TIỂU BỘ – CHUYỆN THIÊN CUNG – A. THIÊN CUNG NỮ GIỚI – 4. PHẨM MAÑJEṬṬHAKA

4. PHẨM MAÑJEṬṬHAKA

  1. Thiên cung màu đỏ tía    
  2. Thiên cung rực rỡ    
  3. Thiên cung long tượng
  4. Thiên cung của Alomā     
  5. Thiên cung của người nữ bố thí cháo chua     
  6. Thiên cung trú xá  
  7. Thiên cung của bốn phụ nữ
  8. Thiên cung vườn xoài     
  9. Thiên cung màu vàng
  10. Thiên cung khúc mía
  11. Thiên cung do sự đảnh lễ    
  12. Thiên cung của Rajjumālā

4. 1

  1. “Ở Thiên cung màu đỏ tía, được trải cát bằng vàng, nàng vui thích về phần trình tấu khéo léo với năm loại nhạc cụ.
  1. Từ Thiên cung đã được hóa hiện ra, làm bằng châu ngọc ấy, nàng đã bước xuống, rồi đã đi sâu vào khu rừng cây sālā được trổ hoa vào mọi thời điểm.
  1. Này nàng tiên, tại mỗi một gốc cây sālā mà nàng dừng lại, loài cây cao quý nhất ấy, từng cây một, đều nghiêng xuống và thả rơi các bông hoa.
  1. Được lay động bởi gió, được gió thổi, khu rừng cây sālā đã được các loài chim lai vãng; giống như cây mañjūsaka, hương thơm (của khu rừng) thổi đi khắp các phương.
  1. Nàng ngửi hương thơm tinh khiết ấy, nàng nhìn thấy hình ảnh không thuộc nhân gian. Hỡi nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?”
  1. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã là tỳ nữ ở gia đình của người chồng. Sau khi nhìn thấy đức Phật đang ngồi, tôi đã rải rắc với những bông hoa sālā.
  1. Được tịnh tín, tôi đã tự tay hiến dâng đến đức Phật vòng hoa đội đầu làm bằng bông hoasālā và đã được làm khéo léo.
  1. Sau khi đã thực hiện việc làm ấy, là việc tốt lành đã được đức Phật khen ngợi, với nỗi sầu muộn đã được xa lìa, được an vui, tôi khởi tâm hoan hỷ, không có tật bệnh.”

Thiên Cung Màu Đỏ Tía.

4. 2

  1. “Hỡi cô nàng có ánh sáng lấp lánh ở làn da cao quý rực rỡ, có y hạ là tấm vải đã được khéo nhuộm, có đại thần lực, có cơ thể đáng yêu với mùi trầm hương, này nàng tiên xinh đẹp, nàng là ai mà đảnh lễ ta?
  1. Và chiếc ghế dài của nàng có giá trị cao, đáng yêu, được điểm tô với nhiều loại châu báu khác nhau. Ngồi ở nơi ấy, nàng chói sáng tựa như vị vua của chư Thiên ở khu vườn Nandana.
  1. Này cô nàng hiền thục, trước đây nàng đã thực hành tánh hạnh tốt đẹp gì? Nàng đã thọ hưởng quả thành tựu của nghiệp gì ở thế giới chư Thiên? Hỡi nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?”
  1. “Thưa ngài, trong khi ngài đang đi khất thực, con đã dâng đến ngài tràng hoa và mật đường. Con thọ hưởng quả thành tựu của nghiệp ấy ở thế giới chư Thiên.
  1. Thưa ngài, con có sự bứt rứt; con đã phạm lỗi và đã làm sai trái. Con đây đã không lắng nghe Giáo Pháp đã khéo được thuyết giảng bởi đấng Pháp Vương.
  1. Vì thế, con xin thưa với ngài. Thưa ngài đại đức, bất cứ người nào đó được con thương xót đến, xin ngài hãy khuyến khích người ấy về các Giáo Pháp đã khéo được thuyết giảng bởi đấng Pháp Vương.
  1. Những vị (Thiên tử) nào có được niềm tin ở ba Ngôi Báu: Đức Phật, Giáo Pháp, và Hội Chúng, những vị ấy chói sáng hơn con đây về tuổi thọ, về danh tiếng, và về sự vinh quang.
  1. So sánh với con thì chư Thiên khác vượt trội về oai lực và sắc đẹp, hơn hẳn về đại thần lực.”  

Thiên Cung Rực Rỡ.

4. 3

  1. “Đã được trang điểm, nàng đã cỡi lên con voi vĩ đại, cao quý, đã khéo được sửa soạn, được chất đống với ngọc ma-ni và vàng, được tô điểm bằng mạng lưới bằng vàng, rồi đã đi đến nơi đây theo đường không trung, ở trên bầu trời.
  1. Có những hồ sen với nước trong sạch, khéo nở rộ hoa, đã được hóa hiện ra ở hai ngà của con voi, có những nhóm nhạc cụ được phân hạng ở những đóa sen, và có những phụ nữ quyến rũ này nhảy múa.
  1. Hỡi cô nàng có đại oai lực, nàng đã đạt được thần thông của chư Thiên. Khi là con người nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?”
  1. “Ở Bārāṇasī, tôi đã đi đến gần và đã dâng hai xấp vải đến đức Phật. Sau khi đảnh lễ hai bàn chân, tôi đã ngồi xuống nền đất. Được phấn chấn, tôi đã chắp tay lại.
  1. Và đức Phật, có làn da tựa như vàng, đã thuyết giảng cho tôi về Nhân (của Khổ), về Khổ, về vô thường, về sự không tạo tác, về sự Diệt Khổ có tính chất trường tồn. Ngài đã thuyết giảng về Đạo Lộ, nhờ đó tôi đã nhận thức được.
  1. Là người nữ có tuổi thọ ít ỏi, tôi đã qua đời. Đã chết từ nơi ấy, tôi được sanh lên hội chúng cõi Ba Mươi (Ba), có danh tiếng. Tôi đã là người vợ chánh khác nữa của (Thiên Chủ) Sakka, có tên là Yasuttarā, được nổi tiếng ở các phương.”

Thiên Cung Long Tượng.

4. 4

  1. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
  1. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
  1. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
  1. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Ở Bārāṇasī, được tịnh tín, tôi đã tự tay dâng đến đức Phật, đấng thân quyến của mặt trời, miếng bánh kem khô khan.
  1. Hãy nhìn xem quả báo của miếng bánh kem khô khan, không có muối. Sau khi nhìn thấy nàng Alomā được hạnh phúc, người nào sẽ không làm việc phước thiện?  
  1. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
  1. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung của Alomā.

4. 5

  1. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
  1. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
  1. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
  1. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Ở Bārāṇasī, tôi đã dâng đến đức Phật, đấng thân quyến của mặt trời, món cháo chua nấu chung với táo và đã được gia vị với dầu ăn.
  1. Với tâm ý thanh tịnh ở con người chính trực, tôi đã dâng cúng (món cháo) đã được trộn với loại tiêu dài, với củ tỏi, và với (rễ cỏ) lāmañjaka.
  1. Người phụ nữ nào hành xử vị thế chánh hậu của đức vua Chuyển Luân, có vẻ kiều diễm ở toàn bộ các phần cơ thể, và được xem là hoàn hảo đối với người chồng, (cũng) không giá trị bằng một phần mười sáu của sự dâng cúng cháo chua này.
  1. Một trăm con voi, một trăm con ngựa, một trăm xe lừa kéo, một trăm ngàn thiếu nữ có các bông hoa tai bằng ngọc ma-ni đã được trau chuốt, (cũng) không giá trị bằng một phần mười sáu của sự dâng cúng cháo chua này.
  1. Một trăm con voi giống Hi-mã-lạp, có ngà như gọng xe, vững chãi, có chuông vàng, là loài long tượng có trang phục với yên cương bằng vàng, (cũng) không giá trị bằng một phần mười sáu của sự dâng cúng cháo chua này.
  2. Người nào có thể hành xử vương quyền ở nơi đây, thậm chí đối với bốn châu lục, (cũng) không giá trị bằng một phần mười sáu của sự dâng cúng cháo chua này.”

Thiên Cung của Người Nữ Bố Thí Cháo Chua.

4. 6

  1. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
  1. Trong khi nàng đây đang nhảy múa, các âm thanh thuộc cõi Trời, làm êm tai, làm thích ý, phát ra từ toàn bộ các bộ phận của cơ thể.
  1. Trong khi nàng đây đang nhảy múa, các hương thơm thuộc cõi Trời, là các hương thơm tinh khiết, làm thích ý, tỏa ra từ toàn bộ các bộ phận của cơ thể.
  1. Trong khi nàng đang xoay tròn cơ thể, tiếng ngân vang của các vật trang sức ở các bím tóc được nghe giống như từ năm loại nhạc cụ.
  1. Các vòng hoa đeo tai bị gió thổi, bị lay động bởi làn gió, tiếng ngân vang của chúng được nghe giống như từ năm loại nhạc cụ.
  1. Luôn cả những tràng hoa ở trên đầu của nàng là có hương thơm tinh khiết, làm thích ý; giống như cây mañjūsaka, hương thơm (của tràng hoa) thổi đi khắp các phương.
  1. Nàng ngửi hương thơm tinh khiết ấy, nàng nhìn thấy hình ảnh không thuộc nhân gian. Hỡi nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?”
  1. “Thưa ngài đại đức, ở thành Sāvatthī người bạn gái của tôi đã cho xây dựng ngôi trú xá lớn dành cho Hội Chúng. Tại nơi ấy, sau khi nhìn thấy tòa nhà, được tịnh tín, tôi đã tùy hỷ, và nó là yêu quý đối với tôi.
  1. Bởi chính sự tùy hỷ trong sạch ấy của tôi mà tôi đã đạt được Thiên cung tuyệt vời, duyên dáng. Nó di chuyển ở không trung, xung quanh mười sáu do-tuần, nhờ vào thần lực của tôi.
  1. Các chỗ ngụ của tôi là những ngôi nhà mái nhọn, được phân chia thành từng phần cân xứng. Trong lúc tỏa sáng rực rỡ, chúng chiếu sáng xung quanh một trăm do-tuần.
  1. Và ở nơi đây, tôi có các hồ sen được loài cá puthuloma lai vãng, có nước trong sạch, được yên tĩnh, được trải cát bằng vàng.
  1. Được che phủ bởi nhiều loại sen khác nhau, được trải rộng với những cây sen trắng, (các hồ sen) làm hài lòng, được lay động bởi làn gió, tự tỏa ra các hương thơm.
  1. Bên trong chỗ trú ngụ đã mọc lên nhiều loại cây khác nhau không được gieo trồng như các cây mận đỏ, các cây mít, các cây lá cọ, và các khu rừng dừa.
  1. (Thiên cung) được vang vang nhiều loại nhạc cụ khác nhau, được vang động bởi đoàn tiên nữ. Thậm chí người đàn ông nào nhìn thấy tôi ở trong giấc mơ, người ấy cũng được phấn chấn.
  1. Thiên cung như thế ấy, tuyệt vời, duyên dáng, đang tỏa sáng khắp mọi phía, được sanh lên từ các nghiệp của tôi; vậy là đủ để thực hiện các việc phước thiện.”
  1. “Bởi chính sự tùy hỷ trong sạch ấy của nàng mà nàng đã đạt được Thiên cung tuyệt vời, duyên dáng. Và chính cô nàng nào là người phụ nữ đã dâng cúng vật thí, xin hãy nói về cảnh giới tái sanh của cô ấy. Cô ấy đã được sanh lên ở đâu?”
  1. “Thưa ngài đại đức, cô ấy đã là người bạn gái của tôi, là người đã cho xây dựng trú xá lớn dành cho Hội Chúng. Đã nhận thức được Giáo Pháp, cô ấy đã dâng cúng vật thí, và đã được sanh lên ở giữa chư Thiên của cõi Trời Hóa Lạc.
  1. (Cô ấy) là người vợ chánh của (Thiên Vương) Sunimmita ấy; quả thành tựu về nghiệp của cô ấy là không thể nghĩ bàn. Về điều mà ngài đã hỏi: ‘Cô ấy đã được sanh lên ở đâu?’ tôi đã trả lời ngài về điều ấy không có sai khác.
  1. Chính vì thế, xin ngài hãy khuyến khích luôn cả những người khác rằng: ‘Được phấn chấn, các người hãy dâng cúng các vật thí đến Hội Chúng. Với tâm ý tịnh tín, các người hãy lắng nghe Giáo Pháp. Sự đạt được (trạng thái) con người, (mà các người) đã đạt được, là sự đạt được vô cùng khó khăn.
  1. Đạo lộ nào mà bậc có giọng nói của Phạm Thiên, có làn da tựa như vàng, đã thuyết giảng là đứng đầu các đạo lộ. Được phấn chấn, các người hãy dâng cúng các vật thí đến Hội Chúng, là nơi các sự cúng dường có quả báo lớn lao.
  1. Tám hạng người nào được các bậc thiện nhân ca ngợi, các vị này là bốn đôi, các vị ấy là các Thinh Văn của đấng Thiện Thệ, xứng đáng được cúng dường; các vật đã được bố thí đến các vị này là có các quả báo lớn lao.
  1. Bốn hạng đang thực hành (bốn Đạo) và bốn hạng đã trụ ở Quả vị (bốn Quả), Hội Chúng ấy có bản thể chính trực, có Giới – Định – Tuệ.
  1. Đối với những con người đang hiến cúng, đối với các chúng sinh mong mỏi phước báu đang thực hiện phước thiện có liên quan đến việc tái sanh, vật đã được dâng cúng (của họ) đến Hội Chúng là có quả báo lớn lao.
  1. Bởi vì Hội Chúng ấy là bao la, đã đi đến sự vĩ đại. Hội Chúng ấy không thể đo lường, tựa như biển cả, đại dương. Chính những vị này là hạng nhất, là các đệ tử của bậc Anh Hùng trong số các nam nhân, là những đấng quang đăng tuyên thuyết Giáo Pháp.
  1. Những người nào dâng cúng vật thí xác định dành cho Hội Chúng, sự bố thí của những người ấy là đã khéo được dâng cúng, khéo được hiến dâng, khéo được hiến cúng. Sự cúng dường ấy, đã đi đến Hội Chúng, đã được tạo lập, có quả báo lớn lao, đã được các đấng Hiểu Biết Thế Gian khen ngợi.
  1. Những người nào đi lang thang ở thế gian với niềm vui đã được sanh khởi trong khi nhớ lại sự hiến cúng như thế ấy, (những người ấy) sau khi loại bỏ bợn nhơ của sự bỏn xẻn luôn cả gốc rễ, không bị quở trách, và đi đến địa vị cõi Trời.”

Thiên Cung Trú Xá.

TỤNG PHẨM THỨ NHÌ.

4. 7

  1. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
  1. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
  1. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
  1. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Tôi đã dâng một nắm bông súng xanh đến vị tỳ khưu đang đi khất thực ở thành phố cao quý Paṇṇakata đáng yêu thuộc vùng cao nguyên của xứ Esika.
  1. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
  1. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.” (Người nữ bố thí bông súng xanh)
  1. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
  1. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
  1. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
  1. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Tôi đã dâng một nắm bông sen xanh đến vị tỳ khưu đang đi khất thực ở thành phố cao quý Paṇṇakata đáng yêu thuộc vùng cao nguyên của xứ Esika.
  1. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
  1. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.” (Người nữ bố thí bông sen xanh)
  1. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
  2. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
  1. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
  1. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Tôi đã dâng loại cây có rễ màu trắng lá màu xanh mọc ở nước trong hồ đến vị tỳ khưu đang đi khất thực ở thành phố cao quý Paṇṇakata đáng yêu thuộc vùng cao nguyên của xứ Esika.
  1. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
  1. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.” (Người nữ bố thí loại cây có rễ trắng)
  1. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
  1. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
  1. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
  1. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Tôi, Sumanā, đã dâng các nụ hoa nhài có màu ngà đến vị tỳ khưu có thiện tâm đang đi khất thực ở thành phố cao quý Paṇṇakata đáng yêu thuộc vùng cao nguyên của xứ Esika.
  1. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
  1. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.” (Người nữ bố thí nụ hoa nhài)

Thiên Cung của Bốn Phụ Nữ.

4. 8

  1. “Khu vườn xoài thuộc cõi Trời của nàng là đáng yêu; nơi đây có tòa lâu đài rộng lớn, được vang vang nhiều loại nhạc cụ khác nhau, được vang động bởi đoàn tiên nữ.
  1. Và nơi đây, có ngọn đèn vĩ đại bằng vàng cháy sáng thường xuyên, được bao bọc xung quanh bởi những loại cây cối có sự kết trái là các tấm vải.
  1. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
  1. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
  1. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, đã cho xây dựng ngôi trú xá, dành cho Hội Chúng, được bao quanh bởi những cây xoài.
  1. Khi ngôi trú xá đã được hoàn thành, đã được chấm dứt, trong khi cho thực hiện ở lễ hội, tôi đã tạo ra các trái cây được làm bằng các tấm vải rồi đã phủ kín các cây xoài (với các trái cây giả tạo ấy).
  1. Tại nơi ấy, tôi đã cho thắp sáng cây đèn và đã dâng thức ăn đến tập thể tối thượng. Được tịnh tín, tôi đã tự tay chuyển giao ngôi trú xá ấy đến Hội Chúng.
  1. Do việc ấy, tôi có được khu vườn xoài đáng yêu; nơi đây có tòa lâu đài rộng lớn, được vang vang nhiều loại nhạc cụ khác nhau, được vang động bởi đoàn tiên nữ.
  1. Và nơi đây, có ngọn đèn vĩ đại bằng vàng cháy sáng thường xuyên, được bao bọc xung quanh bởi những cây cối có những trái cây là các tấm vải.
  1. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
  1. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung Vườn Xoài.

4. 9

  1. “Hỡi cô nàng có y phục màu vàng, có cờ hiệu màu vàng, được điểm trang với các vật trang sức màu vàng, có cơ thể được bôi trầm hương màu vàng, có tràng hoa sen màu vàng.
  1. Hỡi cô nàng có tòa lâu đài và giường nằm màu vàng, có ghế ngồi màu vàng, có chén bát màu vàng, có lọng che màu vàng, có cỗ xe kéo màu vàng, có ngựa màu vàng, có quạt màu vàng.
  1. Này cô nàng hiền thục, nàng đã tạo nghiệp gì trong thời quá khứ ở cảnh giới loài người? Này nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?”
  1. “Thưa ngài, có loại dây leo tên là kosātakī, không được ca tụng, không được khao khát. Tôi đã mang bốn bông hoa của nó đến ngôi bảo tháp.
  1. Với tâm ý thanh tịnh hướng đến di thể xá-lợi của bậc Đạo Sư, trong khi có tâm ý đặt ở vật cao quý ấy, tôi đã không xem xét lối đi của con bò cái.
  1. Do đó, con bò cái đã húc chết tôi, lúc tâm ý còn chưa đạt đến ngôi bảo tháp. Nếu tôi có thể chu toàn việc ấy, chắc hẳn còn được nhiều hơn thế này nữa.
  1. Thưa vị chúa của chư Thiên, đấng Maghavā, bậc long tượng của chư Thiên, do nghiệp ấy, sau khi từ bỏ thân xác nhân loại, tôi đã đi đến trạng thái cộng trú với ngài.”
  1. Sau khi nghe được điều này, vị chúa tể của cõi Ba Mươi (Ba), đấng Maghavā, bậc long tượng của chư Thiên, trong khi tạo niềm tịnh tín cho (chư Thiên) cõi Ba Mươi (Ba), đã nói với Mātali điều này:
  1. “Này Mātali, ngươi hãy nhìn xem nghiệp quả (quả báo của nghiệp) này là kỳ diệu, đa dạng; vật dâng cúng đã được thực hiện mặc dầu ít ỏi nhưng phước báu có kết quả lớn lao.
  1. Khi tâm được tịnh tín, sự cúng dường ở đức Như Lai Chánh Đẳng Giác, hay là ở vị Thinh Văn của Ngài, không thể gọi là nhỏ nhoi.
  1. Này Mātali, hãy đến. Ngay cả chúng ta cũng nên tôn vinh các xá-lợi của đức Như Lai nhiều hơn nhiều hơn nữa; sự tích lũy các việc phước thiện là hạnh phúc.
  1. Khi Ngài đang còn tại tiền, và luôn cả khi Ngài đã tịch diệt, khi tâm bằng nhau thì quả báo bằng nhau. Các chúng sanh đi đến cảnh giới an vui do các yếu tố ở sự quyết định của tâm.
  1. Thật vậy, các đức Như Lai hiện khởi vì lợi ích của số đông; sau khi thực hiện sự phục vụ đến quý Ngài, các thí chủ đi đến cõi Trời.”

Thiên Cung Màu Vàng.

4. 10

  1. “Sau khi làm chói sáng trái đất luôn cả chư Thiên, nàng sáng chói vượt trội, tựa như mặt trăng và mặt trời, với sự vinh quang, với sắc đẹp, với danh tiếng, và với quyền uy, tựa như vị Đại Phạm Thiên sáng chói vượt trội chư Thiên và thần Inda ở cõi Ba Mươi (Ba).
  1. Hỡi cô nàng có mang tràng hoa sen xanh, có vòng hoa đội đầu, có làn da như là vàng, đã được trang điểm, có sự trang phục với loại vải thượng hạng, ta hỏi nàng: Hỡi nàng tiên xinh đẹp, nàng là ai mà đảnh lễ ta?
  1. Trước đây, nàng đã tự mình tạo nghiệp gì, khi là con người ở kiếp sống trước đây, là việc bố thí đã khéo được thực hiện hay sự thu thúc giới hạnh? Này cô nàng có danh tiếng, do việc (phước thiện) nào mà nàng đã được sanh lên chốn an vui? Này nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?”
  1. “Thưa ngài, mới đây, ở chính ngôi làng này, ngài đã đi đến căn nhà của chúng tôi để khất thực. Do đó, có tâm tịnh tín, tôi đã dâng ngài khúc mía với niềm vui không gì sánh bằng.
  1. Và sau đó, mẹ chồng chất vấn tôi rằng: ‘Này cô dâu, cô đã ném bỏ khúc mía ở chỗ nào?’ ‘Con đã không quăng bỏ, hơn nữa con cũng không có ăn, con đã đích thân dâng đến vị tỳ khưu an tịnh.’
  1. ‘Quyền hành này là thuộc về cô hay thuộc về tôi?’ Người mẹ chồng đã mắng chửi tôi như thế, rồi đã cầm lấy cục đất và giáng cho tôi cú đánh. Đã chết từ nơi ấy, tôi đã qua đời, trở thành vị Thiên nhân.
  1. Chính nghiệp thiện ấy đã được tạo ra bởi tôi. Và tôi thụ hưởng hạnh phúc, quả báu về nghiệp của mình. Tôi tiêu khiển cùng với chư Thiên, tôi vui sướng với năm loại dục.
  1. Chính nghiệp thiện ấy đã được tạo ra bởi tôi. Và tôi thụ hưởng hạnh phúc, quả báu về nghiệp của mình. Được hộ trì bởi vị Chúa của chư Thiên, được bảo vệ bởi chư Thiên ở cõi Ba Mươi (Ba), tôi được cung ứng với năm loại dục.
  1. Quả phước thiện như thế ấy không phải là ít, việc cúng dường mía của tôi là có quả thành tựu lớn lao. Tôi tiêu khiển cùng với chư Thiên, tôi vui sướng với năm loại dục.
  1. Quả phước thiện như thế ấy không phải là ít, việc cúng dường mía của tôi có sự vinh quang lớn lao. Được hộ trì bởi vị Chúa của chư Thiên, được bảo vệ bởi chư Thiên ở cõi Ba Mươi (Ba), (tôi) tựa như vị Thần Ngàn Mắt ở khu vườn Nandana.
  1. Và thưa ngài, sau khi đến gần ngài, vị có lòng thương xót, có sự hiểu biết, tôi đã đảnh lễ và đã hỏi về sức khỏe. Do đó, có tâm tịnh tín, tôi đã dâng ngài khúc mía với niềm vui không gì sánh bằng.”[5]

Thiên Cung Khúc Mía.

4. 11

  1. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
  1. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
  1. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
  1. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, sau khi nhìn thấy các vị Sa-môn có giới hạnh, tôi đã đảnh lễ các bàn chân, và tôi đã làm cho tâm được tịnh tín. Được phấn chấn, tôi đã chắp tay lại.
  1. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
  1. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung do sự Đảnh Lễ.

4. 12

  1. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật. Nàng duỗi ra các bàn tay và các bàn chân, nàng nhảy múa ở phần trình tấu khéo léo.
  1. Trong khi nàng đây đang nhảy múa, các âm thanh thuộc cõi Trời, làm êm tai, làm thích ý, phát ra từ toàn bộ các bộ phận của cơ thể.
  1. Trong khi nàng đây đang nhảy múa, các hương thơm thuộc cõi Trời, là các hương thơm tinh khiết, làm thích ý, tỏa ra từ toàn bộ các bộ phận của cơ thể.
  1. Trong khi nàng đang xoay tròn cơ thể, tiếng ngân vang của các vật trang sức ở các bím tóc được nghe giống như từ năm loại nhạc cụ.
  1. Các vòng hoa đeo tai bị gió thổi, bị lay động bởi làn gió, tiếng ngân vang của chúng được nghe giống như từ năm loại nhạc cụ.
  1. Luôn cả những tràng hoa ở trên đầu của nàng là có hương thơm tinh khiết, làm thích ý; giống như cây mañjūsaka, hương thơm (của tràng hoa) thổi đi khắp các phương.
  1. Nàng ngửi hương thơm tinh khiết ấy, nàng nhìn thấy hình ảnh không thuộc nhân gian. Hỡi nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?”
  1. “Trước đây, tôi đã là tỳ nữ của người Bà-la-môn ở Gayā. Tôi có phước báu ít ỏi, không được may mắn; mọi người đã biết tôi là ‘Rajjumālā’ (cô gái có tràng hoa là sợi dây thừng).
  1. Bị đày đọa bởi sự dọa nạt và những sự mắng nhiếc, đánh đập, tôi đã cầm lấy bình nước, lìa khỏi, và đã đi vì việc mang nước.
  1. Sau khi để xuống cái bình nước ở con đường rẽ, tôi đã tiến vào khu rừng rậm (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ chết ở ngay tại đây. Có ích gì với mạng sống của ta?’
  1. Sau khi làm cái thòng lọng chắc chắn rồi máng vào thân cây, sau đó tôi đã xem xét các hướng (nghĩ rằng): ‘Người nào hiện đang sống ở rừng?’
  1. Tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy đấng Toàn Giác, đấng Phúc Lợi của tất cả thế gian, bậc Hiền Trí, ngồi ở gốc cây, đang tham thiền, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu.
  1. Tôi đây đã có sự chấn động, có sự nổi da gà kỳ lạ (nghĩ rằng): ‘Người nào hiện đang sống ở rừng, loài người hay là Thiên nhân?’
  1. Sau khi nhìn thấy vị tạo được niềm tin, đáng được tin tưởng, đã lìa khỏi khu rừng (phiền não) đến nơi không còn rừng (phiền não), tâm của tôi đã được tịnh tín (nghĩ rằng): ‘Người này không giống người bình thường.
  1. Có các giác quan đã được canh phòng, được thích thú với việc tham thiền, có tâm ý không hướng ngoại, vị này đây sẽ là đức Phật, đấng Phúc Lợi của tất cả thế gian, …
  1. … tựa như con sư tử nương náu ở hang động, gây ra nỗi sợ hãi và khiếp đảm, khó mà tiếp cận, khó được gặp, giống như bông hoa odumbara.’  
  1. Sau khi chuyện trò với tôi bằng những lời nói dịu dàng, đức Như Lai ấy đã nói với tôi rằng: ‘Này Rajjumālā, hãy đi đến nương nhờ đức Như Lai.’
  1. Tôi đã lắng nghe lời nói không sai sót, có lợi ích, thanh tịnh, bặt thiệp, mềm mỏng, ngọt ngào, và có sự xua đi tất cả sầu muộn.
  1. Sau khi biết được tôi có tâm đã sẵn sàng, được tịnh tín, có tâm ý trong sạch, đấng Phúc Lợi của tất cả thế gian, đức Như Lai đã chỉ dạy rằng:
  1. ‘Đây là Khổ,’ Ngài đã nói với tôi như thế. ‘Đây là Nguồn Gốc của Khổ, đây là sự Tịch Diệt, và Đạo Lộ trực chỉ thâm nhập vào sự Bất Tử.’
  1. Tôi đã trụ lại trong lời giáo huấn của bậc thiện xảo có lòng thương tưởng; tôi đã chứng đắc sự Bất Tử, an tịnh, Niết Bàn, vị thế vĩnh cửu.
  1. Tôi đây đã đứng vững, có lòng yêu mến, không có sự dao động về quan điểm, với đức tin đã được sanh ra từ cội rễ, là người con gái chánh thống của đức Phật.
  1. Tôi đây thích thú, đùa giỡn, vui sướng, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu, tôi mang tràng hoa của cõi Trời, tôi uống sự dịu ngọt của mật ong.
  1. Có sáu mươi ngàn nhạc cụ làm công việc tiêu khiển cho tôi. (Các nhạc công nam) Āḷamba, Gaggara, Bhīma, Sādhuvādī, và Saṃsaya, …
  1. … Pokkhara, Suphassa, còn các tiên nữ là Vīṇā, Mokkhā, Nandā, luôn cả Sunandā, Soṇadinnā, và Sucimhitā, …
  1. … Aḷambusā, Missakesī và Puṇḍarīkā, Aticāruṇī, Eṇiphassā, Suphassā và Subhaddā, Muduvādinī.
  1. Các cô này và các cô khác là những người làm công việc tiêu khiển giỏi hơn hết trong số các Thiên nhân. Vào thời điểm thích hợp, các Thiên nhân tự nguyện đi đến thưa rằng:
  1. ‘Nào, hãy để chúng tôi múa, hãy để chúng tôi ca. Nào, hãy để chúng tôi làm cho nàng thích thú.’ (Khu vườn) Nandana không sầu muộn đáng yêu này, khu vườn lớn ở cõi Ba Mươi (Ba), là không dành cho những người không làm phước thiện, nơi này chỉ dành cho những người đã làm phước thiện.
  1. Không có sự an lạc cho những người không làm phước thiện ở nơi này và nơi khác, nhưng có sự an lạc cho những người đã làm phước thiện ngay ở nơi này và nơi khác nữa.
  1. Đối với những người mong mỏi sự cộng trú ấy thì nên làm nhiều việc tốt lành, bởi vì những người đã làm phước thiện là những người thành tựu tài sản, được vui sướng ở cõi Trời.
  1. Thật vậy, các đức Như Lai hiện khởi vì lợi ích của số đông, các Ngài xứng đáng được cúng dường, là những nơi sản xuất các ruộng phước cho loài người; sau khi thể hiện sự phục vụ ở những nơi ấy, các thí chủ đi đến cõi Trời.”

Thiên Cung của Rajjumālā.

Phẩm Mañjeṭṭhaka là thứ tư.

*****

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

(Thiên cung) màu đỏ tía, rực rỡ, long tượng, Alomā, người nữ bố thí cháo chua, trú xá, bốn phụ nữ, vườn xoài, (Thiên cung) màu vàng, (chuyện) khúc mía, do sự đảnh lễ, (chuyện) Rajjumālā; bởi vậy phẩm được gọi tên thế ấy.

Thiên Cung Nữ Giới được đầy đủ.

–ooOoo–

 

[1] Hai câu kệ 286, 287 không có ở Tạng Miến Điện và Thái Lan (ND).

[2] Hai câu kệ này là lời của đức Thế Tôn khi Ngài liên hệ đến thời kỳ quá khứ, lúc là thầy giáo dạy đàn tên Guttila, còn người học trò đã thách thức tài nghệ với thầy có tên Mūsila, là tiền thân của Devadatta. Chi tiết câu chuyện được ghi lại ở Chú Giải của tập Kinh này. Bổn Sanh 243 (Guttilajātakaṃ) ở Chú Giải Kinh Bổn Sanh có nội dung cũng tương tợ.

[3] pañcaṅgulikaṃ: (pañca: số 5, aṅgulikaṃ: thuộc về ngón tay), pañcaṅgulikaṃ là một nhúm vật thơm do năm ngón tay chụm lại rồi bốc lên.

[4] Chúa Trời Sakka nhìn thấy ánh sáng vượt trội của Subhaddā nên đã hỏi Bhaddā về điều ấy (Sđd. 153).

[5] Chuyện Thiên Cung Khúc Mía này giống như chuyện Thiên Cung của Người Nữ Bố Thí Mía (các câu kệ 297-307), chỉ thay đổi một chi tiết là “cầm lấy cục đất” thay vì “cầm lấy chiếc ghế” trong việc đả thương cô con dâu của người mẹ chồng (ND).

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Chuyện Thiên Cung“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Chuyện Ngạ Quỷ ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

 

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *