TRƯỞNG LÃO NI KỆ

NHÓM HAI MƯƠI

66.

  1. “Các sợi tóc của tôi đã là màu đen giống như màu của loài ong, có đầu ngọn bị xoắn lại. Bởi tuổi già, chúng trở thành tương tự như những thớ sợi của vỏ cây gai; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
  1. Cái đầu của tôi, đầy những bông hoa, được tỏa hương tựa như cái hộp thơm. Bởi tuổi già, nó trở nên có mùi tương tự như lông của loài chó; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
  1. Tựa như khu rừng rậm khéo được trồng trọt, (đầu tóc) được trông tuyệt đẹp với những đầu ngọn tóc được tách rời ra nhờ vào lược và kim găm. Bởi tuổi già, nó trở nên lơ thơ chỗ này chỗ nọ; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
  1. Được điểm tô với vàng ở chùm tóc đen, được trang điểm với những bím tóc xinh, (đầu tóc) trông tuyệt đẹp. Bởi tuổi già, nó bị làm trở thành cái đầu bị sói; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
  1. Tựa như đường nét được khéo tạo ra bởi người thợ vẽ, cặp lông mày xinh của tôi trước đây trông tuyệt đẹp. Bởi tuổi già, chúng bị giăng ngang với những nếp nhăn; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
  1. Đôi mắt dài, có màu đen tuyền, đã là rực rỡ, vô cùng xinh xắn giống như ngọc ma-ni. Bởi tuổi già, chúng bị tàn phá, không còn tuyệt đẹp; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
  1. Và lỗ mũi tựa như đỉnh chóp thanh tú, trông tuyệt đẹp vào thời điểm còn rất trẻ. Bởi tuổi già, nó tựa như bị quắt lại; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
  1. Hai dái tai của tôi trông tuyệt đẹp, tựa như vòng xuyến khéo được gia công, khéo được hoàn thành. Bởi tuổi già, chúng bị giăng ngang với những nếp nhăn; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
  1. Những cái răng xinh xắn của tôi trước đây trông tuyệt đẹp, tựa như nụ hoa chuối. Bởi tuổi già, chúng bị sứt mẻ và ngả màu vàng; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
  1. Tôi đã thỏ thẻ giọng ngọt ngào tựa như con chim cu cu có sự di chuyển ở trong khu rừng lớn và rừng thưa. Bởi tuổi già, giọng ấy đã bị ngập ngừng chỗ này chỗ nọ; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
  1. Cái cổ xinh của tôi trông vô cùng xinh đẹp, tựa như vỏ sò (có ba ngấn) mềm mại, khéo được chùi bóng. Bởi tuổi già, nó trở nên bị đứt đoạn và võng xuống; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
  1. Hai cánh tay xinh của tôi trông vô cùng xinh đẹp, cả hai giống y như thanh gài cửa tròn trịa. Bởi tuổi già, chúng trở thành giống như (những cành) cây hoa kèn bị khô héo; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
  1. Hai bàn tay xinh của tôi trước đây trông tuyệt đẹp, được tô điểm với chiếc nhẫn thanh nhã làm bằng vàng. Bởi tuổi già, chúng trở thành giống như rễ củ (cà rốt); lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
  1. Bộ ngực nhỏ xinh của tôi trước đây trông tuyệt đẹp, cả hai đều đầy đặn, tròn trịa, liền nhau, dựng đứng. Bởi tuổi già, chúng trở thành lủng lẳng giống như hai túi da hết nước; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
  1. Thân thể xinh của tôi trước đây trông tuyệt đẹp, tựa như lát vàng khéo được đánh bóng. Bởi tuổi già, nó bị tràn lan với các nếp nhăn li ti; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
  1. Cặp đùi xinh của tôi trước đây trông tuyệt đẹp, cả hai tương tự như cái vòi của loài voi. Bởi tuổi già, chúng trở thành giống như các ống tre; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
  1. Hai ống chân xinh của tôi trước đây trông tuyệt đẹp, được điểm tô với các vòng kiềng thanh nhã làm bằng vàng. Bởi tuổi già, chúng trở thành tựa như các cọng thân của cây mè; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
  1. Hai bàn chân xinh của tôi trước đây trông tuyệt đẹp, cả hai tương tự như được phủ đầy bông gòn. Bởi tuổi già, chúng bị nứt nẻ, có nếp nhăn; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
  1. Thân xác này đã trở nên như thế này, già cỗi, nơi chứa đựng nhiều khổ đau, ngôi nhà cũ kỹ bị rơi xuống các lớp vữa hồ; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.”

Trưởng lão ni Ambapālī đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Ambapālī.

67.

  1. “‘Này con gái quý mến, con nằm ngủ (nhắc đến): Các vị Sa-môn. Con thức dậy (nhắc đến): Các vị Sa-môn. Con ngợi ca (các đức tính của) chỉ riêng các vị Sa-môn, chắc hẳn con sẽ trở thành vị nữ Sa-môn.[5]
  1. Con dâng cúng đến các vị Sa-môn cơm ăn và nước uống nhiều lắm. Này Rohiṇī, giờ đây cha hỏi: Vì sao các vị Sa-môn được con quý mến?
  1. Họ không ưa thích công việc, lười biếng, sống nương vào sự bố thí của người khác, có sự mong cầu, ưa thích đồ ngon ngọt. Vì sao các vị Sa-môn lại được con quý mến?’
  1. ‘Thưa cha, đúng là lâu nay cha hỏi con về các vị Sa-môn. Con sẽ ngợi ca với cha về trí tuệ, giới hạnh, và sự nỗ lực của những vị ấy.
  1. Ưa thích công việc, không lười biếng, là những người làm công việc tối thắng, các vị dứt bỏ luyến ái, sân hận; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.
  1. Các vị giũ bỏ ba gốc rễ của việc ác, có các việc làm trong sạch, tất cả các việc ác của những vị ấy đã được dứt bỏ; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.
  1. Thân nghiệp của các vị ấy là thanh tịnh, và khẩu nghiệp là tương tự như thế, ý nghiệp của các vị ấy là thanh tịnh; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.
  1. Không bợn nhơ, trong trắng như là vỏ sò và ngọc trai, trong trắng bên trong và bên ngoài, được đầy đủ với các pháp trong trắng; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.
  1. Có sự nghe nhiều, có sự ghi nhớ về Giáo Pháp, thánh thiện, sống theo (đường lối của) Giáo Pháp, các vị thuyết giảng về ý nghĩa và Giáo Pháp; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.
  1. Có sự nghe nhiều, có sự ghi nhớ về Giáo Pháp, thánh thiện, sống theo (đường lối của) Giáo Pháp, (các vị) có tâm chuyên nhất, có niệm; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.
  1. Có sự đi đến nơi xa vắng, có lời nói đúng đắn, không tự kiêu, các vị nhận biết sự chấm dứt khổ đau; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.
  1. Khi các vị rời khỏi ngôi làng nào, các vị không nhìn ngắm bất cứ vật gì; các vị ra đi hiển nhiên không có sự trông ngóng; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.
  1. Các vị không cất chứa vật sở hữu ở trong kho, ở trong chum, ở trong giỏ; các vị có sự tầm cầu vật thực đã được nấu chín; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.
  1. Các vị ấy không cất giữ vàng khối, vàng ròng, bạc nén; các vị duy trì sự sống với vật trong hiện tại; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.
  1. Đã được xuất gia từ các gia tộc khác nhau, từ các xứ sở khác nhau, các vị quý mến lẫn nhau; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.’
  1. ‘Này con gái quý mến, quả thật là điều tốt đẹp cho chúng ta! Này Rohiṇī, con đã được sanh ra ở gia đình! Con có niềm tin và sự tôn kính sắc bén đối với đức Phật, Giáo Pháp, và Hội Chúng.
  1. Chính con nhận biết thửa ruộng phước vô thượng này. Và các vị Sa-môn ấy cũng (sẽ) nhận lãnh vật cúng dường của chúng ta, bởi vì vật hiến dâng dồi dào của chúng ta sẽ được thiết lập cho các vị Sa-môn.’
  1. ‘Nếu cha sợ khổ, nếu khổ không được cha ưa thích, cha hãy đi đến nương tựa vào đức Phật, Giáo Pháp và Hội Chúng của những vị như thế ấy, hãy thọ trì các giới; việc ấy sẽ đem lại lợi ích cho cha.’[6]
  1. ‘Tôi đi đến nương tựa vào đức Phật, Giáo Pháp và Hội Chúng của những vị như thế ấy, tôi thọ trì các giới; việc ấy sẽ đem lại lợi ích cho tôi.
  1. Trước đây, tôi đã là thân quyến của Phạm Thiên. Bây giờ, tôi đây là vị Bà-la-môn. Tôi có ba Minh và có các sự tốt lành, đã đạt được sự hiểu biết, và tôi là người đã hoàn tất việc tắm.’”

Trưởng lão ni Rohiṇī đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Rohiṇī.

  1. “‘Trước đây, người ấy đã là vị (đạo sĩ) có gậy ở bàn tay. Bây giờ, người ấy là thợ săn thú rừng. Vì tham ái, người ấy đã không thể đi đến bờ kia từ đầm lầy ghê rợn.[7]
  1. Trong khi nghĩ rằng tôi là vô cùng cởi mở, Cāpā đã chọc giỡn đứa con trai. Sau khi cắt đứt sự trói buộc của Cāpā, tôi sẽ xuất gia lại lần nữa.’
  1. ‘Ôi vị đại anh hùng, xin chàng chớ giận thiếp! Ôi vị đại hiền trí, xin chàng chớ giận thiếp! Bởi vì sự thanh tịnh không có cho người bị sự giận dữ chế ngự, từ đâu mà có được sự khổ hạnh?’
  1. ‘Tôi sẽ rời khỏi Nālā. Ai sẽ sống ở nơi đây, tại Nālā, trong khi cô, với sắc đẹp nữ nhân, trói buộc các Sa-môn có cuộc sống theo Giáo Pháp?’
  1. ‘Chàng Kāḷa ơi, chàng hãy đến, chàng hãy quay về, chàng hãy thọ hưởng các dục lạc giống như trước đây. Thiếp và những người nào là thân quyến của thiếp sẽ chịu sự sai khiến của chàng.’
  1. ‘Chỉ cần một phần tư của điều ấy, giống như lời nàng nói với ta, điều ấy quả thật là quý hóa cho người đàn ông đã say đắm nàng.’
  1. ‘Chàng Kāḷa ơi, (thiếp) tựa như chồi non của cây takkārī đã được đơm hoa ở trên đỉnh núi, tựa như giống dây leo dāḷima đã được nở rộ hoa, tựa như cây hoa kèn ở bên trong hòn đảo.
  1. (Thiếp) có tay chân được bôi trầm hương màu vàng, mặc loại vải Kāsī thượng hạng, trong khi thiếp đây đang có sắc đẹp, bởi vì ai chàng nỡ bỏ thiếp ra đi?’
  1. ‘Giống y như người thợ bẫy chim muốn bắt con chim, nàng muốn trói buộc ta bằng sắc đẹp hấp dẫn. Nàng sẽ không cám dỗ được ta.’
  1. ‘Chàng Kāḷa ơi, còn kết quả đứa con trai này của thiếp là do chàng đã tạo ra. Trong khi thiếp đây có con trai, bởi vì ai chàng nỡ bỏ thiếp ra đi?’
  1. ‘Các bậc có trí tuệ lìa bỏ những đứa con trai, rồi các thân quyến, sau đến tài sản. Các bậc đại anh hùng xuất gia, tựa như con voi đã ra đi sau khi giật đứt sự trói buộc.’
  1. ‘Giờ đây, bằng cây gậy hoặc bằng con dao, thiếp có thể làm đứa con trai này của chàng té ngã ở trên mặt đất. Vì sự lo âu cho con trai, chàng không ra đi.’
  1. ‘Này cô nàng tồi tệ, nếu nàng cho đứa con trai đến những con chó rừng, đến những con chó hoang, do việc đã làm đối với đứa con trai, nàng cũng sẽ không làm cho ta quay trở lại.’
  1. ‘Đã thế thì thưa bậc đạo hạnh, giờ đây thì hãy như vậy đi. Này chàng Kāḷa, chàng sẽ đi đâu? Làng mạc, thị trấn , thành phố , các kinh đô nào?’
  1. ‘Trước đây, bọn ta đã có đồ chúng, không phải là các Sa-môn, nhưng nghĩ là Sa-môn. Bọn ta đã lang thang từ làng này đến làng khác, đến các thành phố, đến các kinh đô.
  1. Bởi vì đức Phật Thế Tôn ấy, ở cạnh dòng sông Nerañjarā, thuyết giảng Giáo Pháp nhằm việc dứt bỏ tất cả khổ đau cho các sanh linh. Ta sẽ đi đến gặp vị ấy; vị ấy sẽ là bậc Đạo Sư của ta.’
  1. ‘Chàng nên thuật lại với đấng Bảo Hộ Thế Gian vô thượng về sự kính lễ bây giờ (của thiếp), và sau khi đã hướng bên phải nhiễu quanh, chàng nên trình lên vật cúng dường (của thiếp).’
  1. ‘Điều ấy quả là khả dĩ đối với bọn ta, giống như lời nàng nói với ta. Ta sẽ thuật lại với đấng Bảo Hộ Thế Gian vô thượng về sự kính lễ bây giờ (của nàng), và sau khi đã hướng bên phải nhiễu quanh, ta sẽ trình lên vật cúng dường (của nàng).’
  1. Ngay sau đó, Kāḷa ra đi về phía dòng sông Nerañjarā. Vị ấy đã nhìn thấy đấng Toàn Giác đang thuyết giảng về vị thế Bất Tử, …
  1. … về Khổ, về sự sanh lên của Khổ, về sự vượt qua Khổ, và về Thánh Đạo tám chi phần đưa đến sự yên lặng của Khổ.[8]
  1. Sau khi đảnh lễ hai bàn chân của Ngài, sau khi hướng bên phải nhiễu quanh Ngài, sau khi trình lên (vật cúng dường) của Cāpā, vị ấy đã xuất gia sống đời không nhà. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.”

Trưởng lão ni Cāpā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Cāpā.

69.

  1. “‘Này bà quý mến, trước đây trong khi để cho các người con trai đã chết bị nhai ngấu nghiến (bởi loài thú), bà quả thật vô cùng buồn bực ban ngày lẫn ban đêm.
  1. Này nữ Bà-la-môn Vāseṭṭhī,[9] hôm nay sau khi đã để cho tất cả một trăm người con trai bị nhai ngấu nghiến, vì lý do gì mà bà đây không buồn bực nhiều?’
  1. ‘Này ông Bà-la-môn, nhiều trăm đứa con trai và nhiều trăm tập thể thân quyến của tôi và của ông trong thời quá khứ đã bị để cho nhai ngấu nghiến (bởi loài thú).
  1. Sau khi biết được lối thoát ra khỏi sự sống và sự chết, tôi đây không sầu muộn, không khóc lóc, và cũng đã không còn buồn bực nữa.’
  1. ‘Này Vāseṭṭhī, bà nói lời như thế quả thật là phi thường! Sau khi biết Giáo Pháp của ai mà bà nói lời vững chãi như thế?’
  1. ‘Này ông Bà-la-môn, đấng Toàn Giác ấy, ở cạnh thành phố Mithilā, đã thuyết giảng Giáo Pháp nhằm việc dứt bỏ tất cả khổ đau cho các sanh linh.
  1. Này ông Bà-la-môn, sau khi lắng nghe Giáo Pháp không có mầm mống tái sanh của vị A-la-hán ấy, tại nơi ấy, với Chánh Pháp đã được nhận thức, tôi đã xua tan nỗi sầu muộn về những đứa con trai.’
  1. ‘Tôi đây cũng sẽ đi về phía thành phố Mithilā. Có lẽ đức Thế Tôn ấy có thể giúp cho tôi giải thoát khỏi tất cả khổ đau.’ Vị Bà-la-môn đã nhìn thấy đức Phật, bậc đã được hoàn toàn giải thoát, không còn mầm mống tái sanh.
  1. Đấng Hiền Trí, bậc đã đi đến bờ kia của khổ đau, đã thuyết giảng Giáo Pháp cho vị (Bà-la-môn) ấy về Khổ, về sự sanh lên của Khổ, về sự vượt qua Khổ, và về Thánh Đạo tám chi phần đưa đến sự yên lặng của Khổ.[10]
  1. Tại nơi ấy, với Chánh Pháp đã được nhận thức, vị ấy đã tự mình thích thú với việc xuất gia. Sau ba đêm, Sujāta đã chạm đến ba Minh.
  1. ‘Này người đánh xe, hãy đến. Ngươi hãy đi, hãy đưa cỗ xe này về. Hãy chúc bà Bà-la-môn được mạnh khỏe (và nói rằng): Giờ đây, ông Bà-la-môn đã xuất gia. Sau ba đêm, Sujāta đã chạm đến ba Minh.’
  1. Và sau đó, người đánh xe đã nhận lấy cỗ xe và một ngàn (đồng tiền) rồi đã chúc bà Bà-la-môn được mạnh khỏe (và nói rằng): ‘Giờ đây, ông Bà-la-môn đã xuất gia. Sau ba đêm, Sujāta đã chạm đến ba Minh.’
  1. ‘Này người đánh xe, sau khi biết được ông Bà-la-môn có được ba Minh, tôi cho ông một bình bát đầy với cỗ xe đã thắng ngựa này, và luôn cả một ngàn (đồng tiền).’[11]
  1. ‘Thưa bà Bà-la-môn, hãy để cỗ xe đã thắng ngựa này và luôn cả một ngàn (đồng tiền) lại cho chính bà. Tôi cũng sẽ xuất gia trong sự chứng minh của bậc có trí tuệ cao quý.’
  1. Ngài là đức Phật. Ngài là bậc Đạo Sư. Bạch đấng Bà-la-môn, con là người con gái chính thống của Ngài, đã được sanh ra từ miệng, có phận sự đã làm xong, không còn lậu hoặc.’
  1. ‘Này vị ni hiền thiện, cô đây có việc đã đi đến tốt đẹp, do đó cô có việc đã đi đến không xấu xa. Bởi vì những người đã được thuần phục đi đến như vậy, đã được đảnh lễ hai bàn chân của bậc Đạo Sư, có luyến ái đã được xa lìa, không bị ràng buộc, có phận sự đã làm xong, không còn lậu hoặc.’”

Trưởng lão ni Sundarī đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Sundarī.

70.

  1. Tôi đã được nghe Giáo Pháp trước đây lúc còn trẻ tuổi, có y phục tinh khiết. Tôi đây, không bị xao lãng, đã có sự lãnh hội về các Sự Thật.
  1. Nhờ vậy, tôi đã đạt đến sự không thích thú lớn lao về tất cả các loại dục. Sau khi nhìn thấy nỗi sợ hãi về bản ngã, tôi ao ước chỉ mỗi việc xuất ly.
  1. Tôi đã lìa bỏ đám đông thân quyến, các nô lệ và những người hầu, các làng mạc ruộng đất phì nhiêu, các vật đáng yêu đã được vui thích.
  1. Sau khi dứt bỏ của cải không phải là ít, tôi đã xuất gia. Với niềm tin như thế, tôi đã xuất ly ở trong Chánh Pháp khéo được công bố. Việc này[12] là không thích đáng đối với tôi, bởi vì tôi ước nguyện trạng thái không sở hữu.
  1. Người nào đã quăng bỏ vàng bạc không nên tiếp nhận trở lại. Bạc hay vàng không đưa đến sự giác ngộ, không đưa đến sự thanh tịnh. Việc này là không thích hợp với Sa-môn, việc này không là tài sản thánh thiện.
  1. Việc này là lòng tham, là sự say đắm, sự mê muội, sự tăng trưởng nhơ bẩn, có sự nguy hiểm, có nhiều phiền toái, và ở đây không có sự vững chắc, bền lâu.
  1. Ở đây, loài người bị tham đắm, và bị xao lãng, có tâm ý bị ô nhiễm. Bị đối chọi lẫn nhau, những kẻ phàm phu gây nên sự xung đột.
  1. Sự giết chóc, giam cầm, tai họa, mất mát, sầu muộn, than vãn, nhiều sự bất hạnh được nhìn thấy đối với những người bị đắm chìm trong các dục.
  1. Các người là thân quyến, tại sao lại lôi kéo tôi đây vào trong các dục, như là những kẻ thù vậy? Các người phải biết rằng tôi đã được xuất gia, có sự nhìn thấy nỗi sợ hãi trong các dục.
  1. Các lậu hoặc không được cạn kiệt nhờ vào vàng khối hay vàng ròng. Các dục là những kẻ thù, những kẻ giết người, là đối nghịch, là những sự trói buộc vào các mũi tên (luyến ái, sân hận, si mê).
  1. Các người là thân quyến, tại sao lại lôi kéo tôi đây vào trong các dục, như là những kẻ thù vậy? Các người phải biết rằng tôi đã được xuất gia, đầu cạo, trùm lên y hai lớp.
  1. Đồ ăn do đã đứng (chờ đợi), sự khất thực, và y may bằng vải quăng bỏ, việc này quả là thích hợp với tôi, là (những) vật nâng đỡ cho người sống không nhà.
  1. Các dục, thuộc về cõi trời và thuộc về loài người, đã bị chối từ bởi các vị đại ẩn sĩ. Ở chốn an toàn, các vị ấy đã được hoàn toàn giải thoát, các vị ấy đã đạt đến sự an lạc không bị dao động.
  1. Tôi đây đã tiếp xúc với các dục, chỗ nương tựa ở nơi chúng không được tìm thấy. Các dục là những kẻ thù, những kẻ giết người, những sự khổ đau, tương tự như những đống lửa.
  1. (Các dục) ấy là sự trở ngại, là nỗi sợ hãi, có sự phá hoại, có gai nhọn. Sự ham muốn là vô cùng khập khiễng, là sự bôi bẩn, là nguyên nhân lớn tạo ra sự mê muội.
  1. Các dục là sự khuấy rối, có dáng vóc ghê rợn, tương tự cái đầu con rắn; những kẻ nào là ngu dốt, bị mù lòa, những kẻ phàm phu thì ưa thích.
  1. Bởi vì bị gắn bó với đám lầy của các dục, nhiều người ngu dốt ở thế gian không biết về việc chấm dứt sanh tử.
  1. Vì nguyên nhân các dục, nhiều người, quả nhiên bằng nhiều lối, thực hành con đường dẫn đến cảnh giới khổ đau, đem lại bệnh tật cho bản thân.
  1. Như vậy, các dục là sự sản sanh ra kẻ thù, là sự thiêu đốt, liên quan đến phiền não, là mồi nhử của thế gian cần được buộc trói lại, là sự trói buộc vào cái chết.
  1. Các dục là (nguyên nhân tạo ra) các sự điên cuồng, các sự tâng bốc, các sự kích động của tâm, là lưới bẫy đã được giăng ra bởi Ma Vương, đem lại phiền não cho các chúng sanh.
  1. Các dục có những điều bất lợi vô hạn, có nhiều khổ đau, là các chất độc mạnh, có ít khoái lạc, là những yếu tố gây nên khuấy rối, có sự tiêu diệt các thành phần trong sạch.
  1. Sau khi đã gây nên điều bất hạnh như thế ấy, có nguyên nhân là các dục, tôi sẽ không quay trở lại việc ấy nữa, luôn luôn thỏa thích Niết Bàn.
  1. Sau khi vượt qua sự khuấy rối của các dục, có sự mong mỏi trạng thái mát mẻ, không bị xao lãng, tôi sẽ an trú trong sự cạn kiệt các điều ràng buộc.
  1. Tôi sẽ đi theo Đạo Lộ không có sầu muộn, xa lìa luyến ái, an toàn, thánh thiện, có tám chi phần, thẳng tắp ấy, nhờ nó mà các bậc đại ẩn sĩ đã được vượt qua.
  1. ‘Các vị hãy nhìn xem Subhā này, con gái người thợ rèn, đã đứng vững ở trong Giáo Pháp. Sau khi tiến đến sự không còn dục vọng, nàng tham thiền ở cội cây.[13]
  1. Đã được xuất gia đến hôm nay là ngày thứ tám, có niềm tin, có sự chói sáng của Chánh Pháp, được hướng dẫn bởi vị ni Uppalavaṇṇā, nàng có ba Minh, có sự chiến thắng Thần Chết.
  1. Nàng đây là người (nô lệ đã được) tự do, không còn nợ nần, là vị tỳ khưu ni, có các giác quan đã được tu tập, đã tách rời mọi điều ràng buộc, có phận sự đã làm xong, không còn lậu hoặc.’
  1. Vị chúa tể của các sanh linh Sakka, cùng với hội chúng chư Thiên, bằng thần thông đã đi đến gặp và lễ bái Subhā, con gái người thợ rèn.”

Trưởng lão ni Subhā, con gái người thợ rèn, đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Subhā, con gái người thợ rèn.

Nhóm Hai Mươi được chấm dứt.

–ooOoo–

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Ni Kệ“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Ni Kệ” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *