PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU I – CHƯƠNG SAṄGHĀDISESA – ĐIỀU SAṄGHĀDISESA THỨ NHẤT

Phân Tích Giới Tỳ Khưu I

Chương Saṅghādisesa

Điều Saṅghādisesa thứ nhất

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Seyyasaka không được thỏa thích[1] thực hành Phạm hạnh. Vì thế, vị ấy trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân.

Đại đức Udāyi[2] đã nhìn thấy đại đức Seyyasaka ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân; sau khi nhìn thấy đã nói với đại đức Seyyasaka điều này: – “Này đại đức Seyyasaka, tại sao ngươi lại ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân? Này đại đức Seyyasaka, chẳng lẽ ngươi không được thỏa thích thực hành Phạm hạnh hay sao?” – “Này đại đức, đúng vậy.” – “Này đại đức Seyyasaka, như thế thì ngươi hãy ăn theo như ý thích, hãy ngủ theo như ý thích, hãy tắm theo như ý thích. Sau khi đã ăn theo như ý thích, đã ngủ theo như ý thích, đã tắm theo như ý thích, khi nào sự không thỏa thích sanh khởi ở ngươi, tham ái quấy rối tâm, khi ấy ngươi hãy dùng bàn tay gắng sức làm xuất ra tinh dịch.” – “Này đại đức, có được phép để làm như thế không?” – “Này đại đức, được chớ. Ta cũng làm như thế.”

Sau đó, đại đức Seyyasaka đã ăn theo như ý thích, đã ngủ theo như ý thích, đã tắm theo như ý thích. Sau khi đã ăn theo như ý thích, đã ngủ theo như ý thích, đã tắm theo như ý thích, khi nào sự không thỏa thích sanh khởi, tham ái quấy rối tâm, khi ấy vị ấy đã dùng bàn tay gắng sức làm xuất ra tinh dịch. Rồi một thời gian sau, đại đức Seyyasaka đã trở nên có tướng mạo, căn quyền sung mãn, sắc mặt rạng rỡ, sắc thân an tịnh.

Khi ấy, các tỳ khưu thân hữu của đại đức Seyyasaka đã nói với đại đức Seyyasaka điều này: – “Này đại đức Seyyasaka, trước đây đại đức thì ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân. Giờ đây, trong lúc này, đại đức đây có tướng mạo, căn quyền sung mãn, sắc mặt rạng rỡ, sắc thân an tịnh. Này đại đức Seyyasaka, đại đức có sử dụng thuốc men gì không?” – “Này các đại đức, tôi không có sử dụng thuốc men. Tuy nhiên, tôi ăn theo như ý thích, ngủ theo như ý thích, tắm theo như ý thích. Sau khi đã ăn theo như ý thích, đã ngủ theo như ý thích, đã tắm theo như ý thích, khi nào sự không thỏa thích sanh khởi ở tôi, tham ái quấy rối tâm, khi ấy tôi dùng bàn tay gắng sức làm xuất ra tinh dịch.”

– “Này đại đức Seyyasaka, có phải đại đức gắng sức làm xuất ra tinh dịch bằng chính bàn tay thọ dụng vật tín thí?” – “Này các đại đức, đúng vậy.” Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao đại đức Seyyasaka lại dùng bàn tay gắng sức làm xuất ra tinh dịch vậy?” Sau đó, khi đã khiển trách đại đức Seyyasaka bằng nhiều phương thức, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi đại đức Seyyasaka rằng: – “Này Seyyasaka, nghe nói ngươi dùng bàn tay gắng sức làm xuất ra tinh dịch, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: – “Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, tại sao ngươi đã xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời? Này kẻ rồ dại, không phải Ta bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng Pháp để đưa đến sự không còn tham ái chứ không phải để đưa đến tham ái, đã thuyết giảng Pháp để đưa đến sự không còn ràng buộc chứ không phải để đưa đến sự ràng buộc, đã thuyết giảng Pháp để đưa đến sự không còn chấp thủ chứ không phải để đưa đến sự chấp thủ hay sao? Này kẻ rồ dại, thế mà ở đây trong khi Ta thuyết giảng Pháp để đưa đến sự không còn tham ái thì ngươi lại nghĩ đến tham ái, thuyết giảng Pháp để đưa đến sự không còn ràng buộc thì ngươi lại nghĩ đến sự ràng buộc, thuyết giảng Pháp để đưa đến sự không còn chấp thủ thì ngươi lại nghĩ đến sự chấp thủ. Này kẻ rồ dại, không phải Ta bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng Pháp để đưa đến sự không còn tham ái trong các ái, để đưa đến sự không còn đam mê trong các nỗi đam mê, để kềm chế sự khao khát, để trừ diệt sự vướng mắc, để cắt đứt vòng tái sanh, để diệt tận ái, để ly tham, để đưa đến sự tịch diệt, để đưa đến Niết Bàn hay sao? Này kẻ rồ dại, không phải Ta bằng nhiều phương thức đã đề cập đến sự từ bỏ các dục, đã đề cập đến sự hiểu rõ về các dục tưởng, đã đề cập đến sự kềm chế các nỗi khao khát về dục, đã đề cập đến sự trừ diệt các dục tầm, đã đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc do dục vọng hay sao? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này kẻ rồ dại, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.”

Khi ấy, đức Thế Tôn đã khiển trách đại đức Seyyasaka bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

Việc xuất ra tinh do sự cố ý thì tội saṅghādisesa.”[3]

Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

[Sự quy định lần đầu]

Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu sau khi thọ thực các loại vật thực hảo hạng có niệm bị xao lãng, không tỉnh giác, rồi rơi vào giấc ngủ. Trong khi các vị ấy có niệm bị xao lãng, không tỉnh giác, rồi rơi vào giấc ngủ, tinh dịch bị xuất ra do chiêm bao. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Điều học đã được đức Thế Tôn quy định rằng: ‘Việc xuất ra tinh do sự cố ý thì tộisaṅghādisesa.’ Và tinh dịch của chúng ta đã bị xuất ra do chiêm bao. Và trong trường hợp này có sự cố ý dự phần vào; phải chăng chúng ta đã phạm tội saṅghādisesa?” Rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, sự cố ý ấy là có nhưng nó không đáng kể. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

Việc xuất ra tinh dịch có sự cố ý thì tội saṅghādisesa, ngoại trừ chiêm bao.

[Sự quy định lần hai]

Sự cố ý: là sự vi phạm trong khi biết, trong khi tự mình nhận biết, sau khi đã suy nghĩ, sau khi đã khẳng định.

Tinh: có mười loại tinh: màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, màu sữa loãng, màu nước, màu dầu ăn, màu sữa tươi, màu sữa đông, màu bơ lỏng.

Sự xuất ra: sự làm di chuyển khỏi vị trí được gọi là ‘sự xuất ra.’

Ngoại trừ chiêm bao: trừ ra trường hợp đang nằm mơ.

Tội saṅghādisesa: Chỉ có hội chúng–không phải một số vị không phải cá nhân–ban cho hình phạt parivāsa của tội ấy, cho thực hành lại từ đầu, ban cho hình phạt mānatta, cho giải tội; vì thế được gọi là ‘tội saṅghādisesa.’ Là việc định danh, tức là việc đặt tên cho cả nhóm tội giống như tội ấy; vì thế được gọi là ‘tội saṅghādisesa.’

Làm xuất ra ở sắc pháp thuộc nội phần, làm xuất ra ở sắc pháp thuộc ngoại phần, làm xuất ra ở sắc pháp thuộc nội phần và ngoại phần, làm xuất ra trong khi lắc hông ở khoảng không, làm xuất ra khi có sự tác động của tham ái, làm xuất ra khi có sự tác động của phân, làm xuất ra khi có sự tác động của nước tiểu, làm xuất ra khi có sự tác động của gió, làm xuất ra khi có sự tác động của sâu bọ, làm xuất ra vì mục đích sức khoẻ, làm xuất ra vì mục đích khoái lạc, làm xuất ra vì mục đích dược phẩm, làm xuất ra vì mục đích bố thí, làm xuất ra vì mục đích phước thiện, làm xuất ra vì mục đích tế lễ, làm xuất ra vì mục đích cõi trời, làm xuất ra vì mục đích nòi giống, làm xuất ra vì mục đích nghiên cứu, làm xuất ra vì mục đích đùa giỡn, làm xuất ra tinh màu xanh, làm xuất ra tinh màu vàng, làm xuất ra tinh màu đỏ, làm xuất ra tinh màu trắng, làm xuất ra tinh màu sữa loãng, làm xuất ra tinh màu nước, làm xuất ra tinh màu dầu ăn, làm xuất ra tinh màu sữa tươi, làm xuất ra tinh màu sữa đông, làm xuất ra tinh màu bơ lỏng.

Ở sắc pháp thuộc nội phần: là ở sắc pháp có liên quan đến phần ở bên trong.

Ở sắc pháp thuộc ngoại phần: là ở sắc pháp có liên quan hoặc không có liên quan đến phần ở bên ngoài.

Ở sắc pháp thuộc nội phần và ngoại phần: là ở cả hai nơi.

Trong khi lắc hông ở khoảng không: là dương vật của vị đang ra sức ở khoảng không trở nên thích ứng.

Khi có sự tác động của tham ái: là dương vật của vị bị tham ái quấy rối trở nên thích ứng.

Khi có sự tác động của phân: là dương vật của vị bị phân quấy rối trở nên thích ứng.

Khi có sự tác động của nước tiểu: là dương vật của vị bị nước tiểu quấy rối trở nên thích ứng.

Khi có sự tác động của gió: là dương vật của vị bị gió quấy rối trở nên thích ứng.

Khi có sự tác động của sâu bọ: là dương vật của vị bị sâu bọ cắn trở nên thích ứng.

Vì mục đích sức khoẻ: là (nghĩ rằng): “Ta sẽ không có bệnh.”

Vì mục đích khoái lạc: là (nghĩ rằng): “Ta sẽ tạo ra cảm giác khoái lạc.”

Vì mục đích dược phẩm: là (nghĩ rằng): “Sẽ có được thuốc men.”

Vì mục đích bố thí: là (nghĩ rằng): “Ta sẽ cho vật thí.”

Vì mục đích phước thiện: là (nghĩ rằng): “Sẽ có được phước báu.”

Vì mục đích tế lễ: là (nghĩ rằng): “Ta sẽ cúng hiến vật tế lễ.”

Vì mục đích cõi trời: là (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến cõi trời.”

Vì mục đích nòi giống: là (nghĩ rằng): “Sẽ có được nòi giống.”

Vì mục đích nghiên cứu: là (nghĩ rằng): “Sẽ có được tinh màu xanh, ―(như trên)― sẽ có được tinh màu bơ lỏng.”

Vì mục đích đùa giỡn: có ý định chơi giỡn.

Ở sắc pháp thuộc nội phần, vị suy nghĩ đến rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tộisaṅghādisesa.

Ở sắc pháp thuộc ngoại phần, vị suy nghĩ đến rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Ở sắc pháp thuộc nội phần và ngoại phần, vị suy nghĩ đến rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Trong khi lắc hông ở khoảng không, vị suy nghĩ đến rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tộisaṅghādisesa.

Khi có sự tác động của tham ái, vị suy nghĩ đến rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tộisaṅghādisesa.

 Khi có sự tác động của phân, vị suy nghĩ đến rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Khi có sự tác động của nước tiểu, vị suy nghĩ đến rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tộisaṅghādisesa.

Khi có sự tác động của gió, vị suy nghĩ đến rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Khi có sự tác động do đã bị sâu bọ cắn, vị suy nghĩ đến rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vì mục đích sức khoẻ, vị suy nghĩ đến rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vì mục đích khoái lạc, vị suy nghĩ đến rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vì mục đích dược phẩm, vị suy nghĩ đến rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vì mục đích bố thí, vị suy nghĩ đến rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vì mục đích phước thiện, vị suy nghĩ đến rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vì mục đích tế lễ, vị suy nghĩ đến rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vì mục đích cõi trời, vị suy nghĩ đến rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vì mục đích nòi giống, vị suy nghĩ đến rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vì mục đích nghiên cứu, vị suy nghĩ đến rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vì mục đích đùa giỡn, vị suy nghĩ đến rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vị suy nghĩ đến tinh màu xanh rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến … tinh màu vàng … tinh màu đỏ … tinh màu trắng … tinh màu sữa loãng … tinh màu nước … tinh màu dầu ăn … tinh màu sữa tươi … tinh màu sữa đông … tinh màu bơ lỏng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Dứt phần đơn giản.

Vị suy nghĩ đến mục đích sức khoẻ và mục đích khoái lạc rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến mục đích sức khoẻ và mục đích dược phẩm … mục đích sức khoẻ và mục đích bố thí … mục đích sức khoẻ và mục đích phước thiện … mục đích sức khoẻ và mục đích tế lễ … mục đích sức khoẻ và mục đích cõi trời … mục đích sức khoẻ và mục đích nòi giống … mục đích sức khoẻ và mục đích nghiên cứu … mục đích sức khoẻ và mục đích đùa giỡn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Dứt sự luân phiên từng phần của một nhân tố.

Vị suy nghĩ đến mục đích khoái lạc và mục đích dược phẩm rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến mục đích khoái lạc và mục đích bố thí … mục đích khoái lạc và mục đích phước thiện … mục đích khoái lạc và mục đích tế lễ … mục đích khoái lạc và mục đích cõi trời … mục đích khoái lạc và mục đích nòi giống … mục đích khoái lạc và mục đích nghiên cứu … Vị suy nghĩ đến mục đích khoái lạc và mục đích đùa giỡn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến mục đích khoái lạc và mục đích sức khoẻ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vị suy nghĩ đến mục đích dược phẩm và mục đích bố thí … mục đích dược phẩm và mục đích phước thiện … mục đích dược phẩm và mục đích tế lễ … mục đích dược phẩm và mục đích cõi trời … mục đích dược phẩm và mục đích nòi giống … mục đích dược phẩm và mục đích nghiên cứu … mục đích dược phẩm và mục đích đùa giỡn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến mục đích dược phẩm và mục đích sức khoẻ … mục đích dược phẩm và mục đích khoái lạc rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vị suy nghĩ đến mục đích bố thí và mục đích phước thiện … mục đích bố thí và mục đích tế lễ … mục đích bố thí và mục đích cõi trời … mục đích bố thí và mục đích nòi giống … mục đích bố thí và mục đích nghiên cứu … mục đích bố thí và mục đích đùa giỡn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến mục đích bố thí và mục đích sức khoẻ … mục đích bố thí và mục đích khoái lạc … mục đích bố thí và mục đích dược phẩm rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vị suy nghĩ đến mục đích phước thiện và mục đích tế lễ … mục đích phước thiện và mục đích cõi trời … mục đích phước thiện và mục đích nòi giống … mục đích phước thiện và mục đích nghiên cứu … mục đích phước thiện và mục đích đùa giỡn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến mục đích phước thiện và mục đích sức khoẻ … mục đích phước thiện và mục đích khoái lạc … mục đích phước thiện và mục đích dược phẩm … mục đích phước thiện và mục đích bố thí rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vị suy nghĩ đến mục đích tế lễ và mục đích cõi trời … mục đích tế lễ và mục đích nòi giống … mục đích tế lễ và mục đích nghiên cứu … mục đích tế lễ và mục đích đùa giỡn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến mục đích tế lễ và mục đích sức khoẻ … mục đích tế lễ và mục đích khoái lạc … mục đích tế lễ và mục đích dược phẩm … mục đích tế lễ và mục đích bố thí … mục đích tế lễ và mục đích phước thiện rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vị suy nghĩ đến mục đích cõi trời và mục đích nòi giống … mục đích cõi trời và mục đích nghiên cứu … mục đích cõi trời và mục đích đùa giỡn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến mục đích cõi trời và mục đích sức khoẻ … mục đích cõi trời và mục đích khoái lạc … mục đích cõi trời và mục đích dược phẩm … mục đích cõi trời và mục đích bố thí … mục đích cõi trời và mục đích phước thiện … mục đích cõi trời và mục đích tế lễ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vị suy nghĩ đến mục đích nòi giống và mục đích nghiên cứu … mục đích nòi giống và mục đích đùa giỡn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến mục đích nòi giống và mục đích sức khoẻ … mục đích nòi giống và mục đích khoái lạc … mục đích nòi giống và mục đích dược phẩm … mục đích nòi giống và mục đích bố thí … mục đích nòi giống và mục đích phước thiện … mục đích nòi giống và mục đích tế lễ … mục đích nòi giống và mục đích cõi trời rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vị suy nghĩ đến mục đích nghiên cứu và mục đích đùa giỡn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến mục đích nghiên cứu và mục đích sức khoẻ … mục đích nghiên cứu và mục đích khoái lạc … mục đích nghiên cứu và mục đích dược phẩm … mục đích nghiên cứu và mục đích bố thí … mục đích nghiên cứu và mục đích phước thiện … mục đích nghiên cứu và mục đích tế lễ … mục đích nghiên cứu và mục đích cõi trời … mục đích nghiên cứu và mục đích nòi giống rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vị suy nghĩ đến mục đích đùa giỡn và mục đích sức khoẻ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến mục đích đùa giỡn và mục đích khoái lạc … mục đích đùa giỡn và mục đích dược phẩm … mục đích đùa giỡn và mục đích bố thí … mục đích đùa giỡn và mục đích phước thiện … mục đích đùa giỡn và mục đích tế lễ … mục đích đùa giỡn và mục đích cõi trời … mục đích đùa giỡn và mục đích nòi giống … mục đích đùa giỡn và mục đích nghiên cứu rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Sự luân phiên kết hợp của một nhân tố đã được tóm lược.

Dứt phần giản lược về sự luân phiên của một nhân tố.

Vị suy nghĩ đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, và mục đích dược phẩm rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. ―(như trên)― Vị suy nghĩ đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, và mục đích đùa giỡn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tộisaṅghādisesa.

Dứt sự luân phiên từng phần của hai nhân tố.

Vị suy nghĩ đến mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, và mục đích bố thí rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. ―(như trên)― Vị suy nghĩ đến mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, và mục đích đùa giỡn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, và mục đích sức khoẻ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Sự luân phiên kết hợp của hai nhân tố đã được tóm lược.

Vị suy nghĩ đến mục đích nghiên cứu, mục đích đùa giỡn, và mục đích sức khoẻ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. ―(như trên)― Vị suy nghĩ đến mục đích nghiên cứu, mục đích đùa giỡn, và mục đích khoái lạc ―(như trên)― mục đích nghiên cứu, mục đích đùa giỡn, và mục đích nòi giống rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tộisaṅghādisesa.

Dứt phần hai nhân tố.

Phần liên quan đến ba nhân tố, phần liên quan đến bốn nhân tố, phần liên quan đến năm nhân tố, phần liên quan đến sáu nhân tố, phần liên quan đến bảy nhân tố, phần liên quan đến tám nhân tố, phần liên quan đến chín nhân tố nên được giải chi tiết y như thế.

*****

Đây là phần tất cả các nhân tố

Vị suy nghĩ đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, mục đích bố thí, mục đích phước thiện, mục đích tế lễ, mục đích cõi trời, mục đích nòi giống, mục đích nghiên cứu, mục đích đùa giỡn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Dứt phần tất cả các nhân tố.

Dứt phần giản lược về sự luân phiên.

Vị suy nghĩ đến tinh màu xanh và tinh màu vàng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tộisaṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến tinh màu xanh và tinh màu đỏ … tinh màu xanh và tinh màu trắng … tinh màu xanh và tinh màu sữa loãng … tinh màu xanh và tinh màu nước … tinh màu xanh và tinh màu dầu ăn … tinh màu xanh và tinh màu sữa tươi … tinh màu xanh và tinh màu sữa đông … tinh màu xanh và tinh màu bơ lỏng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Sự luân phiên từng phần của một nhân tố.

Vị suy nghĩ đến tinh màu vàng và tinh màu đỏ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tộisaṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến tinh màu vàng và tinh màu trắng … tinh màu vàng và tinh màu sữa loãng … tinh màu vàng và tinh màu nước … tinh màu vàng và tinh màu dầu ăn … tinh màu vàng và tinh màu sữa tươi … tinh màu vàng và tinh màu sữa đông … tinh màu vàng và tinh màu bơ lỏng … tinh màu vàng và tinh màu xanh rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Sự luân phiên kết hợp của một nhân tố.

Vị suy nghĩ đến tinh màu đỏ và tinh màu trắng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tộisaṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến tinh màu đỏ và tinh màu sữa loãng … tinh màu đỏ và tinh màu nước … tinh màu đỏ và tinh màu dầu ăn … tinh màu đỏ và tinh màu sữa tươi … tinh màu đỏ và tinh màu sữa đông … tinh màu đỏ và tinh màu bơ lỏng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến tinh màu đỏ và tinh màu xanh … tinh màu đỏ và tinh màu vàng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vị suy nghĩ đến tinh màu trắng và tinh màu sữa loãng … tinh màu trắng và tinh màu nước … tinh màu trắng và tinh màu dầu ăn … tinh màu trắng và tinh màu sữa tươi … tinh màu trắng và tinh màu sữa đông … tinh màu trắng và tinh màu bơ lỏng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến tinh màu trắng và tinh màu xanh … tinh màu trắng và tinh màu vàng … tinh màu trắng và tinh màu đỏ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vị suy nghĩ đến tinh màu sữa loãng và tinh màu nước … tinh màu sữa loãng và tinh màu dầu ăn … tinh màu sữa loãng và tinh màu sữa tươi … tinh màu sữa loãng và tinh màu sữa đông … tinh màu sữa loãng và tinh màu bơ lỏng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến tinh màu sữa loãng và tinh màu xanh … tinh màu sữa loãng và tinh màu vàng … tinh màu sữa loãng và tinh màu đỏ … tinh màu sữa loãng và tinh màu trắng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vị suy nghĩ đến tinh màu nước và tinh màu dầu ăn … tinh màu nước và tinh màu sữa tươi … tinh màu nước và tinh màu sữa đông … tinh màu nước và tinh màu bơ lỏng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến tinh màu nước và tinh màu xanh … tinh màu nước và tinh màu vàng … tinh màu nước và tinh màu đỏ … tinh màu nước và tinh màu trắng … tinh màu nước và tinh màu sữa loãng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vị suy nghĩ đến tinh màu dầu ăn và tinh màu sữa tươi … tinh màu dầu ăn và tinh màu sữa đông … tinh màu dầu ăn và tinh màu bơ lỏng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tộisaṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến tinh màu dầu ăn và tinh màu xanh … tinh màu dầu ăn và tinh màu vàng … tinh màu dầu ăn và tinh màu đỏ … tinh màu dầu ăn và tinh màu trắng … tinh màu dầu ăn và tinh màu sữa loãng … tinh màu dầu ăn và tinh màu nước rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vị suy nghĩ đến tinh màu sữa tươi và tinh màu sữa đông … tinh màu sữa tươi và tinh màu bơ lỏng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến tinh màu sữa tươi và tinh màu xanh … tinh màu sữa tươi và tinh màu vàng … tinh màu sữa tươi và tinh màu đỏ … tinh màu sữa tươi và tinh màu trắng … tinh màu sữa tươi và tinh màu sữa loãng … tinh màu sữa tươi và tinh màu nước … tinh màu sữa tươi và tinh màu dầu ăn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vị suy nghĩ đến tinh màu sữa đông và tinh màu bơ lỏng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến tinh màu sữa đông và tinh màu xanh … tinh màu sữa đông và tinh màu vàng … tinh màu sữa đông và tinh màu đỏ … tinh màu sữa đông và tinh màu trắng … tinh màu sữa đông và tinh màu sữa loãng … tinh màu sữa đông và tinh màu nước … tinh màu sữa đông và tinh màu dầu ăn … tinh màu sữa đông và tinh màu sữa tươi rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vị suy nghĩ đến tinh màu bơ lỏng và tinh màu xanh rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến tinh màu bơ lỏng và tinh màu vàng … tinh màu bơ lỏng và tinh màu đỏ … tinh màu bơ lỏng và tinh màu trắng … tinh màu bơ lỏng và tinh màu sữa loãng … tinh màu bơ lỏng và tinh màu nước … tinh màu bơ lỏng và tinh màu dầu ăn … tinh màu bơ lỏng và tinh màu sữa tươi … tinh màu bơ lỏng và tinh màu sữa đông rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Dứt sự luân phiên kết hợp của một nhân tố.

Vị suy nghĩ đến tinh màu xanh, tinh màu vàng, và tinh màu đỏ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến tinh màu xanh, tinh màu vàng, và tinh màu trắng ―(như trên)― tinh màu xanh, tinh màu vàng, và tinh màu bơ lỏng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Sự luân phiên từng phần của hai nhân tố.

Vị suy nghĩ đến tinh màu vàng, tinh màu đỏ, và tinh màu trắng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. ―(như trên)― Vị suy nghĩ đến tinh màu vàng, tinh màu đỏ, và tinh màu bơ lỏng ―(như trên)― tinh màu vàng, tinh màu đỏ, và tinh màu xanh rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

 Dứt sự luân phiên kết hợp của hai nhân tố.

Vị suy nghĩ đến tinh màu sữa đông, tinh màu bơ lỏng, và tinh màu xanh rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. ―(như trên)― Vị suy nghĩ đến tinh màu sữa đông, tinh màu bơ lỏng, và tinh màu sữa tươi rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Dứt phần hai nhân tố.

Phần liên quan đến ba nhân tố, phần liên quan đến bốn nhân tố, phần liên quan đến năm nhân tố, phần liên quan đến sáu nhân tố, phần liên quan đến bảy nhân tố, phần liên quan đến tám nhân tố, phần liên quan đến chín nhân tố nên được giải chi tiết y như thế.

 ĐÂY LÀ PHẦN TẤT CẢ CÁC NHÂN TỐ

Vị suy nghĩ đến tinh màu xanh, tinh màu vàng, tinh màu đỏ, tinh màu trắng, tinh màu sữa loãng, tinh màu nước, tinh màu dầu ăn, tinh màu sữa tươi, tinh màu sữa đông, và tinh màu bơ lỏng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Dứt phần tất cả các nhân tố.

Vị suy nghĩ đến mục đích sức khoẻ và tinh màu xanh rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, tinh màu xanh, và tinh màu vàng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, tinh màu xanh, tinh màu vàng, và tinh màu đỏ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa. ―(như trên)― và tinh màu sữa đông rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Sự khai triển cả hai nên được tiến hành y như thế.

Vị suy nghĩ đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, mục đích bố thí, mục đích phước thiện, mục đích tế lễ, mục đích cõi trời, mục đích nòi giống, mục đích nghiên cứu, mục đích đùa giỡn, tinh màu xanh, tinh màu vàng, tinh màu đỏ, tinh màu trắng, tinh màu sữa loãng, tinh màu nước, tinh màu dầu ăn, tinh màu sữa tươi, tinh màu sữa đông, và tinh màu bơ lỏng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Dứt sự luân phiên xen kẽ.

Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu xanh” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu vàng thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu xanh” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu đỏ … tinh màu trắng … tinh màu sữa loãng … tinh màu nước … tinh màu dầu ăn … tinh màu sữa tươi … tinh màu sữa đông … tinh màu bơ lỏng thì phạm tội saṅghādisesa.

Dứt sự luân phiên từng phần.

Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu vàng” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu đỏ thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu vàng” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu trắng … tinh màu sữa loãng … tinh màu nước … tinh màu dầu ăn … tinh màu sữa tươi … tinh màu sữa đông … tinh màu bơ lỏng … tinh màu xanh thì phạm tội saṅghādisesa.

Sự luân phiên kết hợp.

Phần nhân tố đã được tóm lược.

Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu bơ lỏng” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu xanh thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu bơ lỏng” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu vàng … tinh màu đỏ … tinh màu trắng … tinh màu sữa loãng … tinh màu nước … tinh màu dầu ăn … tinh màu sữa tươi … tinh màu sữa đông thì phạm tội saṅghādisesa.

Dứt sự luân phiên từ phần giữa.

Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu vàng” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu xanh thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu đỏ … tinh màu trắng … tinh màu sữa loãng … tinh màu nước … tinh dầu ăn … tinh màu sữa tươi … tinh màu sữa đông … tinh màu bơ lỏng” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu xanh thì phạm tội saṅghādisesa.

Dứt bước thứ nhất của sự luân phiên nghịch chiều.

Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu đỏ” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu vàng thì phạm tội saṅghādisesa. … Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu trắng … tinh màu sữa loãng … tinh màu nước … tinh màu dầu ăn … tinh màu sữa tươi … tinh màu sữa đông … tinh màu bơ lỏng … tinh màu xanh” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu vàng thì phạm tội saṅghādisesa.

Dứt bước thứ nhì của sự luân phiên nghịch chiều.

Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu trắng” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu đỏ thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu sữa loãng … tinh màu nước … tinh màu dầu ăn … tinh màu sữa tươi … tinh màu sữa đông … tinh màu bơ lỏng … tinh màu xanh … tinh màu vàng” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu đỏ thì phạm tội saṅghādisesa.

Dứt bước thứ ba của sự luân phiên nghịch chiều.

Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu sữa loãng” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu trắng thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu nước … tinh màu dầu ăn … tinh màu sữa tươi … tinh màu sữa đông … tinh màu bơ lỏng … tinh màu xanh … tinh màu vàng … tinh màu đỏ” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu trắng thì phạm tộisaṅghādisesa.

Dứt bước thứ tư của sự luân phiên nghịch chiều.

Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu nước” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu sữa loãng thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu dầu ăn … tinh màu sữa tươi … tinh màu sữa đông … tinh màu bơ lỏng … tinh màu xanh … tinh màu vàng … tinh màu đỏ … tinh màu trắng” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu sữa loãng thì phạm tộisaṅghādisesa.

Dứt bước thứ năm của sự luân phiên nghịch chiều.

Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu dầu ăn” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu nước thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu sữa tươi … tinh màu sữa đông … tinh màu bơ lỏng … tinh màu xanh … tinh màu vàng … tinh màu đỏ … tinh màu trắng … tinh màu sữa loãng” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu nước thì phạm tộisaṅghādisesa.

Dứt bước thứ sáu của sự luân phiên nghịch chiều.

Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu sữa tươi” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu dầu ăn thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu sữa đông … tinh màu bơ lỏng … tinh màu xanh … tinh màu vàng … tinh màu đỏ … tinh màu trắng … tinh màu sữa loãng … tinh màu nước” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu dầu ăn thì phạm tội saṅghādisesa.

Dứt bước thứ bảy của sự luân phiên nghịch chiều.

Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu sữa đông” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu sữa tươi thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu bơ lỏng … tinh màu xanh … tinh màu vàng … tinh màu đỏ … tinh màu trắng … tinh màu sữa loãng … tinh màu nước … tinh màu dầu ăn” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu sữa tươi thì phạm tội saṅghādisesa.

Dứt bước thứ tám của sự luân phiên nghịch chiều.

Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu bơ lỏng” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu sữa đông thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu xanh … tinh màu vàng … tinh màu đỏ … tinh màu trắng … tinh màu sữa loãng … tinh màu nước … tinh màu dầu ăn … tinh màu sữa tươi” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu sữa đông thì phạm tội saṅghādisesa.

Dứt bước thứ chín của sự luân phiên nghịch chiều.

Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu xanh” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu bơ lỏng thì phạm tội saṅghādisesa. Vị suy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm xuất ra tinh màu vàng … tinh màu đỏ … tinh màu trắng … tinh màu sữa loãng … tinh màu nước … tinh màu dầu ăn … tinh màu sữa tươi … tinh màu sữa đông” rồi gắng sức và làm xuất ra tinh màu bơ lỏng thì phạm tội saṅghādisesa.

Dứt bước thứ mười của sự luân phiên nghịch chiều.

Dứt sự luân phiên nghịch chiều.

Vị suy nghĩ đến, gắng sức, bị xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa.

Vị suy nghĩ đến, gắng sức,không bị xuất ra thì phạm tội thullaccaya.

Vị suy nghĩ đến, không gắng sức, bị xuất ra thì vô tội.

Vị suy nghĩ đến, không gắng sức, không bị xuất ra thì vô tội.

Vị không suy nghĩ đến, gắng sức, bị xuất ra thì vô tội.

Vị không suy nghĩ đến, gắng sức, không bị xuất ra thì vô tội.

Vị không suy nghĩ đến, không gắng sức, bị xuất ra thì vô tội.

Vị không suy nghĩ đến, không gắng sức, không bị xuất ra thì vô tội.

Do chiêm bao, vị không có ý định làm cho xuất ra, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

–ooOoo–

Chuyện Dẫn Giải Kệ Ngôn Tóm Lược 

Vị ngủ mơ, vị đại tiện, và tiểu tiện, vị suy tư (về dục), và (tắm) bằng nước nóng, thuốc thoa, bị cơn ngứa, đường đi, bao tinh hoàn, nhà tắm hơi, bắp vế.

Vị sa di, và vị đã ngủ, bắp vế, vị dùng nắm tay bóp chặt, ở khoảng trống, gồng cứng cơ thể, vị suy tưởng, lỗ khoá, vị cọ xát bằng thanh gỗ.

Ở dòng nước chảy, đầm nước, đang chạy, đống bông hoa, (rừng) cây hương lạc, cát, bùn, rưới nước, ở chỗ nằm, và dùng ngón tay cái.

 *****

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ do trong lúc đang ngủ mơ tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội saṅghādisesa?” Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, do trong lúc đang ngủ mơ thì vô tội.” (1)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đại tiện tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― Rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?” – “Bạch Thế Tôn, con không có ý định làm xuất ra.” – “Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.” (2)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc tiểu tiện tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.” (3)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc suy tư tầm cầu về dục tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, trong lúc suy tư tầm cầu về dục thì vô tội.” (4)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc tắm bằng nước nóng tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?” – “Bạch Thế Tôn, con không có ý định làm xuất ra.” – “Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.” (5)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc tắm bằng nước nóng tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa.” (6)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc tắm bằng nước nóng tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tội thullaccaya.” (7)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị vết thương ở dương vật, trong lúc vị ấy thoa thuốc tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.” (8)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị vết thương ở dương vật. Vị ấy có ý định làm xuất ra, trong lúc thoa thuốc tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tội thullaccaya.” (9-10)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc (gãi) ngứa ở tinh hoàn tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.” (11)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc (gãi) ngứa ở tinh hoàn tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tội thullaccaya.” (12-13)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đi đường tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.” (14)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc đi đường tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tội thullaccaya.” (15-16)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã nắm lấy bao tinh hoàn trong lúc tiểu tiện và tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.” (17)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra đã nắm lấy bao tinh hoàn trong lúc tiểu tiện và tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tộithullaccaya.” (18-19)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc hơ nóng vùng bụng ở trong nhà tắm hơi tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.” (20)   

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc hơ nóng vùng bụng ở trong nhà tắm hơi tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tộithullaccaya.” (21-22)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc kỳ cọ phần lưng của thầy tế độ ở trong nhà tắm hơi tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.” (23)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc kỳ cọ phần lưng của thầy tế độ ở trong nhà tắm hơi tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tộisaṅghādisesa mà phạm tội thullaccaya.” (24-25)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc cho người xoa bóp bắp vế tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.” (26)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc cho người xoa bóp bắp vế tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tội thullaccaya.” (27-28)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra đã nói với vị sa di nọ điều này: – “Này sa di, hãy đến. Ngươi hãy nắm lấy dương vật của ta.” Vị sa di đã nắm lấy dương vật của vị ấy, tinh dịch của vị ấy đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa.” (29)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã nắm lấy dương vật của vị sa di đang ngủ, tinh dịch của vị ấy đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tội dukkaṭa.” (30)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc dùng hai bắp vế ép chặt lấy dương vật tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tộithullaccaya.” (31-32)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc dùng nắm tay bóp chặt lấy dương vật tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tộithullaccaya.” (33-34)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong khi lắc hông ở khoảng trống tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tộithullaccaya.” (35-36)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc gồng cứng cơ thể tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.” (37)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc gồng cứng cơ thể tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tội thullaccaya.” (38-39)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị dục khởi đã suy tưởng về âm vật của người nữ, tinh dịch của vị ấy đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa. Và này các tỳ khưu, vị bị dục khởi không nên suy tưởng về âm vật của người nữ; vị nào suy tưởng thì phạm tội dukkaṭa.” (40)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc đưa dương vật vào lỗ khoá tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tộithullaccaya.” (41-42)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc dùng thanh gỗ cọ xát vào dương vật tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tộithullaccaya.” (43-44)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc tắm ở dòng nước chảy ngược tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.” (45)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc tắm ở dòng nước chảy ngược và tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tộithullaccaya.” (46-47)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đùa nghịch ở đầm nước tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.” (48)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc đùa nghịch ở đầm nước tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tộithullaccaya.” (49-50)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc chạy ở trong nước tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.” (51)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc chạy ở trong nước tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tội thullaccaya.” (52-53)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đùa nghịch trò chơi trượt bùn tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.” (54)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc đùa nghịch trò chơi trượt bùn tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tộithullaccaya.” (55-56)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc chạy trong rừng sen tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.” (57)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc chạy ở trong rừng sen tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tội thullaccaya.” (58-59)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc đưa dương vật vào trong cát tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tộithullaccaya.” (60-61)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc đưa dương vật vào trong bùn tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tộithullaccaya.” (62-63)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ không có ý định làm xuất ra, trong lúc dùng nước rưới lên dương vật tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.” (64)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc dùng nước rưới lên dương vật tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tộithullaccaya.” (65-66)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc cọ xát dương vật ở chỗ nằm tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tộithullaccaya.” (67-68)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra, trong lúc dùng ngón tay cái cọ xát vào dương vật tinh dịch đã bị xuất ra. ―(như trên)― tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội saṅghādisesa?” Vị ấy đã trình lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội saṅghādisesa mà phạm tội thullaccaya.” (69-70)

Dứt điều học về việc xuất ra tinh dịch.

–ooOoo–

 [1] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng tâm vị ấy bị loạn động và đang bị thiêu đốt bởi ngọn lửa ái dục nhưng lại không muốn quay trở về làm người tại gia (VinA. iii, 517).

[2] Đại đức Udāyi là thầy tế độ của đại đức Seyyasaka (VinA. iii, 517).

[3] Ngài Buddhaghosa giải thích về ý nghĩa của từ saṅghādisesa (saṅgha-ādi-sesa) như sau: Hội chúng (saṅgha) là cần thiết từ lúc khởi đầu (ādi) và các phần còn lại (sesa). Khởi đầu là sự ban cho hành phạt parivāsa, các phần kế tiếp là sự ban cho hành phạt mānatta hoặc sự ban cho việc thực hành trở lại từ đầu (mūlāya paṭikassanaṃ), cuối cùng là hành sự giải tội (abbhānakamma), tất cả các việc này đều do hội chúng (saṅgha) thực hiện, cá nhân hoặc nhóm tỳ khưu đều không được (VinA. iii, 522). Xin xem thêm chi tiết ở Cullavagga – Tiểu Phẩm, TTPV 06, chương II.

[4] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng trú xá của đại đức Udāyi không phải ở trong một khu rừng riêng biệt mà ở trong Jetavana, thuộc về khu vực ở một bên, cuối cùng, sát ranh giới (VinA. iii, 532).

[5] Khi (tâm) không ghi nhận (asatiyā = bị thất niệm): Vị ấy bị bận rộn về việc khác nên không biết rằng: ‘Ta chạm vào người nữ.’ Trong lúc không biết như thế, như trong khi co duỗi tay chân, v.v… vị có sự đụng chạm thì vô tội (VinA. iii, 541).

[6] Trường hợp người nữ có ý muốn nắm lấy bàn chân rồi đảnh lễ thì vị tỳ khưu nên ngăn lại, hoặc hai bàn chân nên được che đậy, hoặc bất động. Vị không lay động, nếu tâm có ưng thuận thì cũng không phạm tội (VinA. iii, 546).

[7] Hai đường khiếu là đường tiêu và đường tiểu. Từ magga theo ý nghĩa thông thường là “đường đi, con đường.” Tuy nhiên, trong văn cảnh này từ dịch được ghi là “khiếu, đường khiếu” như đã được các vị tiền bối sử dụng. Ngoài ra, ở điều pārājika thứ nhất còn có đề cập đến một đường khiếu khác nữa là đường miệng.

[8] Cả ba ý nghĩa được ghi lại căn cứ vào Chú Giải (Vin.A. iii, 549).

[9] Trường hợp này vị tỳ khưu bị phạm tội thullaccaya vì đã ám chỉ ‘chỗ kín’ khi sử dụng từ ‘magga’ nhưng người nữ du sĩ hiểu theo nghĩa thông thường là ‘con đường.’ Nếu cô ấy hiểu được ý thô tục thì vị tỳ khưu ấy đã phạm tội saṅghādisesa (ND).

Đọc sách ebook: PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU I

–ooOoo–

TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)

Các bài viết trong sách

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *