …

Khi tâm được định tỉnh, thanh tịnh trong sáng, vô uế, lìa phiền não, nhu nhuyễn, ứng dụng, vững trú, đạt tới bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy như thật kiễu tri “Ðây là khổ”, như thật liễu tri” Ðây là khổ tập”, như thật liểu tri “đây là khổ diệt”, như thật liễu tri” đây là khổ diệt hành lộ, như thật liễu tri “đây là các lậu hoặc” như thật liễu tri “đây là lậu tập khởi”, như thật liễu tri “đây là lậu đoạn diệt” như thật liễu tri “đây là hành lộ lậu đoạn diệt” . Khi vị ấy biết như vậy thấy như vậy thì tâm của vị ấy giải thoát khỏi dục lậu, tâm giải thoát khỏi hữu lậu, tâm giải thoát khỏi vô minh lậu. Khi được giải thoát, vị ấy có sự hiểu biết rằng “đã được giải thoát”; vị ấy nhận thức rõ là sanh đã tận, phạm hạnh đã thành việc cần làm đã làm, không còn gì khác sau đời nầy nữa. Ðây là sự thắng trận đối với vị ấy. Cũng ví như người chiến sĩ kia chịu đựng được bụi mù, chịu đựng được cờ xí, chịu đựng được tiếng hò hét, chịu đựng được cuộc giao tranh, vị ấy chiến thắng trận mạc, là người thắng trận dẫn đầu trong cuộc chiến; hạng người nầy thí dụ như thế. Ở đây cũng có hạng người như vậy. Ðây là hạng người dụ như chiến sĩ thứ năm có măt xuất hiện trong hàng Tỳ-khưu.

Năm hạng người dụ như chiến sĩ này, có mặt xuất hiện giữa chúng Tỳ-khưu.

[145] – Trong ấy, thế nào là năm hạng khất thực (piṇdapātikā)?

– Có hạng khất thực do đần độn si mê.

– Có hạng khất thực ác dục, mong muốn xấu xa.

– Có hạng khất thực do điên loạn, tâm phóng túng.

– Có hạng khất thực do nghĩ rằng một hạnh được Ðức Phật và chư thinh văn giác khen ngợi.

– Lẽ nữa, có hạng khất thực vì thiểu dục, vì tri túc, vì thúc liểm, vì theo mục đích nầy.

Trong những hạng ấy, hạng người mà khất thực vì thiểu dục, vì tri túc, vì thúc liểm, vì theo mục đích nầy, đấy là hạng tối cao, cao cả, cao siêu, cao thượng, cao quý hơn trong năm hạng khất thực này.

Cũng ví như sữa có từ bò cái, lạc (dadhi) có từ sữa, sanh tô, (navanitaṃ) có từ lạc, thục tô (sappi) có từ sanh tô, đề hồ (sappimaṇdo) có từ sanh tô nói đề hồ là quý nhất (aggaṃ) trong các thứ ấy, cũng thế, hạng người mà khất thực vì thiếu dục, vì tri túc, vì thúc liểm, vì theo mục đích này, đấy là hạng tối cao, cao cả, cao siêu, cao thượng, cao quý hơn trong năm hạng khất thực nầy.

Ðây là năm hạng khất thực.

[146] – Trong ấy, thế nào là năm hạng trì hạnh nghĩ ăn sau bửa (khalupacchā-bhattikkā)?…

… năm hạng trì hạnh ngồi ăn một chỗ (ekāsanikā)…

… năm hạng trì hạnh phấn tảo y (paṃsukūlikā)?…

… năm hạng trì hạnh tam y (tecīvarikā)?…

… năm hạng trì hạnh ẩn lâm (ārannikā)?…

… năm hạng trì hạnh ngụ gốc cây (rukkhamūlikā)?…

… năm hạng trì hạnh ngụ ngoài trống (abbhokālikā)?…

năm hạng trì hạnh thường tọa (nesajjikā)?…

… năm hạng trì hạnh ngụ theo chỉ định (yathāsanthatikā)?

Trong ấy, thế nào là năm hạng trì hạnh ngụ mộ địa (sosānikā)?

– Có hạng ngụ mộ địa do đần độn si mê.

– Có hạng ngụ mộ địa vì ác dục, ham muốn xấu xa.

– Có hạng ngụ mộ địa do điên loạn, tâm phóng túng.

– Có hạng ngụ mộ địa do nghĩ rằng một hạnh được Ðức Phật và chư thinh văn giác khen ngợi.

– Lại nữa có hạng ngụ mộ địa vì thiểu dục, vì tri túc, vì thúc liểm, vì theo mục đích nầy. Trong những hạng ấy, hạng người mà ngụ mộ địa vì thiểu dục, vì tri túc, vì thúc liểm, vì theo mục đích nầy, đấy là hạng tối cao, cao cả, cao siêu, cao thượng, cao quý hơn trong năm hạng ngụ mộ địa nầy.

Cũng ví như sữa có từ bò cái, lạc có từ sữa, sanh tô có từ lạc, thục tô có từ sanh tô, đề hồ có từ thục tô; họ nói đề hồ là quý nhất trong các thứ ấy; cũng thế, hạng người mà ngụ mộ địa vì thiểu dục, vì tri túc, vì thúc liểm, vì theo mục đích nầy, đấy là hạng tối cao, cao cả, cao siêu, cao thượng, cao quý hơn trong năm hạng ngụ mộ địa nầy. Ðây là năm hạng ngụ mộ địa.

DỨT PHẦN XIỂN MINH NĂM CHI

XIỂN MINH PHẦN SÁU CHI (CHAKKANIDDESO)

[147] – Trong đây, hạng người mà tự mình giác ngộ tứ đế đối với các pháp chưa từng được nghe trước, đạt đến toàn tri và khả năng tuệ lực, theo đó, chỉ được thấy là bậc Chánh-đẳng giác (sammāsambuddho).

– Trong đây hạng người mà tự mình giác ngộ tứ đế đối với các pháp chưa từng được nghe trước, nhưng không đạt đến toàn tri và không có khả năng tuệ lực, theo đó, chỉ được thấy là Ðộc Giác (paccekasambuddho).

– Trong đây hạng người mà không tự mình giác ngộ tứ đế đối với các pháp chưa từng được nghe trước, nhưng hiện tại vẫn diệt tận khổ và đắc theo thinh văn độ theo đó, cần được nhận thấy là Tôn giả Sāriputta và tôn-giả Moggallāna.

– Trong đây hạng người mà không tự mình giác ngộ tứ đế đối với các pháp chưa từng được nghe trước, hiện tại vẫn diệt tận khổ, nhưng không phải đắc theo thinh văn độ; Theo đó, cần được nhận thấy là các bậc A-la-hán ngoài ra.

– Trong đây hạng người mà không tự mình giác ngộ tứ đế đối với các pháp chưa từng được nghe trước, ngay hiện tại chưa diệt tận khổ, chỉ là hạng bất lai, không còn trở lại cõi nầy nữa; Theo đó, cần được nhận thấy là bậc Bất lai.

– Trong đây hạng người mà không tự mình giác ngộ tứ đế đối với các pháp chưa từng được nghe trước, ngay hiện tại chưa diệt tận khổ, vẫn còn trở lại đời nầy; theo đó, cần được nhận thấy là bậc Dự lưu và bậc Nhất lai.

DỨT PHẦN XIỂN MINH SÁU CHI

XIỂN MINH PHẦN BẢY CHI (SATTAKANIDDESO)

[148] – Thế nào là hạng người lặn xuống một lần chìm luôn (sakim nimuggo’va hoti)?

Ở đây có một hạng người thành tựu với hoàn toàn pháp đen, bất thiện. Như vầy là hạng người lặn xuống một lần chìm luôn.

– Thế nào là hạng người nổi lên rồi chìm xuống (ummujjit và nimujjati)?

Ở đây có một hạng người nổi lên trong pháp thiện đức tin tốt đẹp, nổi lên trong pháp thiện tâm tốt đẹp, nổi lên trong pháp thiện úy tốt đẹp, nổi lên trong pháp thiện tinh tấn tốt đẹp, nổi lên trong pháp thiện trí tuệ tốt đẹp. Ðức tin ấy của nó không vững trú, chẳng tăng trưởng, chỉ có thối giảm; Lòng úy ấy của nó không vững trú, chẳng tăng trưởng, chỉ có thối giảm: sự tinh tấn ấy của nó không vững trú, chẳng tăng trưởng, chỉ có thối giảm; trí tuệ ấy của nó không vững trú, chẳng tăng trưởng, chỉ có thối giảm. Như vầy là hạng người nổi lên rồi chìm xuống.

– Thế nào là hạng người nổi lên rồi đứng yên (ummujjitvā thīto hoti)?

Ở đây có một hạng người nổi lên trong pháp thiện đức tin tốt, pháp thiện làm tốt, pháp thiện úy tốt, pháp tinh tấn, pháp thiện trí tuệ tốt. Ðức tin ấy của nó không bị thối giảm, cũng không tăng trưởng, chỉ dừng lại; Lòng tàm ấy của nó không bị thối giảm, cũng không tăng trưởng, chỉ dừng lại; Lòng úy ấy của nó không bị thối giảm, cũng không tăng trưởng, chỉ dừng lại; sự tinh tấn ấy của nó không bị thối giảm, cũng không tăng trưởng, chỉ dừng lại. Như vậy là hạng người nổi lên rồi đứng yên.

– Thế nào là hạng người nổi lên rồi nhìn xem quan sát (ummujjitvā vipassati viloketi)?

Ở đây có hạng người nổi lên trong pháp thiện đức tin tốt, pháp thiện tàm tốt, pháp thiện úy tốt, pháp thiện tinh tấn tốt, pháp thiện trí tuệ tốt; người ấy thành bậc dự lưu do đoạn tận ba triền phược, chắc chắn không rơi đọa xứ, nhất định thành tựu giác ngộ. Như vậy là hạng người nổi lên rồi nhìn xem quan sát.

-Thế nào là hạng người nổi lên rồi lội qua (ummujjitvā patarati)?

Ở đây có hạng người nổi lên trong pháp thiện đức tin tốt, pháp thiện lòng tàm tốt, pháp thiện lòng úy tốt, pháp thiện tinh tấn tốt, pháp thiện trí tuệ tốt; người ấy do đoạn tận ba triền phược, giảm thiểu tham sân si, thành bậc Nhất Lai, chỉ trở lại đời này một lần rồi chấm dứt khổ. Như vầy là hạng người nổi lên rồi lội qua.

– Thế nào là hạng người nổi lên lội tới bãi đứng (ummujjitvā patigādhappatto hoti)?

Ở đây có hạng người nổi lên trong pháp thiện đức tin tốt, pháp thiện lòng tàm tốt, pháp thiện lòng úy tốt, pháp thiện tinh tấn tốt, pháp thiện trí tuệ tốt; người ấy do đoạn tận năm hạ phần triền phược, thành hạng hóa sanh thiên, sẽ níp-bàn tại đấy, từ cõi đó không còn trở lui nữa như vầy là hạng người nổi lên rồi lội tới bãi đứng.

– Thế nào là hạng người nổi lên rồi vượt qua bờ kia thành phạm – chí đứng trên bờ (ummujjtvā tiṇo hoti pāragato thale tiṭṭhati brāhmano)?

Ở đây có hạng người nổi lên trong pháp thiện đức tin tốt, nổi lên trong pháp thiện lòng tàm tốt, pháp thiện lòng úy tốt, nổi lên trong pháp thiện tinh tấn tốt, nổi lên trong pháp thiện trí tuệ tốt; người ấy do đoạn trừ các lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Như vầy là hạng người nổi lên rồi vượt qua bờ kia thành phạm-chí đứng trên bờ.

[149] – Thế nào là hạng người câu phần giải thoát (ubhatobhāgavimutto)?

Ở đây có hạng người thân chứng đắc an trú trong bát giải thoát và dùng trí tỏ ngộ lên các lậu hoặc của vị ấy được tận diệt. Ðây gọi là hạng người câu phần giải thoát.

– Thế nào là hạng người tuệ giải thoát (paññāvimutto)… hạng thân chứng (kāyasakkhī)… hạng kiến đắc (diṭṭhippatto)… hạng tín giải thoát (saddhāvimutto)… hạng tùy pháp hành (dhammānusārī). [năm hạng người này đã có giải trong phần Xiển minh Một Chi (ekaniddeso)]

– Thế nào là hạng người tùy tín hành (saddhānusārī)?

Ðối với hạng người tiến hành tác chứng quả dự lưu mà tu triển thánh đạo có khuynh hướng, tín quyền, tín hướng đạo, tín tiên phuông. Ðây gọi là hạng người tùy tín hành: Người đang tiến hành tác chứng quả dự lưu, gọi là bậc tùy tín hành; còn người đã trú trong quả, là người tín giải thoát.

DỨT PHẦN XIỀN MINH BẢY CHI.

XIỂN MINH PHẦN TÁM CHI (ATTHAKANIDDESO)

[150] – Thế nào là bốn bậc đắc đạo (maggasamaṅgī) và bốn bậc đắc quả (phalasamaṅgī)?

Bậc dự lưu, bậc tiến hành để tác chứng quả dự lưu, bậc nhất lai, bậc tiến hành để tác chứng quả nhất lai, bậc nhất lai, bậc tiến hành để tác chứng quả bất lai, bậc A-la-hán, bậc tiến hành đến A-la-hán. Ðây là bốn bậc đạo, đây là bốn bậc quả.

DỨT PHẦN XIỂN MINH TÁM CHI

XIỂN MINH PHẦN CHÍN CHI (NAVAKANIDDESO)

[151] – Thế nào là hạng người chánh đẳng giác (puggalo sammāsambuddho)?

Ở đây có hạng người tự mình giác ngộ tứ đế đối với pháp chưa từng được nghe trước, đạt đến toàn tri và khả năng tuệ lực. Ðây là hạng người chánh đẳng giác.

– Thế nào là hạng người độc giác (puggalo pacce kasambuddho)?

Ở đây có hạng người tự mình giác ngộ tứ đế đối với pháp chưa từng được nghe trước, nhưng không đạt đến toàn tri và khả năng tuệ lực; Ðây là hạng người độc giác.

– Thế nào là hạng người câu phần giải thoát (ubhatobhāgavimutto)?

Ở đây có hạng người thân chứng đắc an trú trong bát giải thoát (attha vimokkha) và dùng trí tỏ ngộ nên các lậu hoặc của vị ấy được tận diệt. Ðây gọi là hạng người câu phần giải thoát.

– Thế nào là hạng người tuệ giải thoát (paññāvimutto)?

Ở đây có người thân không chứng đắc an trú trong bát giải thoát nhưng với trí tỏ ngộ chỉ có một số lậu hoặc của vị ấy được tận diệt. Ðây gọi là hạng người tuệ giải thoát.

– Thế nào là hạng người thân chứng (kāyasakkhī)?

Ở đây có hạng người thân chứng đắc an trú trong bát giải thoát nhưng người ấy với trí tỏ ngộ chỉ có một số lậu hoặc được tận diệt thôi. Ðây gọi là hạng người thân chứng.

– Thế nào là hạng người kiến đắc (diṭṭhippatto)?

Ở đây có người như thật liểu tri rằng: “đây là khổ” … (trùng) … như thật liểu tri rằng “đây là khổ diệt hành lộ”; các pháp Như Lai tuyên thuyết đã được người ấy nhận định thẩm sát bằng trí; nhưng người ấy khi với trí tỏ ngộ chỉ có một số lậu hoặc tận diệt thôi. Ðây gọi là hạng người kiến đắc.

– Thế nào là hạng người tín giải thoát (saddhāvimutto)?

Ở đây có hạng người như thật liểu tri rằng “đây là khổ” … (trùng)… như thật liểu tri rằng “đây là khổ diệt hành lộ”, các pháp Như Lai tuyên thuyết đã được người ấy nhận định thẩm sát bằng trí, nhưng người ấy khi với trí tỏ ngộ chỉ có một số lậu hoặc được tận diệt thôi. Tuy nhiên không phải như hạng kiến đắc (diṭṭhippatta). Ðây là hạng người tín giải thoát.

– Thế nào là hạng người tùy pháp hành (dhammānusārī)?

Ðối với hạng người tiến hành tác chứngquả dự lưu mà tu triển thánh đạo có khuynh hướng tuệ quyền (pañdriyaṃ), tuệ hướng đạo (paññāvāhiṃ), tuệ tiên phuông (paññāpubbaṇigamam) thì đây gọi là hạng người tùy pháp hành.

– Người đang tiến hành tác chứng quả dự lưu, là người tùy pháp hành (dhammānusārī), còn người đã trú trong bậc quả, là người kiến chí (diṭṭhippatto).

– Thế nào là hạng người tùy tín hành (saddhanusārī)?

– Ðối với hạng người tiến hành tác chứng quả dự lưu mà tu triển thánh đạo có khuynh hướng tín quyền (saddhindriyam), tín hướng đạo (saddhāvāhim), tín tiên phuông (saddhāpubbangamam), thì đây gọi là hạng người tùy tín hành.

Người đang tiến hành tác chứng quả dự lưu là người tùy tín hành; còn người đã trú trong bậc quả, là người tín giải thoát (sadhāvimutto).

DỨT PHẦN XIỂN MINH CHÍN CHI

XIỂN MINH PHẦN MƯỜI CHI (DESAKANIDDESO)

[152] – Ðối với năm hạng nào tịch diệt trong đời này (idhaniṭṭhā)?

Ðối với hạng cực thất lai, hạng gia gia, hạng nhất chủng sanh, hạng nhất lai [bốn hạng người này đã giải trong phần Xiển minh Một Chi (ekaniddesa)] và hạng người mà ngay trong hiện tại thành bậc A la hán. Ðối với năm hạng này tịch diệt trong đời nay.

Ðối với hạng nào bỏ cỏi này mới tịch diệt (idhavihāya niṭṭhā)?

Ðối với hạng trung ban bất hoàn, đối với hạng sanh bang bất hoàn, đối với hạng vô hành bang bất hoàn, đối với hạng hữu hành bang bất hoàn, đối với hạng thượng lưu sắc cứu cánh thiên thú [năm hạng người này đã có trong phần Xiển minh Một Chi] đối với năm hạng người này từ bỏ cõi mới tịch diệt.

DỨT PHẦN XIỂN MINH MƯỜI CHI

Trong các hạng người, người chế định có bấy nhiêu đó.

Sáu phần Ký thuật (Bhānavara) bộ Luận Nhơn Chế Ðịnh (Puggalapaññaṭṭi) đã dứt.

-ooOoo-

 

 

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *