ĐẠI PHẨM I: CHƯƠNG TRỌNG YẾU – TỤNG PHẨM THỨ TƯ

Đại Phẩm I

Chương Trọng Yếu

Tụng Phẩm Thứ Tư

Sau đó, khi đã ngự tại Uruvelā theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Rājagaha cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn vị tỳ khưu, hết thảy tất cả đều là các đạo sĩ bện tóc trước đây. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Rājagaha. Tại nơi đó ở thành Rājagaha, đức Thế Tôn ngự tại khu rừng Laṭṭhi, nơi điện thờ Suppatiṭṭha. Đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nghe được rằng: “Chắc chắn là ngài Sa-môn Gotama, con trai dòng Sakya, từ dòng dõi Sakya đã xuất gia, đã ngự đến thành Rājagaha và trú ở thành Rājagaha, tại khu rừng Laṭṭhi, nơi điện thờ Suppatiṭṭha. Tiếng tăm tốt đẹp về ngài Gotama ấy đã được lan rộng ra như vầy: ‘Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Tối Thượng Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’ Với thắng trí của mình, vị ấy chứng ngộ và công bố về thế gian này tính luôn cõi chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài người. Vị ấy thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự, giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ. Tốt thay cho việc diện kiến các vị A-la-hán như thế ấy!”

Sau đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha được tháp tùng bởi một trăm hai mươi ngàn[17] Bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Còn một trăm hai mươi ngàn Bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy, một số đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên, một số đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi ngồi xuống ở một bên, một số đã chắp tay cúi chào đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên, một số đã xưng tên họ trước đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên, một số có thái độ im lặng rồi ngồi xuống ở một bên.

Khi ấy, một trăm hai mươi ngàn Bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy đã khởi ý điều này: “Vị đại Sa-môn thực hành Phạm hạnh theo Uruvelakassapa, hay là Uruvelakassapa thực hành Phạm hạnh theo vị đại Sa-môn?” Khi ấy, đức Thế Tôn dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của một trăm hai mươi ngàn Bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy nên đã nói với đại đức Uruvelakassapa bằng bài kệ này:

– “Kẻ trú ở Uruvelā, người giáo huấn các đạo sĩ khổ hạnh, sau khi đã thấy điều gì, mà đã từ bỏ ngọn lửa? Này Kassapa, ta hỏi ngươi điều này: “Tại sao việc thờ lửa của ngươi bị từ bỏ?”

– “Việc cúng tế đề cập đến các hình ảnh, các âm thanh, và các mùi vị, dục lạc, và đàn bà. Sau khi nhận biết rằng ‘việc ấy là ô nhiễm’ trong các mầm mống tái sanh, vì thế con đã không thích thú các việc hy sinh (hay) các việc cúng tế.”

(Đức Thế Tôn nói với Kassapa): – “Ở đây tâm của ngươi đã không thích thú đối với các hình ảnh, các âm thanh, và các mùi vị, như thế cái gì ở thế giới nhân Thiên là được tâm thích thú? Này Kassapa, hãy nói với ta về điều ấy.”

– “Sau khi đã nhìn thấy đạo lộ thanh tịnh, không mầm mống tái sanh, không có gì (về tham ái), không bị trói buộc trong dục lạc và hiện hữu, không còn những thứ khác (sanh, lão, tử, v.v…), không thể đạt đến bằng đường lối nào khác, vì thế con đã không thích thú các việc hy sinh (hay) các việc cúng tế.”

Sau đó, đại đức Uruvelakassapa đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, quỳ xuống đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch ngài, đức Thế Tôn là bậc Đạo Sư của con, con là người đệ tử. Bạch ngài, đức Thế Tôn là bậc Đạo Sư của con, con là người đệ tử.” Khi ấy, một trăm hai mươi ngàn Bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy đã khởi ý điều này: “Uruvelakassapa thực hành Phạm hạnh theo vị đại Sa-môn.” Sau đó, đức Thế Tôn dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của một trăm hai mươi ngàn Bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy nên đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến những người ấy. Tức là ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, và sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được những người ấy có tâm đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng thượng, tịnh tín, ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tự như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến một trăm hai mươi ngàn Bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy có đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đứng đầu: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.” Mười ngàn người đã tuyên bố bản thân là cư sĩ.

Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch ngài, trước đây khi còn là hoàng tử trẫm đã có năm điều ước nguyện, giờ đây các điều ấy đã được thành tựu cho trẫm. Bạch ngài, trước đây khi còn là hoàng tử trẫm đã khởi ý điều này: ‘Ước gì họ tấn phong ta làm vua!’ Bạch ngài, đó là điều ước nguyện thứ nhất của trẫm; giờ đây điều ấy đã được thành tựu cho trẫm. ‘Ước gì bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đi vào vương quốc của ta đây!’ Bạch ngài, đó là điều ước nguyện thứ nhì của trẫm; giờ đây điều ấy đã được thành tựu cho trẫm. ‘Ước gì ta được tỏ lòng tôn kính đến đức Thế Tôn ấy!’ Bạch ngài, đó là điều ước nguyện thứ ba của trẫm; giờ đây điều ấy đã được thành tựu cho trẫm. ‘Ước gì đức Thế Tôn ấy thuyết giảng Giáo Pháp cho ta!’ Bạch ngài, đó là điều ước nguyện thứ tư của trẫm; giờ đây điều ấy đã được thành tựu cho trẫm. ‘Ước gì ta có thể hiểu được Giáo Pháp của đức Thế Tôn ấy!’ Bạch ngài, đó là điều ước nguyện thứ năm của trẫm; giờ đây điều ấy đã được thành tựu cho trẫm. Bạch ngài, trước đây khi còn là hoàng tử, trẫm đã có năm điều ước nguyện này; giờ đây các điều ấy đã được thành tựu cho trẫm.

Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;’ tương tự như thế, Pháp đã được đức Thế Tôn chỉ rõ bằng nhiều phương tiện. Bạch ngài, trẫm đây xin đi đến nương nhờ đức Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội Chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận trẫm là nam cư sĩ đã đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận lời trẫm về bữa thọ trai vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu. Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng.

Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Sau đó, khi trải qua đêm ấy đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã cho người chuẩn bị thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm rồi sai người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn: – “Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.” Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, đi vào thành Rājagaha cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn vị tỳ khưu, hết thảy tất cả đều là các đạo sĩ bện tóc trước đây. Vào lúc bấy giờ, chúa của chư Thiên Sakka đã biến thành hình dáng của người thanh niên đi phía trước hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu ngâm nga những lời kệ này:

Vị đã tự rèn luyện, đã hoàn toàn giải thoát, cùng những vị trước đây là các đạo sĩ bện tóc (giờ) đã được rèn luyện, đã hoàn toàn giải thoát. Với sắc màu vàng khối, đức Thế Tôn đã đi vào thành Rājagaha.

Vị đã được thanh tịnh, đã hoàn toàn giải thoát, cùng những vị trước đây là các đạo sĩ bện tóc (giờ) đã được thanh tịnh, đã hoàn toàn giải thoát. Với sắc màu vàng khối, đức Thế Tôn đã đi vào thành Rājagaha.

Vị đã được tự do, đã hoàn toàn giải thoát, cùng những vị trước đây là các đạo sĩ bện tóc (giờ) đã được tự do, đã hoàn toàn giải thoát. Với sắc màu vàng khối, đức Thế Tôn đã đi vào thành Rājagaha.

Vị đã tự vượt qua, đã hoàn toàn giải thoát, cùng những vị trước đây là các đạo sĩ bện tóc (giờ) đã được vượt qua, đã hoàn toàn giải thoát. Với sắc màu vàng khối, đức Thế Tôn đã đi vào thành Rājagaha.

Đấng Thập Trú,[18] Thập Lực, bậc thông hiểu mười pháp,[19] và đã thành đạt mười điều,[20] đức Thế Tôn ấy được tháp tùng bởi một ngàn vị đã đi vào thành Rājagaha.

Dân chúng sau khi nhìn thấy chúa của chư Thiên Sakka đã nói như vầy: -“Chàng thanh niên trẻ này thật đẹp trai! Chàng thanh niên trẻ này thật duyên dáng! Chàng thanh niên trẻ này thật đáng tin! Chàng thanh niên trẻ này là thuộc về ai vậy?” Khi được nói như thế, chúa của chư Thiên Sakka đã nói với đám người ấy bằng bài kệ này:

“Vị nào là bậc trí tuệ, đã được rèn luyện về mọi mặt, là vị trong sạch, không có đối thủ, là bậc A-la-hán, đấng Thiện Thệ ở thế gian, ta là người phục vụ cho vị ấy.”

Sau đó, đức Thế Tôn đã đi đến tư dinh của đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã tự tay làm hài lòng và toại ý hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, đức vua đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn nên ngụ ở nơi nào đây? Đối với ngài, chỗ ấy không nên xa làng mạc lắm, cũng không quá gần, thuận tiện cho việc tới lui, dân chúng có thể đi đến khi nào có ước muốn, ban ngày không đông đảo, ban đêm ít âm thanh, ít tiếng ồn, gió bị hạn chế, tách biệt với dân chúng, thích hợp cho việc thiền tịnh.” Rồi đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã khởi ý điều này: “Khu vườn Veḷuvana này của chúng ta là không xa làng mạc lắm, cũng không quá gần, thuận tiện cho việc tới lui, dân chúng có thể đi đến khi nào có ước muốn, ban ngày không đông đảo, ban đêm ít âm thanh, ít tiếng ồn, gió bị hạn chế, tách biệt với dân chúng, thích hợp cho việc thiền tịnh, hay là ta nên dâng khu vườn Veḷuvana đến hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu?”

Sau đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã cầm lấy bình nước làm bằng vàng rưới nước lên đức Thế Tôn (nói rằng): – “Bạch ngài, trẫm dâng khu vườn Veḷuvana này đến hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu.” Đức Thế Tôn đã thọ lãnh khu vườn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, ta cho phép khu vườn.”

Vào lúc bấy giờ, vị du sĩ Sañjaya cư trú tại thành Rājagaha cùng với tập thể du sĩ đông đảo gồm có hai trăm năm mươi vị du sĩ. Vào lúc bấy giờ, Sāriputta và Moggallāna thực hành Phạm hạnh theo du sĩ Sañjaya. Họ đã giao ước với nhau rằng: “Người nào chứng đạt sự bất tử trước phải thông báo cho vị kia hay.” Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Assaji đã mặc y cầm y bát đi vào thành Rājagaha để khất thực. Vị ấy có mắt nhìn xuống, đã thành tựu các oai nghi, tạo được niềm tịnh tín khi đi tới bước lui, lúc nhìn ngắm, khi cử động co duỗi.

Du sĩ Sāriputta đã nhìn thấy đại đức Assaji, là vị có mắt nhìn xuống, đã thành tựu các oai nghi, tạo được niềm tịnh tín khi đi tới bước lui, lúc nhìn ngắm, khi cử động co duỗi, đang đi khất thực trong thành Rājagaha. Sau khi nhìn thấy đã khởi ý điều này: “Đây chính là vị tỳ khưu trong số các vị thật sự là A-la-hán trên thế gian, hoặc là đã đạt được con đường đưa đến quả vị A-la-hán. Hay là ta nên đến gần vị tỳ khưu này và hỏi rằng: ‘Thưa đại đức, đại đức đã được xuất gia có liên quan đến vị nào?’ hoặc là ‘Ai là thầy của đại đức?’ hoặc là ‘Đại đức ưa thích pháp của vị nào?’”

Khi ấy, du sĩ Sāriputta đã khởi ý điều này: “Không phải lúc để hỏi vị tỳ khưu này, vị ấy đã đi vào xóm nhà và đang đi khất thực. Hay là ta nên đi sát theo sau vị tỳ khưu này là vị biết đạo lộ đang được học tập bởi những kẻ mong cầu sự lợi ích?” Sau đó, khi đã đi khất thực ở trong thành Rājagaha xong đại đức Assaji đã cầm lấy đồ ăn khất thực đi trở về. Khi ấy, du sĩ Sāriputta đã đi đến gần đại đức Assaji, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với đại đức Assaji, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã đứng ở một bên. Khi đã đứng ở một bên, du sĩ Sāriputta đã nói với đại đức Assaji điều này: – “Thưa đại đức, các giác quan của ngài thật thanh tịnh, màu sắc cơ thể thật trong sáng và thuần khiết. Thưa đại đức, đại đức đã được xuất gia có liên quan đến vị nào? Ai là thầy của đại đức? Đại đức ưa thích pháp của vị nào?”

– “Này đạo hữu, có vị đại Sa-môn con trai dòng Sakya, từ dòng họ Sakya đã xuất gia. Ta đã được xuất gia có liên quan đến đức Thế Tôn ấy. Đức Thế Tôn ấy là đạo sư của ta và ta ưa thích Pháp của đức Thế Tôn ấy.” – “Vị đạo sư của đại đức đã thuyết về điều gì? Đã giảng về điều gì?” – “Này đạo hữu, ta là vị mới tu, được xuất gia chưa bao lâu, vừa mới đến với Pháp và Luật này, ta không thể thuyết giảng Giáo Pháp một cách chi tiết cho đạo hữu được; tuy nhiên ta sẽ nói cho đạo hữu ý nghĩa một cách tóm tắt.” Khi ấy, du sĩ Sāriputta đã nói với đại đức Assaji điều này: – “Thưa đại đức, hãy là vậy đi.

Xin hãy nói ít hoặc nhiều, xin hãy giảng thuần ý nghĩa cho tôi. Tôi chỉ cần ý nghĩa thôi, ngài nói nhiều từ làm chi?”

Khi ấy, đại đức Assaji đã nói với du sĩ Sāriputta lời dạy này thuộc về Giáo Pháp:

“Các pháp nào có nguồn sanh khởi do nhân, đức Như Lai đã nói về nhân của chúng và về sự diệt tắt của chúng, bậc Đại Sa-môn đã có lời dạy như thế.”

Sau đó, khi đã nghe được lời dạy thuộc về Giáo Pháp này thì Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến du sĩ Sāriputta: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”

“Đây chính là Giáo Pháp, nếu chỉ bấy nhiêu thôi mà đã thấu triệt được Niết Bàn không sầu muộn (là pháp) đã không được nhìn thấy, đã trôi qua hàng vạn kiếp.”

Sau đó, du sĩ Sāriputta đã đi đến gặp du sĩ Moggallāna. Du sĩ Moggallāna đã nhìn thấy du sĩ Sāriputta từ đằng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã nói với du sĩ Sāriputta điều này: – “Này bạn, các giác quan của bạn thật thanh tịnh, màu sắc cơ thể thật trong sáng và thuần khiết. Này bạn, chắc hẳn là bạn đã chứng đạt sự bất tử?” – “Này bạn, đúng vậy. Tôi đã chứng đạt sự bất tử.” – “Này bạn, bạn đã chứng đạt sự bất tử bằng cách như thế nào?” – “Này bạn, ở đây tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu Assaji, là vị có mắt nhìn xuống, đã thành tựu các oai nghi, tạo được niềm tịnh tín khi đi tới bước lui, lúc nhìn ngắm, khi cử động co duỗi, đang đi khất thực trong thành Rājagaha. Sau khi nhìn thấy đã khởi ý điều này: ‘Đây chính là vị tỳ khưu trong số các vị thật sự là A-la-hán trên thế gian, hoặc là đã đạt được con đường đưa đến quả vị A-la-hán. Hay là ta nên đến gần vị tỳ khưu này và hỏi rằng: Thưa đại đức, đại đức đã được xuất gia có liên quan đến vị nào? hoặc là: Ai là thầy của đại đức? hoặc là: Đại đức ưa thích pháp của vị nào?’ Này bạn, khi ấy tôi đây đã khởi ý điều này: ‘Không phải lúc để hỏi vị tỳ khưu này, vị ấy đã đi vào xóm nhà và đang đi khất thực, hay là ta nên đi sát theo sau vị tỳ khưu này là vị biết đạo lộ đang được học tập bởi những kẻ mong cầu sự lợi ích?’

Này bạn, sau khi đi khất thực ở trong thành Rājagaha xong, vị tỳ khưu Assaji đã cầm lấy đồ ăn khất thực đi trở về. Này bạn, khi ấy tôi đã đi đến gần vị tỳ khưu Assaji, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với vị tỳ khưu Assaji, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã đứng ở một bên. Này bạn, khi đã đứng một bên tôi đã nói với vị tỳ khưu Assaji điều này: ‘Thưa đại đức, các giác quan của ngài thật thanh tịnh, màu sắc cơ thể thật trong sáng và thuần khiết. Thưa đại đức, đại đức đã được xuất gia có liên quan đến vị nào? Ai là thầy của đại đức? Đại đức ưa thích pháp của vị nào?’

‘Này đạo hữu, có vị đại Sa-môn con trai dòng Sakya, từ dòng họ Sakya đã xuất gia. Ta đã được xuất gia có liên quan đến đức Thế Tôn ấy. Đức Thế Tôn ấy là đạo sư của ta và ta ưa thích Pháp của đức Thế Tôn ấy.’ ‘Vị đạo sư của đại đức đã thuyết về điều gì? Đã giảng về điều gì?’ ‘Này đạo hữu, ta là vị mới tu, được xuất gia chưa bao lâu, vừa mới đến với Pháp và Luật này, ta không thể thuyết giảng Giáo Pháp một cách chi tiết cho đạo hữu được; tuy nhiên ta sẽ nói cho đạo hữu ý nghĩa một cách tóm tắt.’ Này bạn, khi ấy tôi đã nói với đại đức Assaji điều này: ‘Thưa đại đức, hãy là vậy đi.

Xin hãy nói ít hoặc nhiều, xin hãy giảng thuần ý nghĩa cho tôi. Tôi chỉ cần ý nghĩa thôi, ngài nói nhiều từ làm chi?”

Này bạn, khi ấy vị tỳ khưu Assaji đã nói với tôi lời dạy này thuộc về Giáo Pháp:

“Các pháp nào có nguồn sanh khởi do nhân, đức Như Lai đã nói về nhân của chúng và về sự diệt tắt của chúng, bậc Đại Sa-môn đã có lời dạy như thế.”

Sau đó, khi đã nghe được lời dạy thuộc về Giáo Pháp này thì Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến du sĩ Moggallāna: ‘Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.’

“Đây chính là Giáo Pháp, nếu chỉ bấy nhiêu thôi mà đã thấu triệt được Niết Bàn không sầu muộn (là pháp) đã không được nhìn thấy, đã trôi qua hàng vạn kiếp.”

Sau đó, du sĩ Moggallāna đã nói với du sĩ Sāriputta điều này: – “Này bạn, chúng ta hãy đi đến với đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo Sư của chúng ta.” – “Này bạn, hai trăm năm mươi du sĩ này sống ở đây đang nương tựa vào chúng ta, và đang trông nom chúng ta, chúng ta hãy thông báo đến các vị ấy, các vị suy tính như thế nào thì các vị sẽ làm như thế ấy.”

Sau đó, Sāriputta và Moggallāna đã đi đến gặp các vị du sĩ ấy, sau khi đến đã nói với các vị du sĩ ấy điều này: – “Này các đạo hữu, chúng tôi đi đến với đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo Sư của chúng tôi.” – “Chúng tôi sống ở đây nương tựa vào các đại đức, và đang trông nom các đại đức, nếu các đại đức sẽ thực hành Phạm hạnh theo vị đại Sa-môn hết thảy tất cả chúng tôi sẽ thực hành Phạm hạnh theo vị đại Sa-môn.”

Sau đó, Sāriputta và Moggallāna đã đi đến gặp du sĩ Sañjaya, sau khi đến đã nói với du sĩ Sañjaya điều này: – “Này đại đức, chúng tôi đi đến với đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo Sư của chúng tôi.” – “Này các đại đức, thôi đủ rồi. Chớ có đi. Chính tất cả ba chúng ta sẽ quản trị nhóm người này.”

Đến lần thứ nhì, ―(như trên)― Đến lần thứ ba, Sāriputta và Moggallāna đã nói với du sĩ Sañjaya điều này: – “Này đại đức, chúng tôi đi đến với đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo Sư của chúng tôi.” – “Này các đại đức, thôi đủ rồi. Chớ có đi. Chính tất cả ba chúng ta sẽ quản trị nhóm người này.”

Sau đó, Sāriputta và Moggallāna đã đưa hai trăm năm mươi du sĩ ấy đi đến Veḷuvana. Về phần du sĩ Sañjaya, ngay tại chỗ ấy máu nóng đã ứa ra từ miệng.

Đức Thế Tôn đã nhìn thấy Sāriputta và Moggallāna từ đằng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, họ là hai người bạn, Kolita và Upatissa, đang đi đến. Họ sẽ trở thành một cặp đệ tử của ta, một cặp (đệ tử) xuất sắc, đứng đầu.

Khi hai vị có lãnh vực trí tuệ thâm sâu, (đã chứng) Niết Bàn vô thượng, đã được giải thoát, còn chưa đến được Veluvana, bậc Đạo Sư đã nói với các vị (tỳ khưu) ấy rằng:

Họ là hai người bạn, Kolita và Upatissa, đang đi đến. Họ sẽ trở thành một cặp đệ tử của ta, một cặp (đệ tử) xuất sắc, đứng đầu.”

Sau đó, Sāriputta và Moggallāna đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã quỳ xuống đê đầu đảnh lễ ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?” Đức Thế Tôn đã nói rằng: – “Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã khéo được thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.” Chính lời nói ấy đã là sự tu lên bậc trên của các đại đức ấy.

Vào lúc bấy giờ, những người con trai gia đình danh giá ở xứ Magadha là những người có nhiều tiếng tăm thực hành Phạm hạnh theo đức Thế Tôn. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Sa-môn Gotama đã tạo ra khuynh hướng không con cái, Sa-môn Gotama đã gây nên cảnh vợ không chồng, Sa-môn Gotama đã gây nên sự đổ vỡ của các gia đình. Hiện nay, cùng với ông ta một ngàn vị đạo sĩ bện tóc đã xuất gia, hai trăm năm mươi du sĩ này của Sañjaya đã xuất gia, và những người con trai gia đình danh giá này ở xứ Magadha là những người có nhiều tiếng tăm đang thực hành Phạm hạnh theo Sa-môn Gotama.” Hơn nữa, khi gặp các vị tỳ khưu họ đã quở trách bằng bài kệ này:

“Quả là vị đại Sa-môn đã đi đến thành Giribbaja thuộc xứ Magadha. Sau khi đã dẫn đi toàn bộ Sañjaya, giờ đây sẽ dẫn người nào đi?”

Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế tôn. – “Này các tỳ khưu, tiếng đồn đãi ấy sẽ không tồn tại lâu, sẽ tồn tại chỉ được bảy ngày, khi trải qua bảy ngày thì sẽ biến mất. Này các tỳ khưu, chính vì việc ấy những người nào quở trách các ngươi bằng bài kệ này:

“Quả là vị đại Sa-môn đã đi đến thành Giribbaja thuộc xứ Magadha. Sau khi đã dẫn đi toàn bộ Sañjaya, giờ đây sẽ dẫn người nào đi?”

Các ngươi hãy quở trách lại họ bằng bài kệ này:

“Đúng vậy, các bậc Đại Hùng các đức Như Lai dẫn dắt bằng Chánh Pháp. Những người có sự nhận thức thì có điều ganh tỵ gì với những vị đang dẫn đi bằng Chánh Pháp?”

Vào lúc bấy giờ, dân chúng khi gặp các vị tỳ khưu đã quở trách bằng bài kệ này:

“Quả là vị đại Sa-môn đã đi đến thành Giribbaja thuộc xứ Magadha. Sau khi đã dẫn đi toàn bộ Sañjaya, giờ đây sẽ dẫn người nào đi?”

Các vị tỳ khưu đã quở trách lại những người ấy bằng bài kệ này:

“Đúng vậy, các bậc Đại Hùng các đức Như Lai dẫn dắt bằng Chánh Pháp. Những người có sự nhận thức thì có điều ganh tỵ gì với những vị đang dẫn đi bằng Chánh Pháp?”

Dân chúng nghĩ rằng: – “Nghe nói các Sa-môn Thích tử dẫn dắt bằng Chánh Pháp không phải bằng Phi Pháp.” Tiếng đồn ấy đã tồn tại chỉ có bảy ngày, sau khi trải qua bảy ngày đã biến mất.

Dứt sự xuất gia của Sāriputta và Moggallāna.

Dứt tụng phẩm thứ tư.

[17] Dvādasa + nahuta = 12 nahuta. Ngài Buddhaghosa giải thích là: 1 nahuta = 10.000, như vậy 12 nahuta = 120.000 (VinA. v, 972). Trong khi đó từ điển “A dictionary of the Pali Language” của Robert Cæsar Childers ghi là: 1 nahuta = 10.000.0004, tức là 28 con số không (0) sau con số một, như thế 12 nahuta là một con số quá lớn, không hợp lý trong trường hợp này. 

[18] Đấng Thập Trú (dasavāso): là vị có sự cư trú trong mười pháp của bậc Thánh. H.T. Minh Châu dịch là ‘Mười Thánh cư’ (Xin xem Kinh Trường Bộ, kinh Phúng Tụng, phần Mười Pháp, hoặc Kinh Tăng Chi Bộ, chương 10 pháp, phẩm 2).

[19] Thông hiểu mười pháp (dasadhammavidū): là vị thông hiểu về mười đường lối tạo nghiệp (liên quan đến thân có 3, liên quan đến khẩu có 4 và liên quan đến ý có 3).

[20] Thành đạt mười điều (dasabhi cupeto): là thành tựu mười pháp của bậc vô học gồm có: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh cần, chánh niệm, chánh định, chánh trí, chánh giải thoát (Kinh Tăng Chi Bộ, chương 10 pháp, phẩm 11). Ba điều này được giải thích dựa theo Chú Giải (VinA. v, 973).

TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *