TRƯỞNG LÃO NI KỆ

NHÓM SÁU

50.

  1. “‘Cô không biết chúng sinh ấy đã từ đâu đi đến, (không biết) con đường đã đi đến hoặc đã ra đi của nó, thế mà cô khóc là: Con trai tôi!
  1. Nếu cô biết con đường đã đi đến hoặc đã ra đi của nó, thì cô không sầu muộn cho nó, bởi vì các sinh linh có quy luật như vậy.
  1. Không được mời mọc, từ nơi kia nó đã đi đến; không được cho phép, từ nơi này nó đã ra đi. Thật vậy, sau khi đã đi đến từ nơi nào đó, sau khi sống vài ngày, từ nơi này nó cũng đã ra đi bằng cách khác, từ nơi kia nó cũng sẽ ra đi bằng cách khác.
  1. Nó đã từ trần với vóc dáng con người, trong khi còn luân hồi, nó sẽ còn ra đi. Nó đã đi đến như thế nào, nó đã ra đi như thế ấy. Trong trường hợp ấy, than khóc có ý nghĩa gì?’
  1. Quả thật, vị ni ấy đã rút ra mũi tên khó nhìn thấy đã được cắm vào trái tim, khi tôi bị sầu muộn chế ngự, vị ni ấy đã xua đi nỗi sầu muộn về người con trai cho tôi.[7]
  1. Hôm nay, tôi đây, có mũi tên đã được rút ra, không còn cơn đói, đã chứng Niết Bàn. Tôi đi đến nương nhờ đức Phật, bậc Hiền Trí, Giáo Pháp, và Hội Chúng.”[8]

Các tỳ khưu ni trưởng lão số lượng 500 vị đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của năm trăm vị trưởng lão ni.

51.

  1. “Do nỗi sầu muộn về đứa con trai, tôi bị khổ sở, có tâm bị rối loạn, không còn nhận biết, lõa thể, và đầu tóc rối tung, tôi đã đi lang thang đó đây.
  1. Tôi đã sống ở những đống rác, ở bãi tha ma, và ở những đường lộ. Tôi đã lang thang ba năm, chịu đựng sự đói khát.
  1. Về sau, tôi đã nhìn thấy đấng Thiện Thệ, bậc thuần phục những kẻ chưa được thuần phục, đấng Toàn Giác, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu, đang đi về hướng thành Mithilā.
  1. Sau khi đạt lại được tâm của mình, tôi đã đảnh lễ, rồi đã ngồi xuống. Vị Gotama ấy, vì lòng bi mẫn, đã thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi.
  1. Sau khi lắng nghe Pháp của Ngài, tôi đã xuất gia sống đời không nhà. Trong khi rèn luyện theo lời dạy của bậc Đạo Sư, tôi đã chứng ngộ vị thế An Toàn.
  1. Tất cả các nỗi sầu muộn đã được trừ tuyệt, đã được dứt bỏ, có sự tận cùng ở vị thế này; bởi vì tôi đã biết toàn diện các nền tảng, từ nơi ấy có sự sanh khởi các nỗi sầu muộn.”

Trưởng lão ni Vāseṭṭhī đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Vāseṭṭhī.

52.

  1. “‘Nàng trẻ trung và có sắc đẹp, ta cũng trẻ trung và là thanh niên. Này Khemā, nàng hãy đến. Chúng ta hãy vui thú với nhạc cụ gồm có năm loại.’[9]
  1. ‘Ta bị khổ sở, bị hổ thẹn với xác thân hôi thối, bệnh hoạn, mảnh mai này. Ta có tham ái trong các dục đã được xóa sạch.
  1. Các dục như là gươm giáo, các uẩn như là cái thớt của chúng. Điều ngươi gọi là sự thích thú trong các dục, điều ấy giờ đây là sự không thích thú đối với ta.[10]
  1. Sự vui thích đã được phá hủy ở tất cả các nơi. Khối đống tăm tối (vô minh) đã được phá tan. Này Ác Nhân, ngươi hãy biết như thế. Này Tử Thần, ngươi đã bị đánh bại.
  1. Này những kẻ ngu dốt, trong khi lễ bái các vì tinh tú, trong khi thờ phụng ngọn lửa ở trong rừng, trong khi không biết đúng theo bản thể, các ngươi nghĩ là sự trong sạch.
  1. Còn ta, ngay trong khi lễ bái đấng Toàn Giác, bậc Tối Thượng Nhân, ta đã được hoàn toàn giải thoát khỏi tất cả các khổ đau, ta là người thực hành Giáo Pháp của đấng Đạo Sư.’”

Trưởng lão ni Khemā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Khemā.

53.

  1. “Được trang điểm, có y phục đẹp, có tràng hoa, được bôi trầm hương, được che phủ với tất cả các đồ trang sức, (tôi) dẫn đầu đám nữ tỳ.
  1. Sau khi cầm lấy cơm và nước, vật thực cứng mềm không phải là ít, sau khi rời khỏi nhà, tôi đã cho mang đến vườn hoa.
  1. Sau khi đã vui thú và đùa giỡn ở nơi ấy, trong khi đi về lại nhà của mình, tôi đã nhìn thấy tu viện và tôi đã đi vào khu rừng Añjana ở Sāketa.
  1. Sau khi nhìn thấy đấng Quang Đăng của thế gian, tôi đã đảnh lễ và đã ngồi xuống. Bậc Hữu Nhãn ấy, vì lòng bi mẫn, đã thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi.
  1. Và sau khi lắng nghe, quả nhiên tôi đã thấu triệt Chân Lý của bậc Đại Ẩn Sĩ. Ngay tại nơi ấy, tôi đã chạm đến Giáo Pháp vô nhiễm, vị thế Bất Tử.
  1. Sau đó, nhận thức được Chánh Pháp, tôi đã xuất gia sống đời không nhà. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật là không vô ích.”

Trưởng lão ni Sujātā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Sujātā.

54.

  1. “Tôi đã được sanh ra trong gia đình cao quý, có nhiều của cải, có tài sản đồ sộ, được thành tựu về màu da và dáng vóc, con gái ruột của Megha.
  1. Được những người con trai của các vị vua ao ước, được những người con trai của các nhà triệu phú khao khát, họ đã gởi sứ giả đến gặp cha tôi: ‘Hãy gả Anopamā cho chúng tôi.
  1. Cô con gái Anopamā ấy của ông được cân nặng chừng nào, tôi sẽ trao vàng và ngọc tám lần so với chừng ấy.’
  1. Tôi đây, sau khi lắng nghe đấng Toàn Giác, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Vô Thượng, tôi đã đảnh lễ hai bàn chân của Ngài rồi đã ngồi xuống một bên.
  1. Ngài Gotama ấy, vì lòng bi mẫn, đã thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi. Ngồi ở tại chỗ ấy, tôi đã chạm đến quả vị thứ ba.
  1. Sau đó, tôi đã cắt tóc, tôi đã xuất gia sống đời không nhà. Hôm nay, đối với tôi là đêm thứ bảy, kể từ lúc ấy tham ái đã được làm khô héo.”

Trưởng lão ni Anopamā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Anopamā.

55.

  1. “Bạch đức Phật, bậc Anh Hùng, đấng Vô Thượng của tất cả chúng sanh, xin kính lễ Ngài, Ngài đã giúp cho con và nhiều người khác giải thoát khỏi khổ đau.
  2. Tất cả khổ đau đã được biết toàn diện, nhân tham ái đã được làm khô héo, Đạo Lộ tám chi phần đã được tu tập, sự Tịch Diệt đã được tôi chạm đến.
  1. Và trước đây, tôi đã là người mẹ, con trai, người cha, con gái, và bà nội (của Ngài). Trong khi không nhận biết đúng theo bản thể, tôi đã luân hồi không ngừng nghỉ.
  1. Bởi vì đức Thế Tôn ấy đã được tôi nhìn thấy, đây là xác thân sau chót (của tôi). Việc luân hồi tái sanh đã được triệt tiêu, giờ đây không còn tái sanh nữa.[11]
  1. Tôi nhìn thấy các vị Thinh Văn, có sự nỗ lực tinh tấn, có bản tánh cương quyết, thường xuyên có sự ra sức vững chãi, có sự hợp nhất; điều này là sự lễ bái đến chư Phật.
  1. Đúng vậy, vì lợi ích của nhiều người, (hoàng hậu) Māyā đã sanh ra Gotama. Ngài đã xua đi khối đống khổ đau cho những người bị công kích bởi bệnh tật và chết chóc.”

Trưởng lão ni Mahāpajāpatīgotamī đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Mahāpajāpatīgotamī.

56.

  1. “Này Guttā, sau khi lìa bỏ con trai và gia súc yêu quý, (cô có) sự xuất gia với mục đích nào thì cô hãy đeo đuổi chính mục đích ấy, chớ rơi vào sự tác động của tâm.
  1. Bị tâm lường gạt, được thích thú ở lãnh địa của Ma Vương, chúng sanh trải qua sự luân hồi trong nhiều kiếp sống, không hiểu biết.
  1. Sự ham muốn về các dục, ác tâm, và luôn cả sự nhận thức sai trái về thân, sự bám víu vào giới và nghi thức, và hoài nghi là thứ năm.
  1. Này tỳ khưu ni, sau khi từ bỏ những sự ràng buộc có khả năng đưa đến (các cảnh giới) hạng thấp ấy, cô sẽ không trở lại nơi này nữa.
  1. Sau khi bỏ đi luyến ái, ngã mạn, vô minh, và loạn động, sau khi cắt đứt những sự ràng buộc, cô sẽ thực hiện việc chấm dứt khổ đau.[12]
  1. Sau khi tiêu trừ việc luân hồi tái sanh, sau khi biết toàn diện về việc hiện hữu lần nữa, ngay trong thời hiện tại, không còn cơn đói, cô sẽ sống được an tịnh.”

Trưởng lão ni Guttā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Guttā.

57.

  1. “Không đạt được sự an tịnh của ý, không làm chủ được việc kiểm soát ở tâm, tôi đã đi ra khỏi trú xá bốn lần, năm lần.[13]
  1. Sau khi đi đến gặp vị tỳ khưu ni, tôi đã bày tỏ sự tôn kính rồi đã vấn hỏi. Vị ni ấy đã thuyết giảng cho tôi về (mười tám) giới và (mười hai) xứ.
  1. Về bốn Chân Lý cao thượng, các quyền, và các lực, các yếu tố đưa đến giác ngộ, Đạo Lộ tám chi phần đưa đến sự đạt được mục đích cao thượng.
  1. Sau khi lắng nghe lời nói của vị ni ấy, trong khi làm theo lời chỉ dạy, vào canh thứ nhất của đêm, tôi đã nhớ lại đời sống trước đây.
  1. Vào canh giữa của đêm, tôi đã làm trong sạch Thiên nhãn. Vào canh cuối của đêm, tôi đã phá tan khối đống tăm tối (vô minh).[14]
  1. Và khi ấy, sau khi thấm nhuần cơ thể với hỷ và lạc, tôi đã an trú. Vào ngày thứ bảy, tôi đã duỗi ra các bàn chân, sau khi đã phá tan khối đống tăm tối (vô minh).”

Trưởng lão ni Vijayā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Vijayā.

Nhóm Sáu được chấm dứt.

–ooOoo–

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Ni Kệ“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Ni Kệ” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *