TIỂU BỘ – BỔN SANH I: NHÓM SÁU KỆ NGÔN, PHẨM 2

Tiểu Bộ – Bổn Sanh I: Nhóm sáu kệ ngôn, Phẩm 2

▪ 1. AVĀRIYAVAGGO – PHẨM GÃ CHÈO ĐÒ

848. Māssu kujjhi bhūmipati māssu kujjhi rathesabha, kuddhaṃ appaṭikujjhanto rājā raṭṭhassa pūjito.

848. “Tâu vị chúa tể của trái đất, xin bệ hạ chớ nóng giận. Tâu đấng thủ lãnh xa binh, xin bệ hạ chớ nóng giận. Trong khi không nóng giận lại với kẻ đã nổi nóng, đức vua được xứ sở tôn vinh.

Ðừng bao giờ giận, hỡi Minh quân,
Chúa tể trần gian, chớ hận sân,
Ðừng lấy lòng sân bù mối hận
Quân vương như vậy đáng suy tôn.

849. Gāme vā yadi vāraññe ninne vā yadi vā thale, sabbattha-m-anusāsāmi māssu kujjhi rathesabha.

849. Dầu ở làng hoặc ở rừng, dầu ở đất trũng hoặc ở đất bằng, ở tất cả mọi nơi, thần khuyên bảo rằng, tâu đấng thủ lãnh xa binh, xin bệ hạ chớ nóng giận.”

Dù ở rừng xanh hoặc ở làng,
Ở trên bờ biển, giữa trùng dương,
Chớ bao giờ giận, ta khuyên nhủ
Mãi mãi từ nay, hỡi Ðại vương.

850. Avāriyapitā nāma ahu gaṅgāya nāviko, pubbe janaṃ tārayitvā pacchā yācati vetanaṃ, tenassa bhaṇḍanaṃ hoti na ca bhogehi vaḍḍhati.

850. “Người cha của nàng Avāriyā đã là người chèo đò ở sông Gaṅgā. Gã đưa người qua sông trước, sau đó mới đòi hỏi tiền công. Vì thế, có sự cãi lộn dành cho gã, và gã không làm gia tăng các của cải.

Chú A-và-ri-ya,
Thuyền lướt sóng Hằng Hà,
Trước tiên đưa du khách,
Rồi mới hỏi tiền phà,
Do vậy ăn đòn mãi,
Thật xui xẻo, dại khờ!

851. Atiṇṇaṃyeva yācassu apāraṃ tāta nāvika, añño hi tiṇṇassa mano añño hoti taresino.

851. Này người chèo đò thân mến, ông hãy đòi hỏi khi người ta còn chưa qua đến bờ bên kia. Bởi vì, người đã qua sông có ý nghĩ khác, người tầm cầu sự qua sông có ý nghĩ khác.

Hỏi tiền trước lúc chở qua sông,
Chớ đến bờ kia hỏi nhọc công,
Chú chở bá nhơn nên bá tánh,
Tánh tình thay đổi trước sau luôn.

852. Gāme vā yadi vāraññe ninne vā yadi vā thale, sabbatthamanusāsāmi māssu kujjhi nāvika.

852. Dầu ở làng hoặc ở rừng, dầu ở đất trũng hoặc ở đất bằng, ở tất cả mọi nơi, ta khuyên bảo rằng, này người chèo đò, xin ông chớ nóng giận.”

Hỏi tiền trước lúc chở qua sông,
Chớ đến bờ kia hỏi nhọc công,
Chú chở bá nhơn nên bá tánh,
Tánh tình thay đổi trước sau luôn.

853. Yāyevānusāsaniyā rājā gāmavaraṃ adā, tāyevānusāsaniyā nāviko paharī mukhaṃ.

853. “Chỉ với lời khuyên bảo, đức vua đã ban cho ân huệ một ngôi làng, với chính lời khuyên bảo ấy, người chèo đò đã đánh vào mặt.

Vua nghe lời khuyến thiện, đã ban
Lợi tức phần ta cả một làng,
Chú lái đò nghe lời khyyến thiện
Lại đánh người cho ngã xuống đàng.

1. Avāriyajātakaṃ – Bổn sanh Gã Chèo Đò.

854. Bhattaṃ bhinnaṃ hatā bhariyā gabbho ca patito chamā,  migova jātarūpena na tenatthaṃ avaḍḍhitun ”ti.

854. Bữa ăn bị vỡ tan, người vợ bị đánh, và bào thai bị sẩy rơi ở mặt đất. Tựa như con thú với khổi vàng, gã chèo đò không làm tăng trưởng lợi ích với lời khuyên bảo ấy.” 

Cơm đổ, vợ y đánh tả tơi,
Thai nhi chết trước lúc ra đời,
Lời khuyên cho kẻ này vô dụng
Như vàng ròng tặng thú hoang thôi.

Câu chuyện 376

855. Mā tāta kujjhi na hi sādhu kodho bahumpi te adiṭṭhaṃ assutañca, mātā pitā disatā setaketu ācariyamāhu disataṃ pasatthā.

855. “Này con, chớ nóng giận bởi vì sự giận dữ là không tốt,
cũng có nhiều việc con chưa được thấy và chưa được nghe.
Này Setaketu, mẹ cha là phương hướng,
các bậc xuất chúng đã nói thầy dạy học là phương hướng.

Hiền hữu, hận sân chẳng lợi gì,
Trí cao vượt quá chuyện mình nghe:
“Một phương” phải hiểu là cha mẹ,
“Thầy giáo” được dùng chí hướng kia.

856. Agārino annadapānavatthadā avhāyikā tampi disaṃ vadanti, esā disā paramā setaketu yaṃ patvā dukkhī sukhino bhavanti.

856. Các gia chủ, những người cho cơm ăn, cho nước uống và vải mặc, các bậc Thánh nhân nói hạng người ấy cũng là phương hướng. Này Setaketu, phương hướng kia là tuyệt đối (Niết Bàn), sau khi đạt đến nơi ấy, những kẻ khổ đau trở nên an lạc.”  

“Gia chủ” cho y phục, uống ăn,
Cửa thường rộng mở, chính là “phương”,
Còn “phương” trong nghĩa cao siêu nhất:
“Trạng thái vô ưu, lạc Niết-bàn”.

857. Kharājinā jaṭilā paṅkadantā dumukkharūpā ye me japanti mante, kacci nu te mānusike payoge idaṃ vidū parimuttā apāyā.

857. “Có y da dê thô cứng, tóc bện, có răng bị đóng bợn, có bộ dạng lấm lem dơ bẩn, các vị này lẩm nhẩm các chú thuật, phải chăng các vị ấy, trong sự rèn luyện thuộc về nhân gian, là những vị hiểu biết thế gian này, và đã được hoàn toàn thoát khỏi các đọa xứ?”

Hàm răng bẩn, áo da dê, tóc bện,
Miệng thì thầm kinh thánh, dáng bình an,
Chẳng từ nan mọi phương tiện hiền nhân,
Chắc đã đạt Chân như và Giải thoát.

858. Pāpāni kammāni karitva rāja bahussuto neva careyya dhammaṃ, sahassavedāpi na taṃ paṭicca dukkhā pamuñce caraṇaṃ apatvā.

858. “Tâu bệ hạ, sau khi làm các hành động xấu xa, người có nhiều kiến thức còn có thể không thực hành thiện pháp. Người đã không đạt được sự thực hành, dầu có một ngàn sự hiểu biết, không vì điều ấy mà có thể thoát khỏi khổ đau.”

Một trí nhân có thể làm ác hạnh,
Một trí nhân có thể chẳng chánh chân,
Ngàn câu Vệ-đà chẳng tạo an toàn
Khi việc hỏng, hoặc cứu người lâm nạn.

859. Sahassavedopi na taṃ paṭicca dukkhā pamuñce caraṇaṃ apatvā, maññāmi vedā aphalā bhavanti sasaññamaṃ caraṇaññeva saccaṃ.

859. “Người đã không đạt được sự thực hành, dầu có một ngàn sự hiểu biết, không vì điều ấy mà có thể thoát khỏi khổ đau. Ta nghĩ rằng các sự hiểu biết là không có kết quả, chính sự thực hành với sự tự chế ngự là chân lý.

Một trí nhân có thể làm ác hạnh,
Một trí nhân có thể chẳng chánh chân,
Ngài bảo Vệ-đà là vật không cần,
Chỉ tu tập điều thân là thiết yếu.

2. Setaketujātakaṃ – Bổn sanh Bà-la-môn Setaketu

860. Naheva vedā aphalā bhavanti sasaṃyamaṃ caraṇañceva saccaṃ, kittiṃ hi pappoti adhicca vede santaṃ punoti caraṇena danto ”ti.

860. “Các sự hiểu biết không hẳn là không có kết quả, chính sự thực hành với sự tự chế ngự là chân lý. Bởi vì người sau khi học tập các sự hiểu biết thì đạt được danh tiếng, còn với sự thực hành, người đã được huấn luyện đạt đến sự an tịnh.” 

Không, Vệ-đà không hoàn toàn vô dụng,
Dù điều thân tu tập: đạo chánh chân,
Học Vệ-đà vẫn mang lại vinh quang,
Song ta đạt Tối an nhờ chánh hạnh.

Câu chuyện 377

861. Paṅko ca kāmā palipo ca kāmā bhayañca metaṃ timūlaṃ pavuttaṃ, rajo ca dhūmo ca mayā pakāsitā hitvā tuvaṃ pabbaja brahmadatta.

861. “Các dục là bùn nhơ, và các dục là bãi lầy, và sự sợ hãi với ba gốc rễ này đã được ta nói đến, bụi bặm và khói mù đã được ta giảng giải, sau khi từ bỏ, này Brahmadatta, xin đức vua hãy xuất gia.”

Dục lạc chỉ là đám bùn dơ bẩn
“Nỗi kinh hoàng ba gốc” được gọi là,
Ta bảo rằng khói bụi với sương sa,
Hãy bỏ chúng, xuất gia lìa thế tục.

862. Gathito ca ratto adhimucchito ca kāmesvāhaṃ brāhmaṇa bhiṃsarūpaṃ, taṃ nussahe jīvikattho pahātuṃ kāhāmi puññāni anappakāni.

862. “Này Bà-la-môn, trẫm bị vướng mắc, bị luyến ái, bị mê đắm trong các dục. Là người tầm cầu mạng sống, trẫm không thể dứt bỏ dục có dáng vẻ hung tợn ấy. Trẫm sẽ làm không ít các phước thiện.”

Trẫm say đắm, lún sâu bùn tham dục,
Bà-la-môn, dục lạc đáng kinh thay,
Song yêu đời, trẫm không thể bỏ ngay,
Trẫm xin nguyện suốt đời làm thiện sự.

863. Yo atthakāmassa hitānukampino ovajjamāno na karoti sāsanaṃ, idameva seyyo iti maññamāno punappunaṃ gabbhamupeti mando.

863. “Trong khi được giáo huấn bởi người có lòng thương tưởng đến điều lợi ích, bởi người có lòng mong muốn sự tiến bộ, kẻ nào không làm theo lời giáo huấn, trong khi nghĩ rằng: ‘Chính điều này là tốt hơn,’ kẻ ngu muội đi đến thai bào lần này đến lần khác.
 

Ai bác bỏ lời bạn hiền khuyên nhủ,
Thương xót và mong bạn tránh đọa đày,
Cứ tưởng rằng: “Cõi thế tốt lành thay”,
Sẽ không dứt tái sinh đầu thai mãi.

864. So ghorarūpaṃ nirayaṃ upeti subhāsubhaṃ muttakarīsapūraṃ, sattā sakāye na jahanti giddhā ye honti kāmesu avītarāgā.

864. Kẻ ấy đi đến bào thai, ví như địa ngục, có dáng vẻ ghê rợn, nơi không đẹp đẽ đối với những người tốt lành, bị ngập tràn bởi nước tiểu và phân. Những kẻ nào có sự luyến ái chưa được xa lìa khỏi các dục, những kẻ ấy bị dính mắc, bị thèm khát, chúng không từ bỏ bụng mẹ.

Nơi đày đọa đáng kinh: phần kẻ ấy
Ðầy vật dơ, bị người thiện chê bai,
Kẻ tham kia dục vọng chẳng hề rời,
Thân xác chứa ngập đầy mầm nhục dục.

865. Mīḷhena littā ruhirena makkhitā semhena littā upanikkhamanti, yaṃ yaṃ hi kāyena phusanti tāvade sabbaṃ asātaṃ dukkhameva kevalaṃ.

865. Chúng chào đời, bị lấm lem bởi phẩn, bị bôi trét bởi máu, bị lấm lem bởi đàm. Vào khi ấy, bất cứ cái gì chúng chạm đến bằng thân, tất cả đều không có khoái lạc, toàn bộ chỉ là khổ đau.”

Ðầu máu mủ, vật hôi tanh thế tục,
Mọi hữu tình đều phải chịu tái sinh,
Những vật gì xúc chạm suốt đời mình,
Chỉ cốt để đem khổ đau trần giới.

3. Darīmukhajātakaṃ – Bổn sanh Bà-la-môn Darīmukha.

866. Disvā vadāmi nahi aññato savaṃ pubbenivāsaṃ bahukaṃ sarāmi, citrāhi gāthāhi subhāsitāhi darīmukho nijjhāpayī sumedhan ”ti.

866. “Ta nói, sau khi nhìn thấy, không phải trong khi nghe từ người khác. Ta nhớ lại vô số kiếp sống trước đây. Với những kệ ngôn phong phú đã được khéo nói, đức Phật Độc Giác Darīmukha đã giúp cho vị vua khôn ngoan thấu hiểu.” 

Ta nói lên những điều ta trông thấy,
Chứ không lo người khác nói ta nghe,
Ta nhớ rành các đời kiếp xưa kia.
Da-ri-muk đã rót vào tai bạn
Su-me-dha lắm vần kệ ngọt ngào,
Hiển bày ra cả trí tuệ tối cao.

Câu chuyện 378

867. Kākoḷā kākasaṅghā ca mayañca patataṃ varā, sabbeva sadisā homa imaṃ āgamma pabbataṃ.

867. “Các con quạ đen, các bầy quạ thường, và chúng ta là cao quý trong số các loài có cánh; toàn bộ tất cả chúng ta trở nên giống nhau về màu sắc sau khi đi đến ngọn núi này.

Hai chúng ta là loài chim ưu tú
Trên núi này bên đám quạ, diều hâu,
Cả mọi loài cùng chỉ có một màu:

868. Idha sīhā ca vyagghā ca sigālā ca migādhamā, sabbeva sadisā honti ayaṃ ko nāma pabbato.

868. Ở nơi này, các con sư tử, các con hổ, và các con chó rừng là thấp kém trong số các loài thú; toàn bộ tất cả chúng ta trở nên giống nhau về màu sắc. Ngọn núi này có tên là gì?”

Chó hạ liệt đua tranh cùng loài hổ,
Và với chúa sơn lâm: đàn sư tử
Vậy núi này có tên gọi là sao?

869. Imaṃ nerunti jānanti manussā pabbatuttamaṃ, idha vaṇṇena sampannā vasanti sabbapāṇino.

869. “Mọi người đều biết ngọn núi tên Neru này là ngọn núi hạng nhất. Tất cả các sinh vật sống ở nơi này đều có màu sắc vàng.”

Ne-ru là tên gọi Núi tối cao,
Ở nơi đây muôn loài đều vàng óng.

870. Amānanā yattha siyā santānaṃ vā vimānanā, hīnasammānanā vā ’pi na tattha vasatiṃ vase.

870. “Nơi nào có sự không kính trọng hoặc có sự xem thường đối với những người tốt, hoặc thậm chí có sự kính nể đối với những kẻ hạ liệt, không nên sống ở nơi ấy.

Hễ nơi nào thiện nhân không được trọng,
Hoặc ít hơn người khác, hãy đi liền,

871. Yatthālaso ca dakkho ca sūro bhīru ca pūjiyā, na tattha santo nivasanti avisesakare nage.

871. Nơi nào kẻ lười biếng và người khôn khéo, bậc dũng cảm và kẻ nhút nhát đều được tôn vinh, những người tốt không sống nơi đó, ở ngọn núi có sự hành xử không phân biệt.

Dẫu hiền ngu, can đảm hoặc ươn hèn,
Ðều nhất loạt được tôn sùng bình đẳng,
Thiện nhân chẳng thể cùng ngươi chung sống,
Hỡi Núi cao không phán đoán phân minh!

872. Nāyaṃ neru vibhajati hīnamukkaṭṭhamajjhime, avisesakaro neru handa neruṃ jahāmase ”ti.

4. Nerujātakaṃ – Bổn sanh Núi Neru.

872. Núi Neru này không phân loại hạ liệt, ưu tú, hay trung bình. Núi Neru có sự hành xử không phân biệt. Nào, chúng ta nên lìa bỏ núi Neru.” 

Dầu tối ưu, hạ liệt, hoặc trung bình,
Ne-ru cũng chẳng thể nào suy xét,
Vậy, hỡi ôi! Chúng ta đành từ biệt
Núi Ne-ru không biết lẽ biệt phân.

Câu chuyện 379

873. Āsāvatī nāma latā jātā cittalatāvane, tassā vassasahassena ekaṃ nibbattate phalaṃ, taṃ devā payirupāsanti tāva dūraphalaṃ satiṃ.

873. “Dây leo tên āsāvatī mọc ở khu vườn Cittalatāvana (thuộc cõi trời), một ngàn năm, nó chỉ sanh ra một trái. Chư Thiên trông chừng cây ấy cho đến khi có được trái cây lâu năm (mới ra quả ấy).

À-sà-ti mọc trên vườn Thiên giới
Một ngàn năm chỉ sinh trái một lần,
Chư Thiên hằng kham nhẫn mãi chờ trông
.

874. Āsiṃseva tuvaṃ rāja āsā phalavatī sukhā, āsiṃsetheva so pakkhī āsiṃsetheva so dijo.

874. Tâu bệ hạ, bệ hạ hãy luôn ước nguyện. Niềm ao ước có được sự kết trái là hạnh phúc. Loài chim ấy cũng luôn ước nguyện, loài lưỡng sanh ấy cũng luôn ước nguyện.

Quá hy vọng, Ðại vương, đầy ngon ngọt,
Chim hy vọng không bao giờ tổn thất,
Nó đạt tròn mong ước dẫu xa vời.

875. Tassa cāsā samijjhittha tāva dūragatā satī, āsiṃseva11 tuvaṃ rāja āsā phalavatī sukhā.

875. Và niềm ao ước của con chim đã được thành tựu dầu cho đã đi đến nơi xa xôi. Tâu bệ hạ, bệ hạ hãy luôn ước nguyện. Niềm ao ước có được sự kết trái là hạnh phúc.”

Tâu Ðại vương, quá hy vọng ngọt bùi!
Cứ hy vọng, Ðại vương, hy vọng mãi.

876. Sampesi kho maṃ vācāya na ca sampesi kammunā, mālā sereyyakasseva vaṇṇavantā agandhikā.

876. “Nàng quả thật đã làm ta hài lòng với lời nói, nhưng chưa làm hài lòng bằng hành động, tựa như tràng hoa sereyyaka có sắc không hương.

Lời nói nàng nghe quả thật dịu êm,
Song hành động không thỏa lòng mong đợi.
Hoa hữu sắc vô hương là cỏ dại,

877. Aphalaṃ madhuraṃ vācaṃ yo mittesu pakubbati, adadaṃ avissajaṃ bhogaṃ sandhi tenassa jīrati.

877. Người nào bày tỏ lời nói ngọt ngào với các bạn bè nhưng không có kết quả, không bố thí, không ban phát của cải, sự liên kết về tình bạn với người ấy bị phai nhạt.

Lời hứa kia dẫu đẹp chẳng thi hành
Với bạn thân, ta phải ném cho nhanh,
Chẳng đem tặng, cứ để dành mãi mãi,
Tình bạn kia tất nhiên là suy thoái.

878. Yaṃ hi kayirā taṃ hi vade yaṃ na kayirā na taṃ vade, akarontaṃ bhāsamānaṃ parijānanti paṇḍitā.

878. Có thể làm điều gì thì nên nói điều ấy, không thể làm điều gì thì không nên nói điều ấy. Các bậc sáng suốt biết rõ người nói mà không làm.

Ta chỉ nên hứa trước việc mình làm,
Ðừng hứa suông những việc chẳng đảm đang.
Nếu ta nói mà không làm phận sự,
Các trí nhân xét xem liền thấy rõ.

879. Balañca vata me khīṇaṃ pātheyyañca na vijjati, saṅke pāṇūparodhāya handandāni vajāmahaṃ.

879. Thật sự sức lực của trẫm bị cạn kiệt, và lương thực dự trữ không còn, trẫm hoài nghi về sự tiêu tùng của mạng sống. Nào, giờ đây, trẫm ra đi.”

Ðạo quân ta hao tổn, cạn kho lương,
Ta hoài nghi đời sống đã suy tàn,
Ðã đến lúc ra đi, đành từ biệt.

5. Āsaṅkajātakaṃ – Bổn sanh Nàng Āsaṅkā.

880. Etadeva hi me nāmaṃ yaṃ nāmasmiṃ rathesabha, āgamehi mahārāja pitaraṃ āmantayāmahan ”ti.

880. “Tâu đấng thủ lãnh xa binh, chính tiếng ấy đúng là tên của thiếp, thiếp có tên ấy. Tâu đại vương, xin bệ hạ hãy đi dến gặp cha, thiếp xin thỉnh mời.”

Tâu Ðại vương, vừa nói ra tên thiếp,
Hãy đến ngay, cha thiếp nhận cầu hôn.

Câu chuyện 380

881. Na me rucci migālopa yassa te tādisā gati, atuccaṃ tāta patasi abhūmiṃ tāta sevasi.

881. “Này Migālopa, đường bay của con như thế ấy không làm cho cha ưa thích. Này con, con bay quá cao. Này con, con lai vãng vùng ở ngoài địa phận.

Ðường con bay bổng, hỡi con thân,
Cha thấy chúng sao thật bất an,
Con vụt lên cao xa quá mức,
Vượt vùng ta sống thật an toàn.

882. Catukkaṇṇaṃva kedāraṃ yadā te paṭhavī siyā, tato tāta nivattassu māssu etto paraṃ gami.

882. Khi nào đối với con, quả đất trở thành tựa như khoảnh đất hình vuông, này con, từ nơi ấy con nên quay trở lại, chớ bay cao hơn nơi ấy.

Khi đất chỉ là một bãi vuông
Hiện ra phía trước mắt con trông,
Thì nên quay lại thôi con nhé,
Ðừng táo bạo bay vút giữa không.

883. Santi aññepi sakuṇā pattayānā vihaṅgamā, akkhittā vātavegena naṭṭhā te sassatīsamā.

883. Cũng có những loài chim khác có sự di chuyển bằng cặp cánh, có sự đi lại ở không trung, bị cuốn đi bởi sức mạnh của gió; chúng bị bỏ mạng, trong lúc nghĩ rằng mình là trường cửu.”

Chim sải cánh bay tận cõi không,
Chúng thường gặp bão tố cuồng phong,
Khi đang nỗ lực lên cao mãi,
Vì chúng kiêu căng phải mạng vong.

884. Akatvā aparaṇṇassa pitu vuddhassa sāsanaṃ, kāḷe vāte atikkamma verambānaṃ vasaṃ gato.

884. “Chim kên kên Migālopa đã không làm theo lời dạy của con chim cha già cả tên Aparaṇṇa. Nó đã vượt quá làn gió đen và đã đi vào vùng tác động của các luồng gió Veramba.

Khinh lời khuyên nhủ thật khôn ngoan
Của đấng lão thân, gặp Hắc Phong,
Tên gọi Ve-ram-bha Bão tố,

885. Tassa puttā ca dārā ca ye caññe anujīvino, sabbe vyasanamāpāduṃ anovādakare dije.

885. Các chim con, các con chim mái, và những những con chim khác sống phụ thuộc vào nó, tất cả đều gánh chịu điều bất hạnh khi con chim kên kên Migālopa không làm theo lời giáo huấn (của chim cha).

Vợ con, gia sản phải tan hoang.

6. Migālopajātakaṃ – Bổn sanh Kên Kên Migālopa

886. Evampi idha vuddhānaṃ yo vākyaṃ nāvabujjhati, atisīmaṃ caro ditto gijjhovātītasāsano, sabbe saṃkhya napapponti akatvā buddhasāsanan ”ti. 

886. Cũng y như vậy, ở đây người nào không nhận chân được lời nói của các bậc trưởng thượng, kẻ ấy có sự hành xử vượt quá giới hạn, cao ngạo, tựa như con chim kên kên đã vượt qua lời chỉ dạy. Sau khi không thực hành lời dạy của đức Phật, tất cả không đạt được sự hiểu biết.”

Do vậy những ai chẳng chú tâm
Nghe lời huynh trưởng vẫn khuyên răng,
Như chim kiêu mạn bay đi lạc,
Bất phục lệnh trên, gặp tử thần.

Câu chuyện 381

887. Kā nu kāḷena vaṇṇena na cāsi piyadassanā, kā vā tvaṃ kassa vā dhītā kathaṃ jānemu taṃ mayaṃ.

887. “Nàng nào có màu da đen, và không có vẻ đáng mến? Nàng là ai, hoặc là con gái của ai, làm thế nào chúng tôi có thể biết về nàng?”

Ai đây xanh thẩm hóa đen huyền,
Không khả ái đâu trước mắt nhìn,
Con gái nhà ai, nàng ấy nhỉ,
Làm sao ta biết, hỡi cô tiên?

888. Mahārājassahaṃ dhītā virūpakkhassa caṇḍiyā, ahaṃ kāḷī alakkhikā kāḷakaṇṇīti maṃ vidū, okāsaṃ yācito dehi vasemu tava santike.

888. “Thiếp là con gái của đại vương Virūpakkha có tánh dữ tợn. Thiếp là Kāḷī, là người nữ bất hạnh. Người ta biết rõ thiếp là Kāḷakaṇṇī. Được yêu cầu về chỗ ngụ, xin ngài hãy ban cho. Hãy để cho bọn thiếp cư ngụ bên cạnh ngài.”

Quảng Mục Thiên vương chính phụ thân,
Kà-li là Bất Hạnh, tai ương,
Xin ngài cho một phòng lưu trú
Kề cận ngài như dạ ước mong.

889. Kiṃ sīle kiṃ samācāre purise nivisase tuvaṃ, puṭṭhā me kāḷi akkhāhi yathā jānemu taṃ mayaṃ.8

89. “Nàng để ý đến người nam có giới đức gì, có tánh hạnh gì? Này Kāḷī, được tôi hỏi, xin nàng hãy giải thích cho chúng tôi có thể biết về nàng.”

Nàng vẫn sống theo giới hạnh gì?
Ðường nào nhân thế bước chân đi?
Ðây là câu hỏi xin nàng đáp,
Ta muốn chú tâm để lắng nghe.

890. Makkhī paḷāsī sārambhī issukī maccharī saṭho, so mayhaṃ puriso kanto laddhaṃ yassa vinassati.

890. “Người nam nào có sự gièm pha, ác ý, hung hăng, ganh tỵ, bỏn xẻn, lường gạt, kẻ ấy, đối với thiếp, là người nam đáng yêu; (thiếp sẽ làm cho) phần tài sản của cải đã đạt được của kẻ ấy bị tiêu hoại.”

Giả dối, buông lung, cáu kỉnh luôn,
Vong ân, tật đố, dạ xan tham,
Ác nhân, ta giúp thành công để
Thắng lợi làm cho chúng diệt vong
.

891. Kodhano upanāhī ca pisuno ca vibhedako, kaṇṭakavāco pharuso so me kantataro tato.

891. “Người nam nào giận dữ, thù hằn, đâm thọc, và là kẻ ly gián, có lời nói xóc xỉa, thô lỗ, kẻ ấy, đối với thiếp, là người nam đáng yêu hơn người kia.

Sâu hận lại còn thân thiết hơn,
Giao tranh, phỉ báng, lẫn hung tàn,

892. Ajjasuveti puriso sadatthaṃ nāvabujjhati, ovajjamāno kuppati seyyaso atimaññati.

892. Người nam không nhận chân được việc có lợi ích (nghĩ rằng): ‘Việc hôm nay, hãy để đến ngày mai,’ là kẻ bị bực tức trong khi được giáo huấn, khi dể người vượt trội mình.

Kẻ ngu không biết người lương thiện,
Oán ghét lời khuyên, lẫn thiện nhân.

893. Davappaluddho puriso sabbamittehi dhaṃsati, so mayhaṃ puriso kanto tasmiṃ homi anāmayā.

893. Người nam bị dính mắc vào các thú vui, bị các bạn bè ruồng bỏ, kẻ ấy, đối với thiếp, là người nam đáng yêu; thiếp không phải sầu khổ với kẻ ấy.”

Người nào hành động trí ngu si,
Bằng hữu thảy đều phải chán chê,
Kẻ ấy với ta là bạn đó,
Ta tìm lạc thú ở người kia.

894. Apehi etto tvaṃ kāḷi netaṃ amhesu vijjati, aññaṃ janapadaṃ gaccha nigame rājadhāniyo.

894. “Này Kāḷī, nàng hãy đi khỏi đây, các điều ấy không tìm thấy ở chúng tôi. Nàng hãy đi đến xứ sở khác, đến các thị trấn, đến các kinh thành.”

Kà-li, nàng hãy bước đi ngay,
Chẳng có gì vui thú ở đây,
Hãy đến các kinh thành xứ khác,
Biến nhanh ra khỏi chốn này.

895. Ahampi kho taṃ jānāmi netaṃ tumhesu vijjati, santi loke alakkhikā saṅgharanti bahuṃ dhanaṃ, ahaṃ devo ca me bhātā ubho naṃ vidhamāmase.

895. “Quả thật, thiếp cũng biết được chàng, các điều ấy không tìm thấy ở chàng. Ở thế gian có những kẻ không may mắn, họ tom góp được nhiều tài sản, thiếp và vị Thiên nhân anh trai của thiếp, cả hai người thiếp có thể làm tiêu tan tài sản ấy.”

Ta vẫn biết ngài rõ lắm thay,
Không gì vui thú ở nơi đây,
Những người ác tạo nhiều mưu kế,
Huynh đệ ta làm biến mất ngay.

896. Kā nu dibbena vaṇṇena pathabyā suppatiṭṭhitā, kā vā tvaṃ kassa vā dhītā kathaṃ jānemu taṃ mayaṃ.

896. “Nàng nào đã khéo hiện ra ở trái đất với màu sắc thuộc cõi Trời? Nàng là ai, hoặc là con gái của ai, làm thế nào chúng tôi có thể biết về nàng?”
 Ai đây màu sáng chói Thiên thần
Trên đất bình yên, dáng thật chân,
Con gái nhà ai, nàng ấy nhỉ,
Làm sao ta biết, hỡi tiên nương?

897. Mahārājassahaṃ dhītā dhataraṭṭhassa sirīmato, ahaṃ sirī ca lakkhī ca bhūripaññāti maṃ vidū, okāsaṃ yācito dehi vasemu tava santike.

897. “Thiếp là con gái của đại vương Dhataraṭṭha có sự vinh quang. Thiếp là Sirī, và là người nữ may mắn. Người ta biết rõ thiếp là Bhūripaññā. Được yêu cầu về chỗ ngụ, xin ngài hãy ban cho. Hãy để cho chúng tôi cư ngụ bên cạnh ngài.”

Trì Quốc Thiên vương chính phụ thân,
Ta là Hạnh Phúc, trí am tường,
Thế nhân tán tụng, xin an trú
Ðại sảnh cùng ngài dạ ước mong.

898. Kiṃ sīle kiṃ samācāre purise nivisase tuvaṃ, puṭṭhā me lakkhi akkhāhi yathā jānemu taṃ mayaṃ.

898. “Nàng để ý đến người nam có giới đức gì, có tánh hạnh gì? Này người nữ may mắn, được tôi hỏi, xin nàng hãy giải thích cho chúng tôi có thể biết về nàng.”

Nàng vẫn sống theo giới hạnh gì?
Ðường nào nhân thế bước chân đi?
Ðây là câu hỏi xin nàng đáp,
Ta muốn chú tâm để lắng nghe.

899. Yo cāpi sīte athavāpi uṇhe vātātape ḍaṃsasiriṃsape ca, khudaṃ pipāsaṃ abhibhuyya sabbaṃ rattindivaṃ yo satataṃ niyutto, kālāgatañca na hāpeti atthaṃ so me manāpo nivaseva tamhi.

899. “Người nam nào chịu đựng tất cả các sự lạnh hoặc là nóng, gió và nắng, ruồi và các loài bò sát, đói, khát, người nam nào đêm ngày thường xuyên gắn bó (với bổn phận), và không bê trễ việc lợi ích khi thời điểm đến, người ấy là ưng ý đối với thiếp; thiếp để ý đến người ấy.

Người nào dù nóng, lạnh, phong ba,
Ðói khát, ruồi gây bệnh, độc xà,
Phận sự ngày đêm làm tròn vẹn,
Ta luôn quý mến sống cùng nhà.

900. Akkodhano mittavā cāgavā ca sīlūpapanno asaṭhojubhūto, saṅgāhako sakhilo saṇhavāco mahattapattopi nivātavutti.

900. Người nam nào không giận dữ, có sự thân thiện, và có sự xả thí, có giới hạnh, không lường gạt, có bản tính ngay thẳng, là người hào phóng, nói năng tử tế, có lời nói mềm mỏng, dầu đạt được địa vị lớn lao, cũng vẫn có thái độ khiêm tốn.

Nhã nhặn, thiết thân, hạnh chánh chân,
Khoan dung, thẳng thắn, dạ bình an,
Tín thành, thiện cảm, đầy kham nhẫn,
Ta điểm tô thêm mọi phước phần,

901. Tasmāhaṃ pose vipulā bhavāmi ummī samuddassa yathāpi vaṇṇaṃ, yo cāpi mitte athavā amitte seṭṭhe sarikkhe athavāpi hīne.

901. 902. Vì thế, ở nơi người nam ấy, thiếp trở nên không còn nhỏ bé, cũng giống như đối với những người đang quan sát màu sắc của biển cả, thì các làn sóng đang tiến đến chồng lên nhau đường như có vẻ đồ sộ. Và người nam nào, đối với bạn hay thù, đối với người xuất sắc, tương đương, hoặc kém cỏi, trong lúc thực hành điều lợi ích hay là không lợi ích, có thể vận hành sự tiếp độ trực tiếp hay gián tiếp, không nói lời thô lỗ bất cứ lúc nào, thiếp là thuộc về người nam ấy, dầu đã chết hay còn sống.

Như sóng lan dần trên biển cả,
Một màu sáng chói ngập trùng dương.
Với bạn thân hay chẳng bạn thân,
Với người hơn, kém, hoặc ngang hàng,

902. Atthaṃ carantaṃ athavā anatthaṃ āvī raho saṅgahameva vatte, vācaṃ na vajjā pharusaṃ kadāci matassa jīvassa ca tassa homi.

Ác nhân hay cả cừu nhân nữa,
Dù tối trời hay giữa ánh quang,
Những kẻ nhân từ không ác ngữ
Tử sinh ta mãi kết thân bằng.

903. Etesa yo aññataraṃ labhitvā kantā sirī majjati appapañño, taṃ dittarūpaṃ visamaṃ carantaṃ karīsajātaṃ va vivajjayāmi.

903. Người nam nào đã đạt được một đức tính nào đó trong số các đức tính này, là kẻ thiểu trí (nghĩ rẵng): ‘Nàng Sirī đáng yêu say mê ta,’ thiếp tránh xa kẻ có bản chất ngạo mạn, đang hành xử không nhất quán ấy, tựa như tránh xa đống phân.

Song nếu kẻ ngu được mến thương
Lại sinh ngạo mạn với kiêu căng,
Con đường bất thiện đầy ngoan cố,
Ta tránh xa như một vũng bùn.

7. Sirikālakaṇṇijātakaṃ – Bổn sanh Tiên Nữ Sirī và Kālakaṇṇī.

904. Attanā kurute lakkhiṃ alakkhiṃ kurutattanā, na hi lakkhiṃ alakkhiṃ vā añño aññassa kārako ”ti. 

904. Mỗi người tự bản thân tạo ra sự may mắn, tự bản thân tạo ra sự bất hạnh, bởi vì không ai là người tạo ra may mắn hay bất hạnh cho người khác.” 

Họa, phúc nghiệp riêng mỗi bản thân,
Chẳng ai tạo nghiệp của tha nhân,
Một người không thể gây tai họa,
Hạnh phúc cho ai ở cõi trần.

Câu chuyện 382

905. Sucittapattacchadana tambacūḷa vihaṅgama, oroha dumasākhāya mudhā bhariyā bhavāmi te.

905. “Hỡi loài chim có lớp vỏ bọc bằng lông với màu sắc sặc sỡ, có mồng đỏ chói, từ nơi cành cây chàng hãy đáp xuống, thiếp sẽ là người vợ không sính lễ của chàng.”Chim có cánh hồng sáng rực sao,
Mồng cao rũ xuống đẹp dường bao,
Thiếp nay ước muốn nên chồng vợ,
Bỏ cây xuống với thiếp đây nào!

906. Catuppadī tvaṃ kalyāṇi dvipadāhaṃ manorame, migī pakkhī asaṃyuttā aññaṃ pariyesa sāmikaṃ.

906. “Này người đẹp, nàng có bốn chân. Này cô nàng quyến rũ, ta có hai chân. Loài thú và loài chim không kết hợp được, nàng hãy tìm kẻ khác làm chồng.”

Cô nàng quyến rủ, đẹp xinh ôi!
Nàng có bốn chân, tôi chỉ hai,
Chim, thú không bao giờ kết hợp,
Hãy tìm chàng khác thật cân đôi.

907. Komārikā te hessāmi mañjukā piyabhāṇinī, vinda maṃ ariyena vedena sāvayā maṃ yadicchasi.

907. “Thiếp sẽ là người vợ trinh nguyên của chàng, có giọng nói ngọt ngào, có lời nói đáng yêu. Chàng hãy tiếp nhận thiếp với niềm vui thánh thiện, nếu chàng muốn chàng có thể tuyên bố thiếp là nữ tỳ.”

Thiếp dâng chàng sắc đẹp thanh xuân,
Lời nói dịu êm nhã nhặn luôn,
Làm vợ quý yêu hay thị nữ,
Tùy nghi đối xử hợp phu quân.

908. Sakuṇādini lohitape cori kukkuṭapothini, na tvaṃ ariyena vedena mamaṃ bhattāramicchasi.

908. “Này cô nàng hút máu các loài chim, này nữ tặc, này cô nàng sát hại gà trống, nàng muốn ta làm chồng không vì niềm vui thánh thiện.”

Con Mèo hút máu họ nhà Gà,
Cướp giết bạo tàn thật xấu xa,
Vợ quý ư? Không hề quý trọng
Trong lòng Mèo lúc tán dương ta.

909. Evampi caturā nārī disvāna pavaraṃ naraṃ, nenti saṇhāhi vācāhi biḷārī viya kukkuṭaṃ.

909. “Cũng tương tự như vậy, những người nữ khôn lanh, sau khi nhìn thấy người nam cao quý, thì dụ dỗ bằng những lời nói mềm mỏng, ví như con mèo cái dụ dỗ con gà trống.

Vậy khi chúng thấy một anh hùng,
Cả bầy nhi nữ thật tinh khôn
Cố tìm cách để hòng lôi cuốn.
(Cứ xem Mèo cái với Kê vương).

910. Yo ve uppatitaṃ atthaṃ na khippamanubujjhati, amittavasamanveti pacchā ca-m-anutappati.

910. Thật vậy, người nào không mau chóng nhận biết sự việc đã nảy sanh, rồi đi theo sự khống chế của kẻ thù, về sau sẽ hối tiếc.

Ai không đối phó trước nguy nan
Đành phải ngã dài ở dưới chân
Cúi mặt phục tùng ngay địch thủ,
Trong niềm uất hận lẫn đau buồn.

8. Kukkuṭajātakaṃ – Bổn sanh Con Gà Trống.

911. Yo ca uppatitaṃ atthaṃ khippameva nibodhati, muccate sattusambādhā kukkuṭova biḷariyā ”ti.

911. Và người nào nhận chân sự việc đã nảy sanh thật mau chóng, người ấy thoát khỏi sự ngược đãi của kẻ thù, tựa như con gà trống với con mèo cái vậy.” 

Người kịp thời xem xét sự tình
Gian nguy xảy đến số phần mình,
Như Gà trống lánh xa Mèo cái,
Cừu địch kia, cần tránh thật nhánh.

Câu chuyện 383

912. Dhammaṃ caratha ñātayo dhammaṃ caratha bhaddaṃ vo, dhammacārī sukhaṃ seti asmiṃ loke paramhi ca.

912. “Hãy thực hành đạo đức, này các bà con. Hãy thực hành đạo đức, điều tốt lành sẽ đến với quý vị. Người thực hành đạo đức nằm ngủ thoài mái ở đời này và đời sau.”

Hành trì đức hạnh, hỡi chư huynh,
Cầu chúc chư huynh đệ phước lành!
Ta nói lại: hành trì đức hạnh
Ðời này, đời kế đạt an bình.

913. Bhaddako vatayaṃ pakkhī dijo paramadhammiko, ekapādena tiṭṭhanto dhammamevānusāsati.

913. “Con chim này quả thật là bậc hiền thiện, loài lưỡng sanh, bậc đạo đức cao tột. Trong khi đứng bằng một chân, gã chỉ dạy thuần đạo đức.”

Chim này chánh hạnh, phước ân tràn,
Thuyết giảng chỉ cần đứng một chân.

914. Nāssa sīlaṃ vijānātha anaññāya pasaṃsatha, bhutvā aṇḍañca chāpe ca dhammo dhammoti bhāsati.

914. “Các người không nhận biết bản tính của con thú này, đã không biết các ngươi lại ca ngợi. Sau khi ăn trứng và các chim con, nó luôn nói: ‘Đạo đức, đạo đức.’

Các con không biết tính chim này
Khi tán các con, ngu dại thay!
“Ðức hạnh” nó rao, “đức hạnh” mãi,
Rồi ăn cả trứng lẫn con bầy!

915. Aññaṃ bhaṇati vācāya aññaṃ kāyena kubbati, vācāya no ca kāyena na taṃ dhammaṃ adhiṭṭhito.

915. Nó nói điều khác bằng lời nói, nó làm bằng thân điều khác. Bằng lời nói chứ không bằng thân, nó không đứng vững ở đạo đức ấy.

Những điều nó giảng, giọng thanh thanh,
Song bọn chúng không thể thực hành,
“Ðức hạnh” nó ồn ào trống rỗng,
Chánh chân của nó chẳng chân thành.

916. Vācāya sakhilo manoviduggo channo kūpasayova kaṇhasappo, dhammadhajo gāmanigamāsu sādhu sammato dujjāno purisena bālisena.

916. Nó có sự tử tế về lời nói, có sự khúc mắc về tâm ý, tựa như con rắn độc màu đen ẩn nấp ở trong hang hốc, có biểu hiện đạo đức, là người tốt lành ở trong làng và thị trấn, được công nhận là khó có thể biết được bởi người thiểu trí.

Giả dối trong tâm, lưỡi phỉnh phờ,
Nó là rắn hổ lén bò vô:
Nó nhờ áo khoác ngoài lừa gạt
Dân chúng, vì chúng quá dại khờ.

9. Dhammadhajajātakaṃ – Bổn sanh Biểu Hiện Đạo Đức.

917. Imaṃ tuṇḍehi pakkhehi pādā cimaṃ viheṭhatha, chavaṃ himaṃ vināsetha nāyaṃ saṃvāsanāraho ”ti.

917. Hãy tấn công con chim này với các mỏ, với các cánh, và bắng các bàn chân. Hãy tiêu diệt loài tệ hại này. Hạng này không xứng đáng sống chung với chúng ta.” 

Lấy mỏ, cánh lôi nó đánh ngay,
Xé tan nó với móng chim này!
Ðời tàn cho đáng, tên hèn hạ
Phản bội niềm tin chính nghĩa đây.

Câu chuyện 384

918. Sace brāhmaṇa gacchasi sāketaṃ añjanāvanaṃ, vajjāsi nandiyaṃ nāma puttaṃ asmāka-orasaṃ, mātā pitā ca te vuddhā te taṃ icchanti assituṃ.

918. “Này Bà-la-môn, nếu ngài đi đến khu rừng Añjanā ở Sāketa, xin ngài nói với con trai ruột của chúng tôi tên là Nandiya rằng: ‘Mẹ và cha của ngươi đã già, các vị ấy mong muốn được gặp ngươi.’”

Bà-la-môn, ngài có vào ngự uyển,
Khi ngài đi qua xứ Oudh, kinh đô,
Xin tìm Nan-di yêu dấu của ta
Và nhắn gửi một đôi lời chân thật:
Qua tháng năm cha mẹ già kiệt lực,
Lòng khát khao mong mỏi đợi con về.

919. Bhuttā mayā nivāpāni rājino pāṇabhojanaṃ, taṃ rājapiṇḍaṃ avabhottuṃ nāhaṃ brāhmaṇamussahe.

919. “Tôi đã thọ dụng các vật nuôi dưỡng, nước uống và thức ăn của đức vua, này Bà-la-môn, tôi không thể ăn không vật thực ấy của đức vua mà không đền đáp.

Ta đội ơn vua, ăn uống tràn trề,
Chưa đi được, chờ khi làm ích lợi.

920. Odahissāmahaṃ passaṃ khurappāṇissa rājino, tadāhaṃ sukhito mutto api passeyya mātaraṃ.

920. Tôi sẽ phô bày phần bên hông về phía cung tên của đức vua, khi ấy tôi được tự do, thoải mái, và tôi có thể gặp gỡ mẹ của tôi.”

Trước cung vua, ta sẽ giơ sườn đợi,
Rồi về thăm cha mẹ để thanh minh.

921. Migarājā pure āsiṃ kosalassa niketave, nandiyo nāma nāmena abhirūpo catuppado.

921. “Trước đây, ta đã là con nai chúa ở Niketava thuộc xứ Kosala, tên là Nandiya, là loài bốn chân có vóc dáng xinh đẹp.

Xưa ta chính Lộc vương trong xứ Oudh,
Tánh và danh là Hoan hỷ, Nan-di

922. Taṃ maṃ vadhitumāgañji dāyasmiṃ añjanāvane, dhanuṃ adejjhaṃ katvāna usuṃ sandhāya kosalo.

922. Vị vua xứ Kosala đã đi đến để giết chết chính ta ở vườn nai thuộc khu rừng Añjanā. Vị vua đã kéo căng dây cung và kết hợp với mũi tên.

Muốn giết ta trong ngự uyển, ngày kia
Ðức vua đến, tên nằm trên dây sẵn.

10. Nandiyamigajātakaṃ – Bổn sanh Con Nai Nandiyamiga.

923. Tassāhaṃ odahiṃ passaṃ khurappāṇissa rājino, tadāhaṃ sukhito mutto mātaraṃ daṭṭhumāgato ”ti.

923. Ta đã phô bày phần bên hông về phía cung tên của vị vua ấy, khi ấy ta được tự do, thoải mái, ta đã đi đến gặp gỡ mẹ của ta.” 

Ta phơi sườn trước tên vua đòi bắn,
Rồi về thăm cha mẹ để thanh minh.

Câu chuyện 385

Avāriyavaggo paṭhamo.

*****

Phẩm Gã Chèo Đò là thứ nhất.

*****

TASSUDDĀNAṂ

Atha kujjharathesabhaketuvaro darīmukhasanerutā ca puna, āsānandasirī ca sucittavaro athadhammikanandi migena dasa.

–ooOoo– 

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

Giờ chuyện đấng thủ lãnh xa binh nóng giận, chuyện Setaketu, Bà-la-môn Darīmukha, và núi Neru lần nữa, niềm ao ước, không hoan hỷ, tiên nữ Sirī, và chuyện màu sắc sặc sỡ, rồi bậc đạo đức cao tột, với con nai Nandiya, là mười.

–ooOoo–

▪ 2. SENAKAVAGGO – PHẨM VUA SENAKA

924. Saccaṃ kirevamāhaṃsu bhastaṃ bāloti paṇḍitā, passa bālo rahokammaṃ āvikubbaṃ na bujjhati.

924. “Nghe nói sự thật là như vầy: Các bậc sáng suốt đã nói rằng: ‘Loài dê là ngu dốt.’ Hãy nhìn xem kẻ ngu dốt không biết rằng mình đang làm một cách lộ liễu cái việc phải làm kín đáo.”

Bậc trí bảo dê quả thật ngu,
Những lời chân thật tự bao giờ,
Dê này không biết mình phô diễn
Những việc phải làm kín đáo ư?

925. Tvaṃ nu kho samma bālosi kharaputta vijānahi, rajjuyā hi parikkhitto vaṅkoṭṭho ohito mukho.

925. “Này bạn, bạn thật là ngu si. Này lừa, bạn hãy biết thế. Bởi vì bạn bị buộc quanh bởi sợi dây thừng, cái hàm bị vặn vẹo, cái miệng bị bịt lại.

Này ông Lừa hỡi, nghĩ xem nào,
Rồi thấy là ông ngốc biết bao,
Ông bị buộc dây thừng trói chặt,
Hàm ông tréo, mắt chẳng nhìn cao.

926. Aparampi samma te bālyaṃ yo mutto na palāyasi, so ca bālataro samma yaṃ tvaṃ vahasi senakaṃ.

926. Này bạn, bạn còn có sự ngu dốt khác nữa là bạn không tẩu thoát khi được tự do. Và này bạn, gã Senaka mà bạn chở đi còn ngu dốt hơn bạn nữa.”

Khi được thả ra chẳng chạy ngay,
Vì ông quen thói thật ngu thay,
Vua Se-nak ấy ông chuyên chở
Còn thật ngu hơn cả chú mày!

927. Yannu samma ahaṃ bālo ajarāja vijānahi, atha kena senako bālo taṃ me akkhāhi pucchito.

927. “Này bạn, việc tôi là ngu dốt, này dê chúa, bạn biết rồi. Còn vì sao vua Senaka là ngu dốt? Được hỏi, xin bạn hãy giải thích về điều ấy cho tôi.”

Vậy này Dê chúa, dám thưa ngài,
Tôi đại ngu, ngài hiểu quá rồi,
Còn chuyện vua Se-nak xuẩn ngốc,
Làm ơn giải thích rõ cho tôi.

928. Uttamatthaṃ labhitvāna bhariyāya yo padassati, tena jahissatattānaṃ sā cevassa na hessati.

928. “Sau khi nhận được chú thuật có lợi ích tối cao, vua Senaka sẽ ban tặng cho vợ. Vì thế, vua sẽ mất mạng sống, còn hoàng hậu sẽ không thuộc về vua nữa.”

Vua có một kho báu hiển linh,
Lại vì hoàng hậu ném cho nhanh,
Không khuyên hoàng hậu trung thành được,
Ðành phải hy sinh tính mạng mình.

1. Kharaputtajātakaṃ – Bổn sanh Con Lừa.

929. Na ve piyaṃ meti janinda tādiso attaṃ niraṃ katvā piyāni sevati, attāva seyyo paramāva seyyo labbhā piyā ocitatthena pacchā ”ti.

929. “Tâu chúa thượng, thật sự người như bệ hạ đây không thể nghĩ rằng: ‘Đây là vật yêu quý của ta,’ rồi xem nhẹ bản thân và phục vụ các vật yêu quý ấy. Chính bản thân là tốt hơn, và tốt hơn vật yêu quý khác, bởi vì vật yêu quý là có thể đạt được sau này bằng cách tuyển chọn.”

 Như ngài ở địa vị vương quân
Có thể mang nhiều nỗi ước mong,
Song phải bỏ ngay niềm ước vọng,
Nếu thân ngài phải chịu thương vong.
Ðời người quả thật là quan trọng
Còn kiếm gì cao hơn bản thân?
Nếu tính mạng duy trì trọn vẹn,
Thì không cần ước vọng cầu mong!

Câu chuyện 386

930. Akakkasaṃ apharusaṃ kharadhotaṃ supāsiyaṃ, sukhumaṃ tikhiṇaggañca ko sūciṃ ketumicchati.

930. “Người nào muốn mua cây kim không sần sùi, không thô, được mài với đá mài, có thể xuyên thủng dễ dàng, mảnh mai, và có mũi nhọn hoắt?

Xâu nhanh, trơn láng, thẳng ngay,
Ðược bôi bóng nhoáng bột mài xanh xanh,
Ðầu kim sắc nhọn, thanh thanh,
Kim đây, ai muốn mua mình trao tay?

931. Sumajjañca supāsañca anupubbaṃ suvattitaṃ, ghanaghātimaṃ paṭitthaddhaṃ ko sūciṃ ketumicchati.

931. Người nào muốn mua cây kim khéo được mài bóng, và có sự xuyên thủng suôn sẻ, được di chuyển nhẹ nhàng theo tuần tự, đâm thủng được vật cứng, và rắn chắc?”

Xâu nhanh, vững mạnh, thẳng ngay,
Thân kim khèo luyện tròn đầy đẹp sao!
Sắt kia cũng sẽ xuyên vào,
Kim đây ai muốn mua nào ai ơi!

932. Itodāni patāyanti sūciyo baḷisāni ca, koyaṃ kammāragāmasmiṃ sūciṃ vikketumicchati. 

932. “Hiện nay, các loại kim và các loại lưỡi câu đều được bán ra từ nơi này. Người này là ai mà muốn bán kim ở ngôi làng của các thợ rèn?

Móc câu ta đã bán rồi,
Làng trên xóm dưới ai người chẳng hay?
Thợ rèn ta ở thành này,
Còn ai bán được kim may nữa à?

933. Ito satthāni gacchanti kammantā vividhā puthū, koyaṃ kammāragāmasmiṃ sūciṃ vikketumarahati.

933. Từ nơi này, sản xuất ra các vũ khí, các dụng cụ nhiều loại khác nhau. Người này là ai mà muốn bán kim ở ngôi làng của các thợ rèn?”
Nghề rèn nổi tiếng chúng ta,
Việc làm khí cụ ai mà sánh ngang?
Thợ rèn ta ở trong làng,
Ai còn đem bán kim mang tới mình?

934. Sūciṃ kammāragāmasmiṃ vikketabbā pajānatā, ācariyāva jānanti kammaṃ sukatadukkataṃ.

934. “Người có tài trí nên bán kim ở ngôi làng của các thợ rèn. Chính các bậc thầy biết được sản phẩm đã được làm tốt hay làm vụng.

Thợ rèn ta ở trong thành,
Nhưng người tài bán kim mình mới hay!
Tổ sư nghề sẵn trong tay,
Món hàng đệ nhất mua ngay kẻo hoài!

2. Sūcijātakaṃ – Bổn sanh Cây Kim.

935. Imañca te pitā bhadde sūciṃ jaññā mayā kataṃ, tayā ca maṃ nimanteyya yañcatthaññaṃ ghare dhanan ”ti.

935. Này cô nương, và nếu cha của nàng biết được cây kim này đã được tôi làm, ông sẽ gã nàng cho tôi cùng với các tài sản khác có ở trong nhà.” 

Một khi nghiêm phụ biết rồi
Cây kim này đã do tôi tự làm,
Tôn ông chắc chắn sẽ ban
Gia tài sản nghiệp cùng nàng cho tôi!

Câu chuyện 387

936. Navachandake dāni dīyati puṇṇāyaṃ doṇi suvāminī ṭhitā, bahuke jane pāsapāṇike no ca kho me paṭibhāti bhuñjituṃ.

936. “Giờ đây, được cho ăn cách thức mới, cái máng thức ăn thì đầy ắp, bà chủ thì đứng gần, có nhiều người với bẫy thú ở bàn tay, và em thật sự không có hứng thú để ăn.

Em lo chuyện lạ hôm nay,
Mẹ mình đứng cạnh máng đầy thức ăn,
Người cầm thòng lọng đứng gần,
Ðến ăn chắc hẳn hại thân mình rồi.

937. Tasasi bhamasi leṇamicchasi attāṇosi kuhiṃ gamissasi, appossukko bhuñja tuṇḍila maṃsatthāya hi posiyāmase.

937. “Em run rẩy, em đi loanh quanh, em tìm nơi trú ẩn, em không có sự nương tựa, vậy em sẽ đi đâu? Này heo Tuṇḍila, em hãy vô tư lự, em hãy ăn đi,
chúng ta được nuôi dưỡng chỉ vì mục đích lấy thịt.

Hãi kinh, cầu cứu, run hoài,
Không ai cứu giúp em đòi trốn đâu?
Ăn đi, Heo bé chớ sầu,
Mẹ nuôi ta béo vì cầu thịt heo!

938. Ogaha rahadaṃ akaddamaṃ sabbaṃ sedamalaṃ pavāhaya, gaṇhāhi navaṃ vilepanaṃ yassa gandho na kadāci chijjati.

938. Em hãy lội xuống hồ nước không có bùn. Em hãy tẩy sạch tất cả mồ hôi và cáu bẩn. Em hãy lấy dầu thoa mới, loại dầu có mùi thơm không bao giờ bị phai nhạt.”

Nhào vô ao nước trong veo,
Mồ hôi cấu uế thật nhiều, rửa đi!
Rồi em sẽ thấy diệu kỳ,
Dầu thơm mát dịu không hề biến suy.

939. Katamo rahado akaddamo kiṃsu sedamalanti vuccati, katamañca navaṃ vilepanaṃ kassa gandho na kadāci chijjati.

939. “Hồ nước nào là không có bùn? Cái gì được gọi là mồ hôi và cáu bẩn? Và dầu thoa mới loại nào, mùi thơm của cái gì không bao giờ bị phai nhạt?”

Gì là ao nước pha lê,
Mồ hôi cấu uế nói về điều chi?
Dầu xoa kỳ diệu là gì?
Mùi hương ngào ngạt chẳng khi nào tàn?

940. Dhammo rahado akaddamo pāpaṃ sedamalanti vuccati, sīlañca navaṃ vilepanaṃ tassa gandho na kadāci chijjati.

940. “Giáo Pháp là hồ nước không có bùn. Việc xấu xa nói đến mồ hôi và cáu bẩn. Và giới hạnh là dầu thoa mới, mùi thơm của giới hạnh không bao giờ bị phai nhạt.

Pháp là ao nước trong ngần,
Mồ hôi cấu uế lỗi lầm mê si,
Dầu thơm đức hạnh tẩm đi,
Mùi hương mãi mãi chẳng hề tàn phai.

3. Tuṇḍilajātakaṃ – Bổn sanh Con Heo Tuṇḍila.

941. Nandanti sarīraghātino na ca nandanti sarīradhārino, puṇṇāya ca puṇṇamāsiyā ramamānāva jahanti jīvitan ”ti. 

941. Những kẻ có sự hủy hoại mạng sống vui mừng, và những kẻ có sự duy trì mạng sống không vui mừng. Những người thật sự vui thích với sự đầy đủ về giới hạnh buông bỏ mạng sống vào những ngày trai giới.” 

Người không sinh mạng là vui,
Người còn sinh mạng bời bời lo toan.
Con người phải chết, chớ buồn,
Hãy vui như hội trăng tròn quanh năm.

Câu chuyện 388

942. Siṅgī migo āyatacakkhunetto aṭṭhittaco vārisayo alomo, tenābhibhūto kapaṇaṃ rudāmi hare sakhā kissa nu maṃ jahāsi.

942. “Con vật có càng, có mắt lồi, có lớp vỏ cứng, sống ở trong nước, không có lông. Bị nó chế ngự, tôi khóc lóc thảm thương. Nè, này bạn, tại sao bạn lại bỏ rơi tôi?”

Một chú càng vàng với mắt lồi,
Ở hồ, trần trụi, bọc xương mai,
Chụp tôi, nghe tiếng tôi kêu thét
Sao bỏ bạn thân quý mến ngài?

943. So passasanto mahatā phaṇena bhujaṅgamo kakkaṭamajjhapatto, sakhā sakhāraṃ paritāyamāno bhujaṅgamaṃ kakkaṭako gahesi.

943. “Là bạn bè đang bảo vệ bạn bè, con rắn ấy, trong lúc thở phì phì bằng cái mang lớn, đã lao đến con cua. Con cua đã kẹp lấy con rắn.”

Con Rắn bỗng nhào lên chú Cua,
Nó không muốn bỏ bạn bây giờ:
Rắn giương mào rộng vừa lao đến,
Cua tấn công ngay chú Rắn bò.

944. Na vāyasaṃ no pana sapparājaṃ ghāsatthiko kakkaṭako adeyya, pucchāmi taṃ āyatacakkhunetta atha kissa hetumha ubho gahītā.

944. “Con cua đã kẹp lấy con quạ và luôn cả con rắn chúa không phải vì mục đích thức ăn. Này con thú có mắt lồi, ta hỏi ông rằng: Vì nguyên nhân gì mà cả hai chúng tôi bị ông kìm kẹp?”

Chẳng phải vì lo kiếm miếng mồi
Mà Cua bắt Rắn, Quạ trên trời,
Mắt lồi hãy nói cho tôi biết
Sao chú lại kềm kẹp chúng tôi?

945. Ayaṃ puriso mama atthākāmo yo maṃ gahetvāna dakāya neti, tasmiṃ mate dukkhamanappakaṃ me ahañca eso ca ubho na homa.

945. “Người này có sự mong muốn điều lợi ích cho tôi; vị này đã vớt tôi lên và đưa ra khỏi hồ nước. Nếu vị ấy chết đi, khổ đau sẽ có cho tôi không phải là ít. Tôi và vị này không phải là hai người.

Ngài đem ta tự dưới ao kia,
Bày tỏ ân cần, quý mến ta,
Nếu chết, thời ta đây khổ não,
Ngài và ta, chỉ một thôi mà.

946. Mamañca disvāna pavaḍḍhakāyaṃ sabbo jano hiṃsitumeva micche, sāduñca thullañca muduñca maṃsaṃ kākāpi maṃ disvā viheṭhayeyyuṃ.

946. Và sau khi nhìn thấy tôi có thân thể phát triển, tất cả mọi người đều mong muốn giết chết tôi ngay, (nghĩ rằng) thịt con cua này ngọt, béo, và mềm mại. Các con quạ cũng vậy, sau khi nhìn thấy, cũng sẽ hãm hại tôi.”

Thấy ta nay đã lớn lên dần,
Ai nấy đều mong giết hưởng phần:
Cua mập ngọt ngon đầy mỹ vị,
Nhìn ta, Quạ muốn xé tan thân.

947. Sace tassa hetumha ubho gahītā uṭṭhātu poso visamācamāmi, mamañca kākañca pamuñca khippaṃ pure visaṃ gāḷhamupeti maccaṃ.

947. “Nếu cả hai chúng tôi bị ông kìm kẹp vì nguyên nhân người ấy, thì hãy giải độc cho người ấy, tôi sẽ hút ra chất độc. Và hãy lập tức phóng thích tôi và con quạ, trước khi chất độc ngấm sâu vào trong người ấy.”

Nếu Cua kẹp Rắn, Quạ vì ngài,
Ta sẽ rút chất độc ấy thôi,
Ngài tỉnh dậy, mau tha Rắn, Quạ,
Thấm sâu chất độc, ắt tàn đời.

948. Sappaṃ pamokkhāmi na tāva kākaṃ paṭibaddhako hohiti tāva kāko, purisañca disvāna sukhiṃ arogaṃ kākaṃ pamokkhāmi yatheva sappaṃ.

948. “Tôi sẽ phóng thích con rắn, nhưng con quạ thì chưa; hãy để con quạ là vật được giữ lại làm con tin. Và sau khi nhìn thấy người ấy khỏe khoắn, không bệnh, tôi sẽ phóng thích con quạ, giống y như con rắn vậy.”

Ta thả Rắn, không thả Quạ đây,
Con tin là Quạ buộc nơi này,
Ta không thả nó đi nơi khác,
Cho đến khi an ổn với ngài.

4. Suvaṇṇakakkaṭakajātakaṃ – Bổn sanh Con Cua Vàng.

949. Kāko tadā devadatto ahosi māro pana kaṇhasappo ahosi, ānandabhaddo kakkaṭako ahosi ahaṃ tadā brāhmaṇo homi satthā ”ti.

 949. “Khi ấy, con quạ đã là Devadatta, còn Ma Vương đã là con rắn độc màu đen, Ānanda hiền thiện đã là con cua, khi ấy, ta đã là vị đạo sư Bà-la-môn.”

Con Rắn hổ là chính Ác ma,
Đề-bà-đạt, ấy Quạ đen kia,
A-nan thiện hạnh là Cua nọ,
Ðiền chủ La-môn ấy chính Ta.

Câu chuyện 389

950. Sakuṇo mayhako nāma girisānudarīcaro, pakkaṃ pipphalim āruyha mayhaṃ mayhanti kandati.

950. “Loài chim tên Mayhaka có sự sinh sống ở hang động của đồi núi. Nó đậu ở cây pipphalī có trái chín và kêu khóc ‘mayhaṃ,mayhaṃ.’[1]

[1] Loài chim này có tiếng kêu là ‘mayhaṃ, mayhaṃ’ nên được đặt tên là Mayhaka (JaA. iii, 302). Từ Pāḷi ‘mayhaṃ’ có nghĩa là ‘của tôi.’

Có con chim được gọi May-ha,
Nó sống trong hang dưới núi xa,
Trái chín trên cây sung cổ thụ,
“Của ta, ta nữa”, nó kêu la.

951. Tassevaṃ vilapantassa dijasaṅghā samāgatā, bhutvāna pipphaliṃ yanti vilapitveva so dijo.

951. Trong khi nó đang kêu than như vậy, có bầy chim đã tụ tập lại. Sau khi ăn xong, chúng bay đến cây pipphalī khác. Con chim ấy chỉ có kêu than.

Bầy chim kia lúc nó kêu vang,
Tụ tập chung quanh cả một đàn,
Ăn trái thỏa lòng tuy thấy thế,
May-ha vẫn cất tiếng kêu than.

952. Evameva idhekacco saṅgharitvā bahuṃ dhanaṃ, nevattano na ñātīnaṃ yathodhiṃ paṭipajjati.

952. Tương tự y như vậy, ở đây, một người nào đó, sau khi gom góp được nhiều tài sản, nhưng đối với bản thân cũng như đối với các thân quyến lại không phân chia theo từng phần phù hợp để sử dụng.

Cũng vậy, người kia lắm bạc vàng,
Nhưng không chia sẻ giữa thân bằng,

953. Na so acchādanaṃ bhattaṃ na mālaṃ na vilepanaṃ, anubhoti sakiṃ kiñci na saṅgaṇhāti ñātake.

953. Người ấy không một lần hưởng thụ bất cứ vật gì về y phục, vật thực, tràng hoa, dầu thoa, và cũng không giúp đỡ cho các thân quyến.

Cũng không thọ hưởng lần nào cả
Y phục và luôn các thức ăn,
Hương liệu cùng vòng hoa rực rỡ,
Cũng không ân huệ với thân nhân.

954. Tassevaṃ vilapantassa mayhaṃ mayhanti rakkhato, rājāno athavā corā dāyādāyeva appiyā, dhanamādāya gacchanti vilapitveva so naro.

954. Tương tự như vậy đối với người ấy, trong lúc gìn giữ và đang kêu than ‘của tôi, của tôi,’ các vị vua hoặc các kẻ trộm cướp, ngay cả những người thừa kế không được yêu mến đã đoạt lấy tài sản rồi ra đi. Người ấy chỉ có kêu than.

Của ta, ta mãi”, kêu rền rĩ,
Nó giữ kho tàng thỏa dạ tham.
Vua chúa cường gian, các đứa con
Chỉ mong sao nó sớm từ trần,
Cướp tài sản nó, trong khi ấy
Kẻ bủn xỉn kêu khóc tiếc than.

5. Mayhakajātakaṃ – Bổn sanh Loài Chim Mayhaka.

955. Dhīro ca bhoge adhigamma saṅgaṇhāti ca ñātake, tena so kittiṃ pappoti pecca sagge ca modatī ”ti.

955. Và bậc sáng trí, sau khi thành tựu các của cải, thì giúp đỡ cho các thân quyến, nhờ thế, vị ấy đạt được danh tiếng, và vui sướng ở cõi trời sau khi chết đi.”

Người có trí khôn được bạc vàng
Thường đem giúp đỡ các thân bằng,
Do vầy danh vọng trên trần thế,
Thiên giới đời sau được phước phần.

Câu chuyện 390

956. Dubbaṇṇarūpaṃ tuvam ariyavaṇṇī purakkhatvā pañjaliko namassasi, seyyo nu te so udavā sarikkho nāmaṃ parassattano cāpi brūhi.

956. “Ngài là người có vóc dáng cao cả, và ngài tôn vinh, chắp tay lại, lễ bái đến vị có bề ngoài xấu xí. Vị ấy là tốt hơn hay là tương đương với ngài? Xin ngài hãy nói tên của vị ấy và luôn cà tên của bản thân ngài.”

Dung mạo thanh cao, lại cúi đầu,
Sau người dị tướng, bước theo hầu,
Người này hơn, kém, hay bình đẳn
g,
Xin nói tánh danh, trẫm thỉnh cầu.

957. Na nāmagottaṃ gaṇhanti rāja sammaggatānujjugatāna devā, ahañca te nāmadheyyaṃ vadāmi sakkohamasmi tidasānamindo.

957. “Tâu bệ hạ, chư Thiên trong số các vị đã đi đúng đường lối hoặc đã đi theo con đường ngay thẳng thì không nắm giữ danh xưng và dòng họ. Và tôi nói cho bệ hạ tên gọi của tôi. Tôi là Thiên Chủ Sakka, chúa của chư Thiên cõi Tam Thập.

Chư Thiên không nói họ cùng tên
Của thiện nhân toàn hảo, Thánh hiền,
Riêng chỉ phần ta nêu tước hiệu
Sak-ka Thiên chủ của chư Thiên.

958. Yo disvā bhikkhuṃ caraṇūpapannaṃ purakkhatvā pañjaliko namassati, pucchāmi taṃ devarājetamatthaṃ ito cuto kiṃ labhate sukhaṃ so.

958. “Người nào sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu thành tựu về giới hạnh, thì tôn vinh, chắp tay lại, lễ bái. thưa Thiên Vương, trẫm hỏi ngài về ý nghĩ của việc này, người ấy nhận được hạnh phúc gì sau khi từ nơi này chết đi?”

Người kính yêu hiền Thánh vẹn toàn
Sau ngài, tiến bước dáng nghiêm trang,
Phần gì thừa hưởng, này Thiên chủ,
Phước đức đời sau sẽ phát ban?

959. Yo disvā bhikkhuṃ caraṇūpapannaṃ purakkhatvā pañjaliko namassati, diṭṭheva dhamme labhate pasaṃsaṃ saggañca so yāti sarīrabhedā.

959. “Người nào sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu thành tựu về giới hạnh, thì tôn vinh, chắp tay lại, lễ bái, ngay trong kiếp hiện tại này, nhận được sự khen ngợi, và người ấy đi đến cõi trời khi cơ thể rã tan.”

Người kính yêu hiền Thánh vẹn toàn,
Sau ngài, cất bước dáng nghiêm trang,
Tiếng khen trần thế nay thừa hưởng,
Thiên giới đời sau lúc mạng chung.

960. Lakkhī vata me udapādi ajja yaṃ vāsavaṃ bhūtapataddasāma, bhikkhuñca disvāna tavajja sakka kāhāmi puññāni anappakāni.

960. “May mắn quả thật đã sanh khởi đến trẫm hôm nay, là việc chúng tôi đã nhìn thấy vị Thiên Chủ, chúa của các Thiên thần. Và thưa Sakka, hôm nay sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu của ngài, trẫm sẽ làm các việc phước thiện không phải là ít.”

Mặt trời số phận chiếu hôm nay,
Mắt trẫm nhìn Thiên chủ hiển bày
Bậc Thánh xuất trần, này Ðế Thích,
Trẫm làm thiện sự kể từ rày.

961. Addhā have sevitabbā sapaññā bahussutā ye bahuṭhānacintino, bhikkhuñca disvāna mamañca rāja karohi puññāni anappakāni.

961. “Quả thật, đúng vậy, nên thân cận các bậc có trí tuệ, các bậc đa văn, là những vị có những suy nghĩ bao quát. Và tâu bệ hạ, sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu của ta, bệ hạ hãy làm các việc phước thiện không phải là ít.”

Chân chánh thay sùng bái Thánh nhân,
Tâm tư hướng đến trí cao thâm,
Giờ đây long nhãn đã chiêm ngưỡng
Thiên chủ Sak-ka với Thánh nhân,
Mong ước từ nay nhiều phước nghiệp
Sẽ là phận sự của minh quân.

6. Dhajaviheṭhajātakaṃ – Bổn sanh Phá Hủy Biểu Tượng.

962. Akkodhano niccapasannacitto sabbātithīyācayogo bhavitvā, nihacca mānaṃ abhivādayissaṃ sutvāna devinda subhāsitānī ”ti.

962. “Thưa vị Chúa của chư Thiên, sau khi lắng nghe những lời khéo nói, trẫm sẽ không có sự giận dữ, thường xuyên có tâm tịnh tín, sau khi đáp ứng sự yêu cầu của tất cả những người khách lạ, trẫm sẽ dẹp bỏ sự ngã mạn, và sẽ chí thành đảnh lễ.

Tư tưởng mang đầy đủ phước ân,
Từ nay lòng dạ trẫm ly sân,
Lắng tai nghe ngoại nhân cầu thỉnh,
Trẫm nhận lời khuyên nhủ chánh chân,
Trẫm sẽ diệt tan lòng ngã mạn,
Phụng thờ Thiên chủ, dạ tôn sùng.

Câu chuyện 391

963. Yametaṃ vārijaṃ pupphaṃ adinnaṃ upasiṅghasi, ekaṅgametaṃ theyyānaṃ gandhatthenosi mārisa.

963. “Ông hít ngửi đóa hoa sen này còn chưa được cho đến ông. Việc này là một tội trộm cắp. Này ông, ông là kẻ trộm cắp hương thơm.”

Ngài không được phép ngửi hương hoa,
Dù chỉ một hoa mới nở ra,
Ðó thật là hình thức đạo tặc,
Sa-môn, ngài trộm ngửi hương hoa.

964. Na harāmi na bhañjāmi ārā siṅghāmi vārijaṃ, atha kena nu vaṇṇena gandhatthenoti vuccati.

964. “Tôi không lấy đi, không bẻ gãy, tôi hít ngửi bông hoa từ xa, vậy thì với lý do gì mà gọi là ‘kẻ trộm cắp hương thơm’?

Ta chẳng hái, không bẻ gãy hoa,
Mùi hương ta ngửi tự đằng xa,
Ta không thể bảo nào duyên cớ
Nàng nói ta đang ngửi trộm hoa.

965. Yoyaṃ bhisāni khaṇati puṇḍarīkāni bhañjati, evaṃ ākiṇṇakammanto kasmā eso na vuccati.

965. Người đào bới các củ sen, bẻ gãy các bông hoa sen là kẻ có việc làm vung vãi như vậy, tạo sao kẻ ấy lại không bị nói đến?”

Kẻ nọ đang đào bới củ sen,
Phá thân cây gãy, đó nhìn xem,
Sao nàng không bảo cách hành động
Kẻ ấy là bừa bãi, thấp hèn?

966. Ākiṇṇaluddo puriso dhāticeḷaṃva makkhito, tasmiṃ me vacanaṃ natthi tañca arahāmi vattave.

966. “Người tàn bạo dẫy đầy tội lỗi bị hoen ố tựa như vải che thân của người vú em. Ta không có lời nói nào cho kẻ ấy, và ta dành để nói cho ông.

Những người phóng túng sống buông lơi,
Như áo vú em, đáng chán rồi,
Ta chẳng nói năng gì kẻ ấy,
Song ta chiếu cố nói ngài thôi.

967. Anaṅgaṇassa posassa niccaṃ sucigavesino, vāḷaggamattaṃ pāpassa abbhāmattaṃva khāyati.

967. Đối với người không có ô nhiễm, thường xuyên tầm cầu sự thanh tịnh, thì việc xấu xa bằng đầu cọng lông được xem như là đám mây đen lớn.”

Khi bỏ dục tham của thế nhân,
Và đi tìm cách tịnh thân tâm,
Tội dù chỉ nhỏ như đầu tóc
Chẳng khác trên trời đám hắc vân!

968. Addhā maṃ yakkha jānāsi atho maṃ anukampasi, punapi yakkha vajjāsi yadā passasi edisaṃ.

968. “Thật vậy, này Dạ-xoa, ngài hiểu biết về tôi, vậy xin ngài hãy thương xót đến tôi. Thêm nữa, này Dạ-xoa, khi nào ngài nhìn thấy việc như thế này, xin ngài hãy lên tiếng.”

Hiển nhiên Thần nữ hiểu tinh tường,
Nên với ta, nàng đã đoái thương,
Nếu thấy ta rày còn tái phạm,
Xin nàng nói nữa, khẩn cầu nàng.

7. Bhisapupphajātakaṃ – Bổn sanh Củ Sen và Hoa Sen.

969. Neva taṃ upajīvāma napi te bhatakamhase, tvameva bhikkhu jāneyya yena gaccheyya suggatin ”ti.

969. “Chúng tôi không sống gần ông, và cũng không phải là người làm thuê cho ông. Này tỳ khưu, chính ông nên biết lối nào có thể đi đến chốn an vui.”

Ta chẳng sống đây phụng sự ngài,
Chúng ta không ở mướn cho ai,
Xin ngài tự kiếm đường đi tới
Hạnh phúc tối cao giữa cõi đời.

Câu chuyện 392

970. Susukhaṃ vata jīvanti ye janā vighāsādino, diṭṭheva dhamme pāsaṃsā samparāye ca suggati.

970. “Những người nào là những người ăn vật thực còn thừa thật sự sống vô cùng thoài mái, họ được sự khen ngợi ngay trong thời hiện tại và chốn an vui trong thời vị lai.”

Hạnh phúc là ai sống giữa đời
Bằng tàn dư bố thí mà thôi,
Ðược người tán thán trên trần thế,
Số phận đời sau: lạc cõi trời.

971. Sukassa bhāsamānassa na nisāmetha paṇḍitā, idaṃ suṇātha sodariyā amhe vāyaṃ pasaṃsati.

971. “Các vị sáng suốt không để tâm đến con két đang nói tiếng người. Này các anh em, hãy lắng nghe con chim này. Nó khen ngợi chúng ta đấy.”

Bậc trí phải chăng nên lắng tai
Khi Anh vũ nói giọng như người,
Hãy nghe, các bạn, chim ca tụng
Bọn chúng ta đây, rõ tuyệt vời!

972. Nāhaṃ tumhe pasaṃsāmi kuṇapādā suṇātha me, ucchiṭṭhabhojino tumhe na tumhe vighāsādino.

972. “Tôi không khen ngợi các người, này những kẻ ăn thịt xác chết, hãy lắng nghe tôi. Các người là những kẻ ăn thức ăn bị bỏ đi, các người không phải là những người ăn vật thực còn thừa.”

Chẳng phải ta ca tụng các thầy,
Bọn ăn xác chết, hãy nghe đây:
Các thầy ăn món đồ thừa thải,
Chẳng phải tàn dư bố thí này.

973. Sattavassā pabbajitā mejjhāraññe sikhaṇḍino, vighāseneva yāpento mayañce bhoto gārayhā, ke nu bhoto pasaṃsiyā.

973. “Là những người đã xuất gia bảy năm, ở giữa rừng, có để chỏm tóc, đang nuôi sống chỉ bằng vật thực còn thừa, nếu chúng tôi đáng bị chê trách đối với ngài, vậy thì đối với ngài, những ai đáng được khen ngợi?”

Xuất thế bảy năm, cạo tóc đen,
Nơi đây ta sống tháng ngày liền,
Ăn đồ tàn thực, sao chim trách,
Vậy thế ai người thật đáng khen?

974. Tumhe sīhānaṃ vyagghānaṃ vāḷānañcāvasiṭṭhakaṃ, ucchiṭṭheneva yāpentā maññivhā vighāsādino.

974. “Các người ăn vật còn sót lại của các con sư tử, của các con hổ, và của các loài thú dữ, trong khi nuôi sống chỉ bằng thức ăn bị bỏ đi, các người tưởng rằng mình là những người ăn vật thực còn thừa.”

Món thừa sư, hổ, thú săn mồi,
Là thứ cần dùng của các người,
Quả thật chúng là đồ phế thải
Dù người gọi “chỉ tàn dư thôi”.

975. Ye brāhmaṇassa samaṇassa aññassa ca vaṇibbino, datvāna sesaṃ bhuñjanti te janā vighāsādino ”ti.

8. Vighāsajātakaṃ – Bổn sanh Vật Thực Còn Thừa.

975. “Những người nào sau khi cho đến vị Bà-la-môn, đến vị Sa-môn, và đến người ăn xin khác rồi ăn phần còn lại, những người ấy là những người ăn vật thực còn thừa.” 

Người nào bố thí các Sa-môn,
Ðể đáp ứng ngay mọi thứ cần,
Rồi thọ những gì còn để lại,
Sống nhờ của bố thí dư tàn.

Câu chuyện 393

976. Paṇītaṃ bhuñjase bhattaṃ sappitelañca mātula, atha kena nu vaṇṇena kiso tvamasi vāyasa.

976. “Thưa cậu, cậu ăn thức ăn hảo hạng là bơ lỏng và dầu ăn; vậy thì thưa cậu quạ, vì lý do gì mà cậu lại gầy ốm?”

Bơ, dầu đủ món cao lương,
Chú ơi, thực phẩm chú toàn thơm ngon,
Cho tôi biết rõ nguồn cơn
Tại sao chú phải gầy mòn thế ư?

977. Amittamajjhe vasato tesu āmisamesato, niccaṃ ubbiggahadayassa kuto kākassa daḷhiyaṃ.

977. “Làm sao loài quạ có được sự mạnh khỏe khi đang sống ở giữa những kẻ thù, đang kiếm ăn ở nơi chúng nó, có tâm thường xuyên bị hoảng hốt?

Ta đang sống giữa kẻ thù,
Lòng ta cứ phải ưu tư rã rời,
Hãi kinh đi kiếm miếng mồi,
Muốn thành béo mập, Cút ơi, cách nào?

978. Niccaṃ ubbedhino kākā dhaṅkā pāpena kammunā, laddho piṇḍo na pīṇeti kiso tenasmi vaṭṭaka.

978. Loài quạ thường xuyên chịu sự kích động, bị ám ảnh bởi ác nghiệp. Thức ăn kiếm được không đủ cho nhu cầu; này chim cút, vì thế ta bị gầy ốm.

Suốt đời Quạ sống lo âu,
Trí luôn cảnh giác, đương đầu nguy nan,
Miếng mồi kiếm chẳng đủ ăn,
Cút ơi, vì thế gầy mòn thân ta.

979. Lūkhāni tiṇabījāni appasnehāni bhuñjasi, atha kena nu vaṇṇena thūlo tvamasi vaṭṭaka.

979. Này chim cút, ngươi ăn cỏ và các hạt giống thô cứng, có ít chất béo, vậy thì vì lý do gì ngươi lại mập bự?”

Cỏ khô, hạt thóc quả là
Thức ăn của Cút chẳng no béo gì,
Vì sao Cút mập thế kia,
Lại ăn ít ỏi, nói đi, bạn vàng!

980. Appicchā appacintāya avidūragamanena ca, laddhā laddhena yāpento thūlo tenasmi vāyasa.

980. “Do ít ham muốn, do ít suy nghĩ, và do việc không phải đi xa, trong khi nuôi sống với bất cứ vật gì đã kiếm được, thưa cậu quạ, vì thế, tôi mập bự.

Ta mong vừa đủ an nhàn,
Thong dong bay lượn quãng đường ngắn kia,
Kiếm ăn bất cứ vật gì,
Nên ta béo mập khó bì, Quạ ơi!

9. Vaṭṭakajātakaṃ – Bổn sanh Chim Cút.

981. Appicchassa hi posassa appacintisukhassa ca, susaṅgahitamānassa vuttī susamudāniyā ”ti. 

981. Bởi vì đối với người có ít ham muốn và có sự an lạc do ít suy nghĩ, đối với người có sự chừng mực đã khéo được duy trì, sinh kế của người ấy là dễ dàng đạt được.” 

Tràn đầy hạnh phúc, an vui,
Trong lòng biết đủ, thảnh thơi tháng ngày,
Mục tiêu dễ đạt lắm thay,
Ðây phần ưu thắng đời này ta theo.

Câu chuyện 394

982. Cirassaṃ vata passāma sahāyaṃ maṇidhārinaṃ, sukatāya massukuttiyā sobhate vata me sakhā.

982. “Quả thật lâu lắm rồi chúng ta mới nhìn thấy bạn bè mang ngọc ma-ni. Quả thật bạn của tôi sáng ngời với chòm râu khéo tỉa.

Ông bạn cũ ơi, hãy ngắm xem,
Nữ trang sáng rực rỡ đeo lên,
Bộ râu tỉa gọn oai ra phết,
Trông bạn thật tươi trước mắt nhìn!

983. Parūḷhakacchanakhalomo ahaṃ kammesu vyāvaṭo, cirassaṃ nahāpitaṃ laddhā lomantaṃ apahārayiṃ.

983. “Các móng và lông đã mọc dài. Ta bị bận rộn về nhiều công việc. Cuối cùng, sau khi có được người thợ cạo, ta đã cho cạo sạch lông ấy.”

Các lông, móng cứ mọc nhanh ghê,
Làm vương víu ta khắp mọi bề,
Thợ hớt tóc sau cùng bước tới,
Nên ta thoát lớp vỏ xù xì!

984. Yaṃ nu lomaṃ ahāresi dullabhaṃ laddhakappakaṃ, atha kiñcarahi te samma kaṇṭhe kiṇakiṇāyati.

984. “Sau khi đạt được người thợ cạo, là việc khó đạt được, bạn đã bảo người ấy cạo lông. Còn bây giờ, này bạn, cái gì kêu leng keng ở cổ của bạn?”

Dĩ nhiên Quạ được vặt lông đen,
Chú thợ cạo kia thật khéo khen!
Quanh cổ thì sao, xin nói rõ,
Cái gì lúng lẳng tựa chuông reng?

985. Manussasukhumālānaṃ maṇi kaṇṭhesu lambati, tesāhamanusikkhāmi mā tvaṃ maññi davā kataṃ.

985. “Ngọc ma-ni được đeo ở cổ của những người thanh lịch. Ta học theo bọn họ. Bạn chớ nghĩ rằng việc đã làm là việc đùa giỡn.

Những người thanh lịch vẫn đeo hoài
Quanh cổ ngọc châu, thói ở đời,
Muốn bắt chước người, ta cũng vậy,
Bạn đừng tưởng đó chuyện đùa chơi!

986. Sacepi maṃ pihayasi massukuttiṃ sukāritaṃ, kārayissāmi te samma maṇiñcāpi dadāmi te.

986. Nếu bạn cũng thích chòm râu khéo tỉa này, này bạn, ta sẽ bảo làm cho bạn, và ta cũng sẽ cho bạn ngọc ma-ni nữa.”

Còn nếu bạn ganh tỵ bộ ria
Ðược khéo điểm tô chải chuốt kia,
Ta sẽ nhờ người này cạo giúp,
Rồi đeo ngọc, bạn cũng như ta.

10. Kākajātakaṃ – Bổn sanh Con Quạ.

987. Tvaññeva maṇinā channo sukatāya ca massuyā, āmanta kho taṃ gacchāmi piyaṃ me tava dassanan ”ti.

987. “Chính bạn mới phù hợp với ngọc ma-ni và với chòm râu khéo tỉa. Sau khi trình bày với bạn thì ta ra đi. Ta ưa thích việc không nhìn thấy bạn.” 

Không, chính ông phù hợp nhất đời
Với râu và ngọc khéo ra oai,
Thấy ông hiện diện gây phiền toái,
Ta giã biệt ông, cất bước thôi!

Câu chuyện 395

Senakavaggo dutiyo.

*****

Phẩm Vua Senaka là thứ nhì.

*****

TASSUDDĀNAṂ

Atha passa sasūci ca tuṇḍilako migamayhaka pañcama sakkavaro, atha pañjalivārija mejjha puna atha vaṭṭaka kapotavarena dasa.

Chakkanipāto niṭṭhito.

*****

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

Giờ hãy nhìn xem, với cây kim, và con heo Tuṇḍila, con thú (cua vàng), chim Mayhaka là thứ năm, chuyện Sakka, rồi chắp tay lại, và đóa hoa sen, thêm nữa ở giữa rừng, rồi chim cút, với chuyện chim bồ câu, là mười.

Nhóm Sáu Kệ Ngôn được chấm dứt.

*****

TATRA VAGGUDDĀNAṂ BHAVATI

Atha vaggaṃ pakittissaṃ chanipātavaruttame, avāriyo senako dveva vuttā subyañjanā ”ti.

–ooOoo–
 

TÓM LƯỢC CÁC PHẨM Ở NHÓM NÀY LÀ

Giờ tôi đã thuật lại các phẩm ở Nhóm Sáu cao quý tối thượng,
hai phẩm, Avāriya và Senaka, được nói đến với văn tự hoàn hảo.

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *