THÁNH NHÂN KÝ SỰ

PHẨM SUDHAPIṆḌIYA

91. Ký Sự về Trưởng Lão Sudhāpiṇḍiya

  1. 1554. Đối với người đang cúng dường đến đối tượng xứng đáng sự cúng dường như là đức Phật hoặc là vị Thinh Văn đang vượt qua chướng ngại, hoặc đã vượt qua sầu muộn và than vãn, đối với người đang cúng dường đến các vị đã đạt Niết Bàn không còn hãi sợ như thế ấy thì không thể nào ước định được phước báu (của người ấy) là thế này hay thế kia, bằng bất cứ cách thức gì.
  2. Ở đây người nào có thể được làm chúa tể thậm chí của cả bốn châu lục, điều ấy không giá trị bằng một phần mười sáu của một phần nhỏ của sự cúng dường.
  3. Với tâm ý trong sạch, tôi đã dâng cúng vữa vôi ở chỗ khe nứt tại ngôi bảo tháp của bậc Tối Thượng Nhân Siddhattha.
  4. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây 94 kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc tu bổ.
  5. Trước đây ba mươi kiếp, (đã có) mười ba vị tên Paṭisaṅkhāra là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật.
  6. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Sudhāpiṇḍiya[31] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Sudhāpiṇḍiya là phần thứ nhất.

–ooOoo–

92. Ký Sự về Trưởng Lão Sucintita

  1. Được mừng rỡ, với tâm mừng rỡ tôi đã dâng cúng chiếc ghế sạch bong đến đức Phật, bậc quyến thuộc của mặt trời, đấng Bảo Hộ Thế Gian Tissa.
  2. Trước đây ba mươi tám kiếp, tôi đã là đức vua Mahāruci. Của cải đã là thừa thãi và giường nằm không phải là ít.
  3. Sau khi dâng cúng đến đức Phật chiếc ghế với tâm ý trong sạch, tôi đã thọ hưởng nghiệp của mình đã được bản thân khéo thực hiện trong thời quá khứ.
  4. Kể từ khi tôi đã dâng cúng chiếc ghế trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng chiếc ghế.
  5. Trước đây ba mươi tám kiếp, (đã có) Ruci, Uparuci, và luôn cả Mahāruci là vị thứ ba, ba vị ấy là các đấng Chuyển Luân Vương.
  6. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Sucintita[32] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Sucintita là phần thứ nhì.

–ooOoo–

93. Ký Sự về Trưởng Lão Aḍḍhacelaka

  1. Tôi bị lâm vào cảnh vô cùng khốn khổ và bị xâm nhập bởi mùi hôi thối. Tôi đã dâng cúng một nửa mảnh vải đến đức Thế Tôn Tissa.
  2. Sau khi dâng cúng một nửa mảnh vải, tôi đã sướng vui ở cõi trời một kiếp. Trong những kiếp còn lại, việc tốt lành đã được tôi cho thực hiện.
  3. Kể từ khi tôi đã dâng cúng mảnh vải trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng mảnh vải.
  4. (Trước đây) bốn mươi chín kiếp, ba mươi hai vị thống lãnh dân chúng tên Samantacchadana đã là các đấng Chuyển Luân Vương.
  5. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Aḍḍhacelaka[33] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Aḍḍhacelaka là phần thứ ba.

–ooOoo–

94. Ký Sự về Trưởng Lão Sūcidāyaka

  1. Trong thời quá khứ, tôi đã là người thợ rèn ở kinh thành Bandhumā. Tôi đã dâng cúng kim khâu đến bậc Đại Ẩn Sĩ Vipassī.
  2. Do nhờ nghiệp như thế ấy, trí tuệ (của tôi) tương đương sự tuyệt hảo của kim cương. Tôi có được sự xa lìa tham ái, tôi được giải thoát, tôi đạt được sự đoạn tận các lậu hoặc.
  3. Trong tất cả các kiếp quá khứ, hiện tại, và vị lai, tôi đã thành đạt mọi thứ nhờ vào trí tuệ; điều này là quả báu của việc dâng cúng kim khâu.
  4. Trước đây chín mươi mốt kiếp, đã có bảy vị tên Vajira là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
  5. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Sūcidāyaka[34] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Sūcidāyaka là phần thứ tư.

–ooOoo–

95. Ký Sự về Trưởng Lão Gandhamāliya

  1. Tôi đã thực hiện bảo tháp có hương thơm được bao phủ với các bông hoa nhài, được làm xứng đáng với đức Phật, được dành cho đức Thế Tôn Siddhattha.
  2. Đức Phật, đấng Lãnh Đạo cao cả của thế gian, tợ như cây cột trụ bằng vàng, được chói sáng như là bông hoa súng, được cháy rực như là ngọn lửa tế thần.
  3. Tợ như con hổ hùng tráng quý cao, tợ như con sư tử đã được sanh ra cao quý, là vị đứng đầu trong số các bậc Sa-môn, Ngài đã ngồi ở phía trước Hội Chúng tỳ khưu. Sau khi đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư, tôi đã ra đi, mặt hướng phía bắc.
  4. Kể từ khi tôi đã dâng cúng tràng hoa có hương thơm trước đây chín mươi bốn kiếp, nhờ vào quả báu của hành động đã được thực hiện đến đức Phật một cách đặc biệt, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  5. (Trước đây) ba mươi chín kiếp, đã có mười sáu vị có tên là Devagandha. Các vị ấy đã là đấng Chuyển Luân Vương.
  6. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Gandhamāliya[35] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Gandhamāliya là phần thứ năm.

–ooOoo–

96. Ký Sự về Trưởng Lão Tipupphiya

  1. Trước đây, tôi đã là thợ săn thú rừng ở khu rừng hoang rậm. Sau khi nhìn thấy cội câypāṭali có màu lục, tôi đã đặt xuống ba bông hoa.
  2. 1584. Khi ấy, tôi đã ngắt các lá cây héo úa rồi ném ra bên ngoài. Sau khi đảnh lễ cội câypāṭali tợ như (đang đảnh lễ) bậc Toàn Giác đấng Lãnh Đạo Thế Gian Vipassī là bậc trong sạch bên trong, trong sạch bên ngoài, đã khéo được giải thoát, không còn lậu hoặc đang ở trước mặt,[36] tôi đã mệnh chung ở tại nơi ấy.
  3. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường cội Bồ Đề trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường cội cây Bồ Đề.
  4. Trước đây ba mươi ba kiếp, mười ba vị vua tên Samantapāsādika đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
  5. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Tipupphiya[37] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Tipupphiya là phần thứ sáu.

–ooOoo–

97. Ký Sự về Trưởng Lão Madhupiṇḍika

  1. Tôi đã nhìn thấy bậc Ẩn Sĩ Siddhattha tối thượng, vị thọ nhận các vật hiến cúng ở trong khu rừng rậm mênh mông, ít tiếng động, không bị náo loạn.
  2. Ngài là loài Long Tượng có trạng thái Niết Bàn, như là loài bò mộng thuần chủng, tợ như vì sao osadhī đang chiếu sáng, được hội chúng chư Thiên tôn kính. Niềm hạnh phúc của tôi đã được dâng trào, ngay lập tức trí tuệ đã được sanh lên cho tôi .
  3. Sau khi dâng cúng mật ong đến bậc Đạo Sư vừa xuất khỏi thiền định, tôi đã đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư rồi ra đi, mặt hướng phía đông.
  4. (Trước đây) ba mươi bốn kiếp, tôi đã là đức vua Sudassana, và ở bữa ăn ngay lập tức có mật ong cùng với các củ sen chảy ra, có cơn mưa mật ong đã đổ xuống; điều này là quả báu của nghiệp quá khứ..
  5. Kể từ khi tôi đã cúng dường mật ong trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường mật ong.
  6. Trước đây ba mươi bốn kiếp, bốn vị Sudassana ấy đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
  7. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Madhupiṇḍika[38] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Madhupiṇḍika là phần thứ bảy.

–ooOoo–

98. Ký Sự về Trưởng Lão Senāsanadāyaka

  1. Tôi đã dâng cúng tấm thảm lá cây đến đức Thế Tôn Siddhattha. Tôi đã xếp đặt vật dụng và bông hoa ở xung quanh.
  2. Tôi đã thọ hưởng tòa lâu đài có đức tính đáng yêu vô cùng quý giá như thế. Và các bông hoa có trị giá lớn lao tuôn trào ra ở chiếc giường của tôi.
  3. Tôi nằm ở chiếc giường đã được trang hoàng, được trải lót bông hoa, và ngay lập tức có cơn mưa bông hoa đổ mưa ở giường của tôi.
  4. (Kể từ khi) tôi đã dâng cúng tấm thảm lá cây trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của tấm thảm.
  5. Trước đây vào kiếp thứ năm, bảy vị thống lãnh dân chúng tên Tiṇasantharaka ấy đã được sanh lên, các vị này là các đấng Chuyển Luân Vương.
  6. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Senāsanadāyaka[39] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Senāsanadāyaka là phần thứ tám.

–ooOoo–

99. Ký Sự về Trưởng Lão Veyyāvaccaka

  1. Đã có đoàn người vô cùng đông đúc đến với đức Thế Tôn Vipassī. Tôi là đã người làm việc phục dịch năng động trong mọi công chuyện.
  2. Và vật xứng đáng để dâng cúng đến đấng Thiện Thệ bậc Đại Ẩn Sĩ thì tôi không có. Tôi đã đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư với tâm ý trong sạch.
  3. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc phục dịch trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc phục dịch.
  4. Và trước đây vào kiếp thứ tám, tôi đã là đức vua Sucintita, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
  5. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Veyyāvaccaka[40] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Veyyāvaccaka là phần thứ chín.

–ooOoo–

100. Ký Sự về Trưởng Lão Buddhupaṭṭhāka

  1. Tôi đã là người thổi tù và vỏ ốc (thông báo) của đức Thế Tôn Vipassī. Tôi thường xuyên gắn bó với việc phục vụ đến đấng Thiện Thệ, bậc Đại Ẩn Sĩ.
  2. Quý vị hãy nhìn xem quả báu của việc phục vụ đến đấng Bảo Hộ Thế Gian như thế ấy. Có sáu mươi ngàn nhạc công luôn luôn vây quanh tôi.
  3. (Kể từ khi) tôi đã phục vụ bậc Đại Ẩn Sĩ trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc phục vụ.
  4. Trước đây hai mươi bốn kiếp, mười sáu vị vua có tên Mahānigghosa đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
  5. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Buddhupaṭṭhāka[41] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Buddhupaṭṭhāka là phần thứ mười.

–ooOoo–

Phần Tóm Lược

(Vị dâng) vữa vôi, vị đã khéo suy nghĩ, (một nửa) mảnh vải, cây kim khâu, vị có tràng hoa có hương thơm, vị dâng ba bông hoa, mật ong, chỗ nằm ngồi, việc phục dịch, và người phục vụ; (tổng cộng) có đúng sáu mươi câu kệ đã được thuật lại trong phẩm này.

Phẩm Sudhāpiṇḍiya là phẩm thứ mười.

–ooOoo–

Giờ là phần tóm lược của các phẩm

Phẩm Buddha là phẩm thứ nhất, phẩm bảo tọa sư tử, phẩm Subhūti, phẩm Kuṇḍadhāna, phẩm Upāli, phẩm vị có cây quạt, phẩm vị đã tự mình suy nghĩ, phẩm Nāgasamāla, phẩm (bông hoa)timira, với phẩm (vị dâng) vữa vôi; mười phẩm ấy có một ngàn bốn trăm câu kệ và thêm năm mươi lăm câu nữa.

Nhóm “Mười” từ phẩm Buddha.

Nhóm “Một Trăm” thứ nhất được đầy đủ.

–ooOoo–

XI. PHẨM BHIKKHĀDĀYĪ

101. Ký Sự về Trưởng Lão Bhikkhādāyaka

  1. Bậc Toàn Giác có màu da vàng chói, vị thọ nhận các vật hiến cúng, trong khi đi ra khỏi khu rừng bao la, Ngài đã đạt đến Niết Bàn, lìa khỏi tham ái.
  2. Tôi đã dâng lên một muỗng thức ăn đến bậc Đại Ẩn Sĩ Siddhattha, đấng Đại Hùng, bậc Trí Tuệ đã được an tịnh như thế ấy.
  3. Trong lúc đức Phật, đấng quyến thuộc của mặt trời, đang giúp cho đám đông dân chúng đang tiếp bước theo sau được thành tựu Niết bàn, có niềm hạnh phúc cao thượng đã sanh khởi đến tôi.
  4. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng thức ăn.
  5. Trước đây tám mươi bảy kiếp, chính bảy vị có tên Mahāreṇu là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật.
  6. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Bhikkhādāyaka đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Bhikkhādāyaka là phần thứ nhất.

–ooOoo–

102. Ký Sự về Trưởng Lão Ñāṇasaññaka

  1. Đức Phật, bậc Đại Ẩn Sĩ có màu da vàng chói như là loài bò mộng thuần chủng, tợ như giống voi mātaṅga (đến tuổi) bị tiết dục ở ba nơi.
  2. Tôi đã nhìn thấy bậc Trưởng Thượng của thế gian đang bước đi ở trên đường, đang chiếu sáng tất cả các phương tợ như mặt trăng đã được tròn đầy.
  3. Sau khi làm cho tâm được tịnh tín ở trí tuệ (của Ngài), tôi đã chắp tay lên và đã đảnh lễ đấng Siddhattha với tâm tịnh tín, với ý vui mừng.
  4. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về trí tuệ (của đức Phật).
  5. Trước đây 73 kiếp, mười sáu vị đứng đầu nhân loại đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
  6. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ñāṇasaññaka[42] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ñāṇasaññaka là phần thứ nhì.

–ooOoo–

103. Ký Sự về Trưởng Lão Uppalahatthi

  1. Lúc bấy giờ, tôi đã là người làm tràng hoa cư ngụ ở (thành phố) Tivarā. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Siddhattha.
  2. 1625. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng cúng bó bông hoa. Do nhờ tác động của nghiệp ấy, ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, tôi đều được thọ hưởng quả báu tăng trưởng của việc đã được thực hiện tốt đẹp của mình trước đây, tôi được vây quanh bởi những người tốt của xứ Malla; điều này là quả báu của việc dâng cúng đức Phật.
  3. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  4. Xét đến chín mươi bốn (kiếp) trừ ra thời hiện tại, ở tại nơi ấy đã có năm trăm vị vua tên là Najjūpama.
  5. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Uppalahatthiya đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Uppalahatthiya là phần thứ ba.

–ooOoo–

104. Ký Sự về Trưởng Lão Padapūjaka

  1. Tôi đã dâng cúng bông hoa nhài đến đức Thế Tôn Siddhattha. Tôi đã đặt xuống bảy bông hoa ở hai bàn chân (của Ngài) với sự mừng rỡ.
  2. Do việc làm ấy, giờ đây tôi vượt trội nhân loại và chư Thiên. Tôi duy trì thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.
  3. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.
  4. Trước đây vào kiếp thứ năm, đã có mười ba đấng Chuyển Luân Vương tên Samantagandha là các vị thống lãnh dân chúng (chinh phục) bốn phương.
  5. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Padapūjaka[43] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Padapūjaka là phần thứ tư.

–ooOoo–

105. Ký Sự về Trưởng Lão Muṭṭhipupphiya

  1. Lúc bấy giờ, tôi đã là người làm tràng hoa tên Sudassana. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, đấng Vô Nhiễm, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu.
  2. Tôi đã cầm lấy bông hoa nhài và đã cúng dường đến (đức Phật) Padumuttara. Có nhãn quan trong sạch, có thiện ý, tôi đã chứng đắc Thiên nhãn.
  3. Do sự cúng dường bông hoa này và do các nguyện lực của tâm, tôi đã không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.
  4. Trước đây ba mươi sáu kiếp, đã có mười sáu vị vua tên Devuttara là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
  5. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Muṭṭhipupphiya[44] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Muṭṭhipupphiya là phần thứ năm.

–ooOoo–

106. Ký Sự về Trưởng Lão Udakapūjaka

  1. (Tôi đã nhìn thấy) bậc Toàn Giác có màu da vàng chói, chói sáng như là ngọn lửa từ bơ lỏng, cháy rực như là ngọn lửa tế thần, đang di chuyển bằng đường không trung.
  2. Tôi đã dùng bàn tay múc nước và đã hắt lên không trung. Đấng Đại Hùng, đức Phật, đấng Bi Mẫn, bậc Ẩn Sĩ đã tiếp nhận.
  3. Sau khi biết được ý định của tôi, bậc Đạo Sư tên Padumuttara đứng ở trên không trung đã nói lên lời kệ này:
  4. Do sự dâng cúng nước này và do sự sanh khởi niềm phỉ lạc, (người ấy) không bị sanh vào khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.”
  5. Do việc làm ấy ở nơi đấng Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, sau khi từ bỏ sự hơn thua, tôi đã đạt được vị thế Bất Động.
  6. (Trước đây) sáu ngàn năm trăm kiếp, ba đấng Chuyển Luân Vương tên Sahassarāja ấy đã là các vị thống lãnh dân chúng (chinh phục) bốn phương.
  7. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Udakapūjaka[45] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Udakapūjaka là phần thứ sáu.

–ooOoo–

107. Ký Sự về Trưởng Lão Naḷamāliya

  1. Đức Phật Padumuttara, đấng Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy, bậc an tịnh như thế ấy đã ngồi xuống ở tấm thảm cỏ.
  2. Sau khi cầm lấy tràng hoa sậy và buộc lại thành chiếc quạt, tôi đã dâng đến đức Phật, đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy.
  3. Đấng Toàn Tri, bậc Lãnh Đạo Thế Gian đã thọ nhận chiếc quạt. Sau khi biết được ý định của tôi, Ngài đã nói lên lời kệ này:
  4. Giống như thân thể của Ta được mát mẻ, sự bực bội không được biết đến, tương tợ y như thế mong rằng tâm ngươi được giải thoát khỏi ba loại lửa.”
  5. Tất cả chư Thiên là những vị sống nương tựa vào khu rừng đã hội tụ lại. Chúng tôi lắng nghe lời dạy của đức Phật là điều làm cho người thí chủ được hoan hỷ.
  6. Ngồi xuống tại nơi ấy ở phía trước Hội Chúng tỳ khưu, đức Thế Tôn, trong lúc làm cho thí chủ được hoan hỷ, đã nói lên những lời kệ này:
  7. Do sự dâng cúng chiếc quạt này và do các nguyện lực của tâm, (người này) sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương có tên là Subbata.
  8. Nhờ vào phần dư sót của nghiệp ấy, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, (người này) sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương có tên là Māluta.
  9. Do sự dâng cúng chiếc quạt này và do tính chất đầy đủ của việc tôn kính, (người này) không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.”
  10. (Trước đây) ba mươi ngàn kiếp, ba mươi tám vị ấy tên là Subbata. (Trước đây) hai mươi chín ngàn kiếp, (đã có) tám vị tên là Māluta.
  11. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Naḷamāliya[46] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

 Ký sự về trưởng lão Naḷamāliya là phần thứ bảy.

(Tụng phẩm thứ bảy được chấm dứt).

–ooOoo–

108. Ký Sự về Trưởng Lão Āsanūpaṭṭhāpaka

  1. Sau khi đã đi sâu vào khu rừng rậm ít tiếng động, không bị náo loạn, tôi đã dâng cúng bảo tọa sư tử đến (đức Phật) Atthadassī như thế ấy.
  2. Tôi đã cầm lấy một nắm tràng hoa và đã đi nhiễu quanh Ngài. Sau khi phục vụ bậc Đạo Sư, tôi đã ra đi, mặt hướng phía bắc.
  3. Do việc làm ấy ở nơi đấng Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, tôi đã tự thân đạt được Niết Bàn, tất cả các hữu đã được xóa sạch.
  4. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây một ngàn tám trăm kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của bảo tọa sư tử.
  5. Trước đây bảy trăm kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ Sannibbāpaka, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
  6. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Āsanūpaṭṭhāpaka[47] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Āsanūpaṭṭhāpaka là phần thứ tám.

–ooOoo–

109. Ký Sự về Trưởng Lão Biḷālidāyaka

  1. Tôi sống trên tấm thảm bằng lá ở không xa núi Hi-mã-lạp. Khi ấy, tôi đạt được sự ham thích các loại cỏ và có thói quen nằm ngủ (ở thảm lá).
  2. Sau khi mang lại và sửa soạn (các) trái táo, trái bhallātaka, và trái billa, tôi đào xới các loại rễ củ kalamba, biḷālī, và takkala.
  3. Sau khi biết được ý định của tôi, đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đã đi đến khu vực của tôi.
  4. Khi bậc Long Tượng, vị Trời của chư Thiên, đấng Nhân Ngưu đi đến, tôi đã dâng lên củ biḷālī và đã đặt vào trong bình bát.
  5. Khi ấy, trong lúc làm cho tôi được hoan hỷ, bậc Đại Hùng đã thọ dụng. Sau khi thọ dụng, đấng Toàn Tri đã nói lên lời kệ này:
  6. Sau khi làm cho tâm của mình được tịnh tín, ngươi đã dâng cúng củ biḷālī đến Ta, ngươi không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.”
  7. Trước đây năm mươi bốn kiếp, (tôi đã là) vị tên Sumekhaliya, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
  8. (Đây) là lần cuối cùng của tôi trong sự luân chuyển, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Tôi duy trì thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.
  9. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Biḷālidāyaka[48] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Biḷālidāyaka là phần thứ chín.

–ooOoo–

110. Ký Sự về Trưởng Lão Reṇupūjaka

  1. Bậc Toàn Giác có màu da vàng chói tợ như mặt trời có trăm tia ánh sáng, đang làm cho tất cả các phương rực sáng tợ như mặt trăng đã được tròn đầy.
  2. Ngài được vây quanh bởi các vị Thinh Văn tợ như quả đất được bao quanh bởi các biển cả. Tôi đã cầm lấy bông hoa nāga và đã dâng các bột phấn hoa đến (đức Phật) Vipassī.
  3. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bột phấn hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  4. Trước đây bốn mươi lăm kiếp, tôi đã là vị Sát-đế-lỵ tên Reṇu, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
  5. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Reṇupūjaka[49] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Reṇupūjaka là phần thứ mười.

–ooOoo–

 Phần Tóm Lược

Vị dâng cúng thức ăn, vị suy tưởng về trí tuệ, vị liên quan đến bó (bông hoa), vị cúng dường bàn chân, vị liên quan đến nắm bông hoa, vị dâng cúng nước, vị có tràng hoa sậy, vị phục vụ, vị dâng cúng củ biḷālī, và phấn hoa; (tổng cộng) có sáu mươi sáu câu kệ.

Phẩm Bhikkhādāyī là phẩm thứ mười một.

–ooOoo–

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Thánh Nhân Ký Sự Tập I“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Thánh Nhân Ký Sự Tập I” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

Các bài viết trong sách

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *