TRƯỞNG LÃO NI KỆ 

NHÓM MỘT

1.

  1. “Này vị ni bé nhỏ, được trùm lên bằng mảnh vải đã tự làm, cô hãy ngủ an lạc, bởi vì sự luyến ái của cô đã lặng yên, ví như rau xanh (đã được nấu đến lúc) ráo nước ở trong nồi.”

Một vị tỳ khưu ni trưởng lão nào đó không rõ đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của một trưởng lão ni nào đó.

2.

  1. “Này Muttā, cô hãy tự thoát ra khỏi các sự ràng buộc, ví như mặt trăng thoát ra khỏi sự nắm giữ của Rāhu (hiện tượng nguyệt thực); với tâm đã được giải thoát, không còn nợ nần, cô hãy thọ dụng đồ ăn khất thực.”

Đức Thế Tôn thường xuyên giáo huấn vị ni tu tập sự Muttā bằng lời kệ này như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Muttā.

3.

  1. “Này Puṇṇā, cô hãy làm cho đầy đủ với các Pháp (đưa đến giác ngộ), tựa như mặt trăng tròn ngày rằm; với trí tuệ đã được tròn đủ, cô hãy phá tan khối đống tăm tối (vô minh).”

Trưởng lão ni Puṇṇā đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Puṇṇā.

4.

  1. “Này Tissā, cô hãy học tập trong việc học tập, chớ để các điều ràng buộc ngự trị cô. Được tách rời mọi điều ràng buộc, không còn lậu hoặc, cô hãy sống ở thế gian.”

Trưởng lão ni Tissā đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Tissā.

5.

  1. “Này Tissā, cô hãy gắn bó với các Pháp, chớ để thời cơ vuột khỏi cô. Bởi vì những kẻ để thời cơ qua đi, bị đọa vào địa ngục, chúng sầu muộn.”

Trưởng lão ni Tissā đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Tissā.

6.

  1. “Này Dhīrā, cô hãy chạm đến sự tịch diệt, sự tịnh lặng của các tưởng, sự an lạc; hãy thành tựu Niết Bàn vô thượng, sự lặng yên của các điều ràng buộc.”

Trưởng lão ni Dhīrā đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Dhīrā.

7.

  1. “Này Vīrā, vị tỳ khưu ni có các căn đã được tu tập, cô hãy tinh tấn với các Pháp, hãy duy trì thân xác cuối cùng sau khi chiến thắng Ma Vương cùng với quân binh.”

Trưởng lão ni Vīrā đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Vīrā.

8.

  1. “Này Mittā, sau khi xuất gia với niềm tin, hãy vui thích với bạn lành, hãy tu tập trong các thiện pháp nhằm đạt được sự an toàn khỏi các ràng buộc.”

Trưởng lão ni Mittā đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Mittā.

9.

  1. “Này Bhadrā hiền thiện, sau khi xuất gia với niềm tin, hãy vui thích với các việc tốt lành, hãy tu tập trong các thiện pháp (nhằm đạt được) sự an toàn vô thượng khỏi các trói buộc.”

Trưởng lão ni Bhadrā đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Bhadrā.

10.

  1. “Này Upasamā, nên vượt qua cơn lũ, lãnh địa của Thần Chết rất khó vượt qua, hãy duy trì thân xác cuối cùng sau khi chiến thắng Ma Vương cùng với quân binh.”

Trưởng lão ni Upasamā đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Upasamā.

11.

  1. “Lành thay tôi đã được giải thoát, đã khéo được giải thoát với sự giải thoát ba điều tệ hại là cái cối, cái chày, và ông chồng lưng còng. Tôi đã được giải thoát khỏi sanh tử, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa sạch.”

Trưởng lão ni Muttā đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Muttā.

12.

  1. “Nên có lòng ước muốn sanh khởi, có sự dứt khoát, và được lan tỏa bằng tâm. Người có tâm không bị trói buộc ở các dục, được gọi là ‘người lội ngược dòng nước.’”

Trưởng lão ni Dhammadinnā đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Dhammadinnā.

13.

  1. “Cô hãy thực hành lời dạy của đức Phật, sau khi đã làm điều ấy, không phải ân hận. Hãy mau chóng rửa các bàn chân rồi ngồi xuống ở một bên.”

Trưởng lão ni Visākhā đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Visākhā.

14.

  1. “Sau khi nhìn thấy các giới (uẩn-xứ-giới) là khổ đau, chớ đi đến sự sanh lần nữa. Sau khi buông bỏ ước muốn ở hiện hữu, cô sẽ sống, được an tịnh.”

Trưởng lão ni Sumanā đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Sumanā.

15.

  1. “Tôi đã thu thúc về thân, về khẩu, rồi về ý. Sau khi nhổ lên tham ái luôn cả gốc rễ, tôi có được trạng thái mát mẻ, chứng được Niết Bàn.”

Trưởng lão ni Uttarā đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Uttarā.

16.

  1. “Này sư cụ ni, được trùm lên bằng mảnh vải đã tự làm, bà hãy ngủ an lạc. Bởi vì sự luyến ái của bà đã lặng yên, bà có được trạng thái mát mẻ, chứng được Niết Bàn.”

Trưởng lão ni Sumanā, vị ni xuất gia ở tuổi già, đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Sumanā, vị xuất gia ở tuổi già.

17.

  1. “Sau khi đi khất thực, yếu sức, tựa vào cây gậy, với tay chân đang run rẩy, tôi đã ngã xuống trên mặt đất ngay tại chỗ ấy. Sau khi nhìn thấy điều bất lợi ở thân thể, tâm của tôi đã được giải thoát.”

Trưởng lão ni Dhammā đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Dhammā.

18.

  1. “Sau khi từ bỏ gia đình, tôi đã xuất gia. Sau khi từ bỏ con trai và gia súc yêu quý, sau khi từ bỏ ái dục và sân, và sau khi buông bỏ vô minh, sau khi nhổ lên tham ái luôn cả gốc rễ, tôi có được trạng thái an tịnh, chứng được Niết Bàn.”

Trưởng lão ni Saṅghā đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Saṅghā.

Nhóm Một được chấm dứt.

–ooOoo–

3. NHÓM BA

29.

  1. “Hai mươi lăm năm kể từ khi tôi đã được xuất gia, tôi không biết sự bình lặng của tâm đã có khi nào đạt được.
  1. Không đạt được sự an tịnh của ý, không làm chủ được việc kiểm soát ở tâm, do đó, tôi đã đạt đến sự chấn động sau khi nhớ lại lời dạy của đấng Chiến Thắng.
  1. Do nhiều hiện tượng khổ đau, tôi đã thích thú ở sự không xao lãng; sự cạn kiệt của tham ái đã được tôi thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành. Hôm nay, đối với tôi là đêm thứ bảy, kể từ lúc ấy tham ái đã được làm khô héo.”

Trưởng lão ni Sāmā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Sāmā.

30.

  1. “Không đạt được sự an tịnh của ý, không làm chủ được việc kiểm soát ở tâm, tôi đã đi ra khỏi trú xá bốn lần, năm lần.[2]
  1. Tôi đây đã đi đến gặp vị tỳ khưu ni, vị ni ấy đối với tôi đã là người đáng tin cậy. Vị ni ấy đã thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi về (năm) uẩn, (mười hai) xứ, (mười tám) giới.
  1. Sau khi lắng nghe Pháp của vị ni ấy, đúng theo như vị ni ấy đã chỉ dạy cho tôi, tôi đã ngồi xuống chỉ một tư thế kiết già trong bảy ngày, đạt được sự an lạc. Vào ngày thứ tám, tôi đã duỗi ra các bàn chân, sau khi đã phá tan khối đống tăm tối (vô minh).”

Trưởng lão ni Uttamā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Uttamā.

31.

  1. “Bảy giác chi này là các con đường đưa đến sự đạt được Niết Bàn, tất cả các pháp ấy đã được tôi tu tập đúng theo như (lời) đã được thuyết giảng bởi đức Phật.[3]
  1. Tôi có sự đạt được không tánh và vô tướng theo như ước muốn. Tôi là người con gái chính thống của đức Phật, luôn luôn thỏa thích Niết Bàn.
  1. Tất cả các dục thuộc về cõi trời và thuộc về loài người đã được trừ tuyệt, việc luân hồi tái sanh đã được triệt tiêu, giờ đây không còn tái sanh nữa.”

Trưởng lão ni Uttamā khác đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Uttamā.

 32.

  1. “Sau khi rời khỏi chỗ nghỉ ban ngày ở ngọn núi Gijjhakūṭa, tôi đã nhìn thấy con voi lội xuống rồi bước lên ở bờ sông.
  1. Người đàn ông cầm lấy cái móc câu yêu cầu rằng: ‘Hãy đưa bàn chân ra.’ Con voi đã duỗi bàn chân ra, người đàn ông đã trèo lên con voi.
  1. Sau khi nhìn thấy con vật chưa được huấn luyện đã được huấn luyện, đã đi vào sự kiểm soát của loài người, do đó, tôi đã tập trung tâm, đã đi vào khu rừng đương nhiên vì việc ấy.”

Trưởng lão ni Dantikā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Dantikā.

33.

  1. “‘Bà khóc lóc ở trong rừng rằng: Ôi Jīvā con ơi! Này bà Ubbirī, hãy trấn tĩnh bản thân. Tất cả tám mươi bốn ngàn cô gái đã được thiêu đốt ở nơi hỏa táng này đều có tên Jīvā, bà buồn rầu cho cô nào trong số đó?’
  1. Quả thật, Ngài đã rút ra mũi tên khó nhìn thấy đã được cắm vào trái tim, là việc khi tôi bị sầu muộn chế ngự, Ngài đã xua đi nỗi sầu muộn về người con gái cho tôi.
  1. Hôm nay, tôi đây, có mũi tên đã được rút ra, không còn cơn đói, đã chứng Niết Bàn. Tôi đi đến nương nhờ đức Phật bậc Hiền Trí, Giáo Pháp, và Hội Chúng.’”

Trưởng lão ni Ubbirī đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Ubbirī.

34.

  1. “Những người dân này ở Rājagaha đã làm gì? Họ ngồi yên như là đã uống (say) mật ong, họ không đi đến vị ni Sukkā đang thuyết giảng về Giáo Pháp của đức Phật.
  1. Và Giáo Pháp ấy là không thể cưỡng lại, không bị trộn lẫn, có dưỡng chất. Tôi nghĩ rằng những người có trí tuệ uống (Giáo Pháp ấy) tựa như những người lữ hành uống (nước từ) đám mây mưa.
  1. Với các pháp (siêu thế) trong sạch, có sự luyến ái đã được xa lìa, được định tĩnh, Sukkā mang thân mạng cuối cùng, sau khi chiến thắng Ma Vương cùng với đạo quân binh.”

Trưởng lão ni Sukkā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Sukkā.

35.

  1. “‘Không có sự thoát ly ở thế gian, nàng sẽ làm gì với việc ẩn cư? Nàng hãy thọ hưởng các sự thích thú trong các dục, chớ có sự tiếc nuối sau này.’
  1. ‘Các dục như là gươm giáo, các uẩn như là cái thớt của chúng. Điều ngươi gọi là sự thích thú trong các dục, điều ấy giờ đây là sự không thích thú đối với ta.
  1. Sự vui thích đã được phá hủy ở tất cả các nơi. Khối đống tăm tối (vô minh) đã được phá tan. Này Ác Nhân, ngươi hãy biết như thế. Này Tử Thần, ngươi đã bị đánh bại.’”

Trưởng lão ni Selā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Selā.

  

36.

  1. “Vị thế ấy là có thể đạt đến bởi các bậc ẩn sĩ, là khó với tới, không thể đạt được bởi người nữ có sự nhận biết nhờ vào hai ngón tay.
  1. Bản thể của người nữ có thể gây ra điều gì đối với chúng tôi, đối với người đang nhìn thấy rõ Pháp một cách đúng đắn, khi tâm (của người ấy) đã khéo được định tĩnh, khi trí đang được vận hành?
  1. Sự vui thích đã được phá hủy ở tất cả các nơi, khối đống tăm tối (vô minh) đã được phá tan. Này Ác Nhân, ngươi hãy biết như thế. Này Tử Thần, ngươi đã bị đánh bại.”[4]

Trưởng lão ni Somā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Somā.

Nhóm Ba được chấm dứt.

–ooOoo–

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Ni Kệ“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Ni Kệ” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *