ĐẠI PHẨM I – CHƯƠNG PAVĀRAṆĀ: TỤNG PHẨM THỨ NHẤT

Đại Phẩm I

Chương Pavāraṇā

Tụng phẩm thứ nhất

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu là bạn bè đồng quan điểm, thân thiết, đã vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ ở trong xứ Kosala.

Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Chúng ta có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau, vậy bằng phương thức nào có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực?”

Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Nếu chúng ta có thể không nói với nhau và cũng không chuyện trò, vị nào đi khất thực từ làng trở về trước tiên, vị ấy sắp xếp chỗ ngồi, chuẩn bị nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi đem lại, cung ứng nước uống nước rửa. Vị nào đi khất thực từ làng trở về sau cùng, nếu vật thực được ăn còn thừa lại, nếu muốn có thể ăn; nếu không muốn có thể đem quăng bỏ ở nơi không có cỏ xanh, hoặc đổ xuống ở nước không có sinh vật. Vị ấy xếp chỗ ngồi lại, dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi cất đi, dọn dẹp nước uống nước rửa, và quét nhà ăn. Vị nào thấy lu nước uống, hoặc lu nước rửa, hoặc lu nước nhà vệ sinh hết nước, trống trơn, vị ấy có thể đem (nước) lại. Nếu vị ấy không làm nổi, có thể ra hiệu bằng tay mời vị thứ hai và có thể đem (nước) lại với dấu hiệu bằng tay, nhưng không vì lý do đó lại có thể phát ra lời nói. Như thế, chúng ta có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.”

Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã không nói với nhau và cũng không chuyện trò. Vị nào đi khất thực từ làng trở về trước tiên, vị ấy sắp xếp chỗ ngồi, chuẩn bị nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi đem lại, cung ứng nước uống nước rửa. Vị nào đi khất thực từ làng trở về sau cùng, nếu vật thực được ăn còn thừa lại, nếu muốn thì vị ấy ăn; nếu không muốn thì đem quăng bỏ ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống ở nước không có sinh vật. Vị ấy xếp chỗ ngồi lại, dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi cất đi, dọn dẹp nước uống nước rửa, và quét nhà ăn. Vị nào thấy lu nước uống, hoặc lu nước rửa, hoặc lu nước nhà vệ sinh hết nước, trống trơn, vị ấy đem (nước) lại. Nếu không làm nổi, vị ấy ra hiệu bằng tay mời vị thứ hai và đem (nước) lại với dấu hiệu bằng tay, nhưng không vì lý do đó mà phát ra lời nói.

Điều này đã trở thành thông lệ của các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa là đi đến để diện kiến đức Thế Tôn. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy khi đã sống qua mùa (an cư) mưa với thời gian ba tháng đã thu xếp chỗ trú ngụ, cầm y bát, ra đi về phía thành Sāvatthi. Tuần tự, các vị đã đi đến Jetavana tu viện của ông Anāthapiṇḍika gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.

Điều này đã trở thành thông lệ của chư Phật Thế Tôn là niềm nở với các vị tỳ khưu đi đến. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với các vị tỳ khưu ấy điều này: – “Này các tỳ khưu, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Các ngươi có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau có phải đã sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực không?”

– “Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc được tốt đẹp. Và bạch ngài, chúng con có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau đã sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.”

Các đấng Như Lai dầu biết vẫn hỏi, dầu biết các vị vẫn không hỏi, biết đúng thời các vị mới hỏi, biết đúng thời các vị vẫn không hỏi, có liên quan đến lợi ích các đấng Như Lai mới hỏi và không có liên quan đến lợi ích thì không (hỏi), khi không có liên quan đến lợi ích các đấng Như Lai có cách để cắt đứt vấn đề.

Chư Phật Thế Tôn hỏi các vị tỳ khưu với hai lý do: “Chúng ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp hoặc là chúng ta sẽ quy định điều học cho các đệ tử.”

Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với các vị tỳ khưu ấy điều này: – “Này các tỳ khưu, các ngươi có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau đã sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực là như thế nào?”

– “Bạch ngài, trường hợp chúng con gồm nhiều vị tỳ khưu là bạn bè đồng quan điểm, thân thiết, đã vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ ở trong xứ Kosala. Bạch ngài, chúng con đây đã khởi ý điều này: ‘Chúng ta có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau, vậy bằng phương thức nào có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực?’

Bạch ngài, chúng con đây đã khởi ý điều này: ‘Nếu chúng ta có thể không nói với nhau và cũng không chuyện trò, vị nào đi khất thực từ làng trở về trước tiên vị ấy sắp xếp chỗ ngồi, chuẩn bị nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi đem lại, cung ứng nước uống nước rửa. Vị nào đi khất thực từ làng trở về sau cùng, nếu vật thực được ăn còn thừa lại, nếu muốn có thể ăn; nếu không muốn có thể đem quăng bỏ ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống ở nước không có sinh vật. Vị ấy xếp chỗ ngồi lại, dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi cất đi, dọn dẹp nước uống nước rửa, và quét nhà ăn. Vị nào thấy lu nước uống, hoặc lu nước rửa, hoặc lu nước nhà vệ sinh hết nước, trống trơn, vị ấy có thể đem (nước) lại. Nếu vị ấy không làm nổi, có thể ra hiệu bằng tay mời vị thứ hai và có thể đem (nước) lại với dấu hiệu bằng tay, nhưng không vì lý do đó lại có thể phát ra lời nói. Như thế, chúng ta có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.’

Bạch ngài, sau đó chúng con đã không nói với nhau và cũng không chuyện trò. Vị nào đi khất thực từ làng trở về trước tiên vị ấy sắp xếp chỗ ngồi, chuẩn bị nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi đem lại, cung ứng nước uống nước rửa. Vị nào đi khất thực từ làng trở về sau cùng, nếu vật thực được ăn còn thừa lại, nếu muốn thì vị ấy ăn; nếu không muốn có thể đem quăng bỏ ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống ở nước không có sinh vật. Vị ấy xếp chỗ ngồi lại, dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi cất đi, dọn dẹp nước uống nước rửa, và quét nhà ăn. Vị nào thấy lu nước uống, hoặc lu nước rửa, hoặc lu nước nhà vệ sinh hết nước, trống trơn, vị ấy đem (nước) lại. Nếu không làm nổi, vị ấy ra hiệu bằng tay mời vị thứ hai và đem (nước) lại với dấu hiệu bằng tay, nhưng không vì lý do đó mà phát ra lời nói. Bạch ngài, chúng con có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau đã sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực là như thế.”

Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, thật ra những kẻ rồ dại này trong khi đã sống một cách không thoải mái lại bảo rằng: ‘Chúng con đã sống một cách thoải mái.’ Này các tỳ khưu, thật ra những kẻ rồ dại này trong khi đã sống với lối sống chung của loài thú lại bảo rằng: ‘Chúng con đã sống một cách thoải mái.’ Này các tỳ khưu, thật ra những kẻ rồ dại này trong khi đã sống với lối sống chung của loài cừu lại bảo rằng: ‘Chúng con đã sống một cách thoải mái.’ Này các tỳ khưu, thật ra những kẻ rồ dại này trong khi đã sống với lối cộng trú của những kẻ lười biếng lại bảo rằng: ‘Chúng con đã sống một cách thoải mái.’ Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại này lại thọ trì lối thực hành của ngoại đạo là sự hành trì như kẻ câm. Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)―

 Sau khi khiển trách, ngài đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, không nên thọ trì lối thực hành của ngoại đạo là sự hành trì như kẻ câm; vị nào thọ trì thì phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, đối với các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa ta cho phép thỉnh cầu dựa trên ba tình huống là do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ. Việc ấy sẽ giúp cho các ngươi có được sự hài hòa với nhau, có được sự thoát ra khỏi tội, và có được sự tôn vinh Luật. Và này các tỳ khưu, nên thỉnh cầu như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hôm nay là ngày lễ Pavāraṇā.[1] Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.”

Vị tỳ khưu trưởng lão nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: “Này các sư đệ, tôi xin thỉnh cầu hội chúng do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Này các sư đệ, lần thứ nhì tôi xin thỉnh cầu hội chúng do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Này các sư đệ, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu hội chúng do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

Vị tỳ khưu mới tu nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: “Bạch các ngài, tôi xin thỉnh cầu hội chúng do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Bạch các ngài, lần thứ nhì tôi xin thỉnh cầu hội chúng ―(như trên)― Bạch các ngài, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu hội chúng do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi yên trên chỗ ngồi trong lúc các tỳ khưu trưởng lão đang ngồi chồm hổm thỉnh cầu. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại ngồi yên trên chỗ ngồi trong lúc các tỳ khưu trưởng lão đang ngồi chồm hổm thỉnh cầu?”

Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi yên trên chỗ ngồi trong lúc các tỳ khưu trưởng lão ngồi đang chồm hổm thỉnh cầu, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: – “Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại này lại ngồi yên trên chỗ ngồi trong lúc các tỳ khưu trưởng lão đang ngồi chồm hổm thỉnh cầu.

Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, không nên ngồi yên trên chỗ ngồi trong lúc các tỳ khưu trưởng lão đang ngồi chồm hổm thỉnh cầu; vị nào ngồi yên thì phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép toàn bộ tất cả ngồi chồm hổm để thỉnh cầu.”

Vào lúc bấy giờ, có vị trưởng lão nọ già yếu ngồi chồm hổm (nghĩ rằng): “Đến khi tất cả thỉnh cầu xong,” trong lúc chờ đợi bị choáng váng rồi té xuống.

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép ngồi chồm hổm trong khoảng thời gian chờ đợi cho đến khi thỉnh cầu, sau khi thỉnh cầu thì được ngồi xuống trên chỗ ngồi.”

Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Có bao nhiêu lễ Pavāraṇā?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. “Này các tỳ khưu, đây là hai lễ Pavāraṇā: Lễ ngày mười bốn và lễ ngày mười lăm. Này các tỳ khưu, đây là hai lễ Pavāraṇā.”

Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Có bao nhiêu hành sự Pavāraṇā?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, đây là bốn hành sự Pavāraṇā: Hành sự Pavāraṇā sai Pháp theo phe nhóm, hành sự Pavāraṇā sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự Pavāraṇā đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự Pavāraṇā đúng Pháp có sự hợp nhất.

Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Pavāraṇā sai Pháp theo phe nhóm, này các tỳ khưu, không nên thực hiện hành sự Pavāraṇā có hình thức như thế và hành sựPavāraṇā có hình thức như thế không được ta cho phép.

Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Pavāraṇā sai Pháp có sự hợp nhất, này các tỳ khưu, không nên thực hiện hành sự Pavāraṇā có hình thức như thế và hành sựPavāraṇā có hình thức như thế không được ta cho phép.

Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Pavāraṇā đúng Pháp theo phe nhóm, này các tỳ khưu, không nên thực hiện hành sự Pavāraṇā có hình thức như thế và hành sựPavāraṇā có hình thức như thế không được ta cho phép.

Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Pavāraṇā đúng Pháp có sự hợp nhất, này các tỳ khưu, nên thực hiện hành sự Pavāraṇā có hình thức như thế và hành sự Pavāraṇācó hình thức như thế được ta cho phép.

Này các tỳ khưu, do đó ở đây chúng ta sẽ thực hiện hành sự Pavāraṇā có hình thức như thế tức là ‘Đúng Pháp có sự hợp nhất.’ Này các tỳ khưu, các ngươi nên học tập theo đúng như thế.”

Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, hãy tụ hội lại, hội chúng sẽ thực hiện lễ Pavāraṇā.”

Khi được nói như thế, có vị tỳ khưu nọ đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch ngài, có vị tỳ khưu bị bệnh. Vị ấy không đến.” – “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh được trao ra lời thỉnh cầu. Và này các tỳ khưu, nên trao ra như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đắp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: “Tôi xin trao ra lời thỉnh cầu. Hãy chuyển đạt lời thỉnh cầu của tôi. Hãy thông báo lời thỉnh cầu của tôi. Hãy thỉnh cầu vì sự lợi ích của tôi.”

 (Nếu) vị ấy thể hiện bằng thân, thể hiện bằng lời nói, thể hiện bằng thân và lời nói, thì lời thỉnh cầu đã được trao ra. (Nếu) vị ấy không thể hiện bằng thân, không thể hiện bằng lời nói, không thể hiện bằng thân và lời nói, thì lời thỉnh cầu đã không được trao ra. Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) thì nên dùng cái giường hoặc cái ghế khiêng vị tỳ khưu bị bệnh ấy đến giữa hội chúng rồi nên thực hiện lễ Pavāraṇā. Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu chăm sóc bệnh khởi ý như vầy: “Nếu chúng ta di chuyển vị bị bệnh dời khỏi vị trí thì bệnh sẽ trầm trọng hơn hoặc sẽ gây tử vong,” này các tỳ khưu, không nên di chuyển vị bị bệnh khỏi vị trí. Hội chúng nên đi đến và thực hiện lễ Pavāraṇā ở nơi ấy. Nhưng không nên thực hiện lễ Pavāraṇā bởi hội chúng theo phe nhóm; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa.

Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu từ chính chỗ ấy ra đi (đến nơi khác) thì lời thỉnh cầu nên được trao ra đến vị khác. Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu ngay tại chỗ ấy hoàn tục, … từ trần, … được biết là vị (xuống lại) sa di, … được biết là người đã từ bỏ điều học, … được biết là vị phạm tội cực nặng, … được biết là vị bị điên, … được biết là bị loạn trí, … được biết là bị thọ khổ hành hạ, … được biết là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, … được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, … được biết là vị bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác, … được biết là kẻ vô căn, … được biết là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), … được biết là kẻ đã chuyển sang ngoại đạo, … được biết là loài thú, … được biết là kẻ giết mẹ, … được biết là kẻ giết cha, … được biết là kẻ giết A-la-hán, … được biết là kẻ làm nhơ tỳ khưu ni, … được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, … được biết là kẻ làm chảy máu (đức Phật), … được biết là kẻ lưỡng căn thì lời thỉnh cầu nên được trao ra đến vị khác.

Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu ở khoảng giữa đường lại ra đi (đến nơi khác) thì lời thỉnh cầu vẫn chưa được chuyển đạt. Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu ở khoảng giữa đường lại hoàn tục, … từ trần, … được biết là vị (xuống lại) sa di, … được biết là người đã từ bỏ điều học, … được biết là vị phạm tội cực nặng, … được biết là vị bị điên, … được biết là bị loạn trí, … được biết là bị thọ khổ hành hạ, … được biết là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, … được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, … được biết là vị bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác, … được biết là kẻ vô căn, … được biết là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), … được biết là kẻ đã chuyển sang ngoại đạo, … được biết là loài thú, … được biết là kẻ giết mẹ, … được biết là kẻ giết cha, … được biết là kẻ giết A-la-hán, … được biết là kẻ làm nhơ tỳ khưu ni, … được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, … được biết là kẻ làm chảy máu (đức Phật), … được biết là kẻ lưỡng căn thì lời thỉnh cầu vẫn chưa được chuyển đạt.

Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu đã đến được hội chúng rồi ra đi (đến nơi khác) thì lời thỉnh cầu đã được chuyển đạt. Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu đã đến được hội chúng rồi hoàn tục, … từ trần, … được biết là vị (xuống lại) sa di, … được biết là người đã từ bỏ điều học, … được biết là vị phạm tội cực nặng, … được biết là vị bị điên, … được biết là bị loạn trí, … được biết là bị thọ khổ hành hạ, … được biết là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, … được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, … được biết là vị bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác, … được biết là kẻ vô căn, … được biết là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), … được biết là kẻ đã chuyển sang ngoại đạo, … được biết là loài thú, … được biết là kẻ giết mẹ, … được biết là kẻ giết cha, … được biết là kẻ giết A-la-hán, … được biết là kẻ làm nhơ tỳ khưu ni, … được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, … được biết là kẻ làm chảy máu (đức Phật), … được biết là kẻ lưỡng căn thì lời thỉnh cầu đã được chuyển đạt.

Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu đã đến được hội chúng rồi ngủ quên nên không thông báo thì lời thỉnh cầu đã được chuyển đạt. Vị chuyển đạt lời thỉnh cầu không bị phạm tội. Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu đã đến được hội chúng rồi lơ đễnh ―(như trên)― rồi nhập định nên không thông báo thì lời thỉnh cầu đã được chuyển đạt. Vị chuyển đạt lời thỉnh cầu không bị phạm tội.

Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu đã đến được hội chúng rồi cố ý không thông báo thì lời thỉnh cầu đã được chuyển đạt và vị chuyển đạt lời thỉnh cầu bị phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép vào ngày lễ Pavāraṇā vị trao ra lời thỉnh cầu (đồng thời) trao ra sự tùy thuận (phòng khi) hội chúng có hành sự cần được thực hiện.”

Vào lúc bấy giờ, vào ngày lễ Pavāraṇā các thân quyến đã nắm giữ lại vị tỳ khưu nọ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā các thân quyến nắm giữ vị tỳ khưu lại. Các thân quyến ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy trả tự do cho vị tỳ khưu này trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này thực hiện lễ Pavāraṇā xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), các thân quyến ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy tránh sang một bên trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này trao ra lời thỉnh cầu xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), các thân quyến ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy dẫn vị tỳ khưu này ra khỏi ranh giới trong chốc lát đến khi nào hội chúng thực hiện lễ Pavāraṇā xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), vẫn không nên thực hiện lễ Pavāraṇā bởi hội chúng theo phe nhóm; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa.

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā các đức vua nắm giữ vị tỳ khưu lại. … các kẻ trộm cướp nắm giữ … những kẻ bất lương nắm giữ … những kẻ đối nghịch tỳ khưu nắm giữ vị tỳ khưu lại. Những kẻ đối nghịch tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy trả tự do cho vị tỳ khưu này trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này thực hiện lễ Pavāraṇā xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), những kẻ đối nghịch tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy tránh sang một bên trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này trao ra lời thỉnh cầu xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), những kẻ đối nghịch tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các đạo hữu, các người hãy dẫn vị tỳ khưu này ra khỏi ranh giới trong chốc lát đến khi nào hội chúng thực hiện lễ Pavāraṇā xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không thể đạt được (như thế), vẫn không nên thỉnh cầu bởi hội chúng theo phe nhóm; nếu vị nào thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa.”

Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có năm vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā’ và chúng ta là năm người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Pavāraṇā như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu hội chúng đối với năm vị.”

Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có bốn vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã cho phép thỉnh cầu hội chúng đối với năm vị và chúng ta là bốn người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Pavāraṇā như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu lẫn nhau đối với bốn vị. Và này các tỳ khưu, nên thỉnh cầu như vầy: Các vị tỳ khưu ấy nên được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

“Xin các đại đức hãy lắng nghe tôi, hôm nay là ngày lễ Pavāraṇā. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đại đức, chúng ta nên thỉnh cầu lẫn nhau.” Vị tỳ khưu trưởng lão nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với các vị tỳ khưu ấy như vầy: “Này các sư đệ, tôi xin thỉnh cầu các đại đức do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Này các sư đệ, lần thứ nhì tôi xin thỉnh cầu các đại đức ―(như trên)― Này các sư đệ, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu các đại đức do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

Vị tỳ khưu mới tu nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với vị các tỳ khưu ấy như vầy: “Bạch các ngài, tôi xin thỉnh cầu các đại đức do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Bạch các ngài, lần thứ nhì tôi xin thỉnh cầu các đại đức ―(như trên)― Bạch các ngài, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu các đại đức do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có ba vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã cho phép thỉnh cầu hội chúng đối với năm vị, thỉnh cầu lẫn nhau đối với bốn vị và chúng ta là ba người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Pavāraṇā như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu lẫn nhau đối với ba vị. Và này các tỳ khưu, nên thỉnh cầu như vầy: Các vị tỳ khưu ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

“Xin các đại đức hãy lắng nghe tôi, hôm nay là ngày lễ Pavāraṇā vào ngày mười lăm. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đại đức, chúng ta nên thỉnh cầu lẫn nhau.” Vị tỳ khưu trưởng lão nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với vị các tỳ khưu ấy như vầy: “Này các sư đệ, tôi xin thỉnh cầu các đại đức do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Này các sư đệ, lần thứ nhì tôi xin thỉnh cầu các đại đức ―(như trên)― Này các sư đệ, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu các đại đức do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

Vị tỳ khưu mới tu nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với các vị tỳ khưu ấy như vầy: “Bạch các ngài, tôi xin thỉnh cầu các đại đức do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Bạch các ngài, lần thứ nhì tôi xin thỉnh cầu các đại đức ―(như trên)― Bạch các ngài, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu các đại đức do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có hai vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã cho phép thỉnh cầu hội chúng đối với năm vị, thỉnh cầu lẫn nhau đối với bốn vị,thỉnh cầu lẫn nhau đối với ba vị và chúng ta là hai người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Pavāraṇā như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu lẫn nhau đối với hai vị. Và này các tỳ khưu, nên thỉnh cầu như vầy: Vị tỳ khưu trưởng lão nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với vị tỳ khưu mới tu như vầy: “Này sư đệ, tôi xin thỉnh cầu đại đức do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin đại đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Này sư đệ, lần thứ nhì tôi xin thỉnh cầu đại đức do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin đại đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Này sư đệ, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu đại đức do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin đại đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

Vị tỳ khưu mới tu nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với vị tỳ khưu trưởng lão như vầy: “Bạch ngài, tôi xin thỉnh cầu đại đức do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin đại đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Bạch ngài, lần thứ nhì tôi xin thỉnh cầu đại đức do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin đại đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Bạch ngài, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu đại đức do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin đại đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có một vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã cho phép thỉnh cầu hội chúng đối với năm vị, thỉnh cầu lẫn nhau đối với bốn vị, thỉnh cầu lẫn nhau đối với ba vị, thỉnh cầu lẫn nhau đối với hai vị và ta chỉ có một mình, vậy ta nên thực hiện lễ Pavāraṇā như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có một vị tỳ khưu cư ngụ. Này các tỳ khưu, chỗ nào các vị tỳ khưu thường quay trở về là ở giảng đường, hoặc ở mái che, hoặc ở gốc cây, vị tỳ khưu ấy nên quét khu vực ấy, nên đem lại nước uống nước rửa, nên sắp đặt chỗ ngồi, nên thắp sáng đèn, rồi nên ngồi xuống. Nếu có các tỳ khưu khác đi đến thì nên thực hiện lễ Pavāraṇā với các vị ấy; nếu không có ai đi đến thì nên chú nguyện rằng: ‘Hôm nay là lễ Pavāraṇā của tôi.’ Nếu không chú nguyện thì phạm tội dukkaṭa.

Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có năm vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt lời thỉnh cầu của một vị rồi thỉnh cầu hội chúng bởi bốn vị. Nếu các vị thỉnh cầu thì phạm tộidukkaṭa. Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có bốn vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt lời thỉnh cầu của một vị rồi thỉnh cầu lẫn nhau bởi ba vị. Nếu các vị thỉnh cầu thì phạm tộidukkaṭa. Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có ba vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt lời thỉnh cầu của một vị rồi thỉnh cầu lẫn nhau bởi hai vị. Nếu các vị thỉnh cầu thì phạm tộidukkaṭa. Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có hai vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt lời thỉnh cầu của một vị rồi chú nguyện bởi một vị. Nếu chú nguyện thì phạm tội dukkaṭa.”

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị phạm tội vào ngày lễ Pavāraṇā. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Vị bị phạm tội không nên tiến hành lễ Pavāraṇā’ và ta thì bị phạm tội; vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu bị phạm tội vào ngày lễ Pavāraṇā. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đắp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, nên chắp tay lên, và nên nói như vầy: – “Bạch đại đức, tôi đã phạm tội tên (như vầy), tôi xin sám hối tội ấy.” Vị kia nên nói rằng: – “(Đại đức) có thấy (tội ấy) không?” – “Thưa có, tôi thấy.” – “(Đại đức) hãy thu thúc trong tương lai.”

Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu có nghi ngờ về sự phạm tội vào ngày lễ Pavāraṇā. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đắp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, nên chắp tay lên, và nên nói như vầy: – “Bạch đại đức, tôi có nghi ngờ về sự phạm (một) tội tên (như vầy), khi nào tôi dứt khỏi hoài nghi khi ấy tôi sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong thì lễ Pavāraṇā nên được tiến hành, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Pavāraṇā chỉ vì nguyên nhân ấy.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đang được thỉnh cầu thì nhớ ra tội. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Vị bị phạm tội không nên thỉnh cầu’ và ta thì bị phạm tội; vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc đang được thỉnh cầu thì nhớ ra tội. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên nói với vị tỳ khưu bên cạnh như vầy: “Bạch đại đức, tôi đã phạm tội tên (như vầy), sau khi đứng dậy khỏi đây tôi sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong thì nên thỉnh cầu, nhưng không nên làm chướng ngại cho việc thỉnh cầu chỉ vì nguyên nhân ấy. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc đang được thỉnh cầu thì có nghi ngờ về sự phạm tội. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên nói với vị tỳ khưu bên cạnh như vầy: “Bạch đại đức, tôi có nghi ngờ về sự phạm (một) tội tên (như vầy), khi nào tôi dứt khỏi hoài nghi khi ấy tôi sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong thì nên thỉnh cầu, nhưng không nên làm chướng ngại cho việc thỉnh cầu chỉ vì nguyên nhân ấy.

Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā toàn bộ hội chúng đã phạm tội giống nhau. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên sám hối tội (đã phạm) giống nhau, không nên ghi nhận tội (đã phạm) giống nhau’ và toàn bộ hội chúng này đã phạm tội giống nhau, vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?”

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā toàn bộ hội chúng đã phạm tội giống nhau. Này các tỳ khưu, ngay trong hôm ấy các vị tỳ khưu ấy nên phái một vị tỳ khưu đi đến trú xứ lân cận (bảo rằng): “Này đại đức, hãy đi và sau khi sửa chữa tội ấy hãy quay trở về, chúng tôi sẽ sửa chữa lại tội ấy trong sự hiện diện của đại đức.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) thì hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Toàn bộ hội chúng này đã phạm tội giống nhau, khi nào (hội chúng) nhìn thấy vị tỳ khưu khác trong sạch không phạm tội khi ấy (hội chúng) sẽ sửa chữa tội ấy trong sự hiện diện của vị ấy.” Nói xong, thì lễ Pavāraṇā nên được tiến hành, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Pavāraṇā chỉ vì nguyên nhân ấy.

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā toàn bộ hội chúng có nghi ngờ về sự phạm tội giống nhau. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Toàn bộ hội chúng này có nghi ngờ về sự phạm tội giống nhau, khi nào (hội chúng) dứt khỏi hoài nghi khi ấy (hội chúng) sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong, thì lễ Pavāraṇā nên được tiến hành, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Pavāraṇā chỉ vì nguyên nhân ấy.

Dứt tụng phẩm thứ nhất.

–ooOoo–

[1] Pavāraṇā: là danh từ có ý nghĩa là ‘sự thỉnh cầu,’ và còn là tên của buổi lễ dành cho các tỳ khưu đã hoàn tất mùa (an cư) mưa thời điểm trước. Lễ này đã được dịch là Tự Tứ. Ở ngữ cảnh này, chúng tôi mạn phép giữ nguyên từ Pāli cho tên của cuộc lễ. Còn Pavāreti là động từ. Chúng tôi sẽ dịch theo hai lối là ‘thỉnh cầu’ hoặc ‘tiến hành lễ Pavāraṇā’ tùy theo ngữ cảnh.

TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *