PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU I – CHƯƠNG PĀRĀJIKA – CHUYỆN DẪN GIẢI, KỆ NGÔN TÓM LƯỢC

Phân Tích Giới Tỳ Khưu I

Chương Pārājika

Chuyện dẫn giải, kệ ngôn tóm lược

Con khỉ cái, và các vị Vajjī, có (hình tướng) gia chủ, lõa thể, và ngoại đạo, đứa bé gái, vị ni Uppalavaṇṇā, hai trường hợp chuyển tánh kỳ lạ.

Người mẹ, con gái, chị (em) gái, người vợ, lưng dẻo, dương vật dài, hai trường hợp vết loét, tranh vẽ, và tượng gỗ.

Với năm chuyện Sundara, năm ở bãi tha ma, khúc xương, rồng cái, Dạ-xoa nữ, ma nữ, người vô căn, liệt cảm giác, khi đụng,

Chuyện vị A-la-hán ngủ ở Bhaddiya, bốn chuyện Sāvatthī, Vesāli ba chuyện, vòng hoa, vị ngủ mơ, ở Bhārukaccha,

Supabbā, Saddhā, vị tỳ khưu ni, vị ni tu tập sự, vị sa di ni, gái điếm, người vô căn, nữ gia chủ, lẫn nhau, vị lớn tuổi xuất gia, con nai.

*****

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã thực hiện điều đôi lứa với con khỉ cái. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Điều học đã được đức Thế Tôn quy định; phải chăng ta đã phạm tội pārājika?” Rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (1)

Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu Vajjiputtaka cư trú ở Vesālī đã thực hiện việc đôi lứa khi chưa lìa bỏ sự học tập và chưa bày tỏ lòng yếu nhược. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Điều học đã được đức Thế Tôn quy định; phải chăng chúng ta đã phạm tội pārājika?” Rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, các ngươi đã phạm tội pārājika.” (2)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ (nghĩ rằng): “Như thế này thì ta sẽ không phạm tội” rồi đã thực hiện việc đôi lứa với hình tướng gia chủ. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (3)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ (nghĩ rằng): “Như thế này thì ta sẽ không phạm tội,” sau khi trở nên trần truồng rồi đã thực hiện việc đôi lứa. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (4)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ (nghĩ rằng): “Như thế này thì ta sẽ không phạm tội,” sau khi mặc vải sợi cỏ ―(như trên)― sau khi mặc vỏ cây ―(như trên)― sau khi mặc gỗ lát mỏng ―(như trên)― sau khi mặc tấm mền bằng tóc ―(như trên)― sau khi mặc cánh chim cú ―(như trên)― sau khi mặc da sơn dương rồi đã thực hiện việc đôi lứa. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (5-11)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi khất thực. Khi thấy một đứa bé gái nằm trên ghế, vị ấy đã khởi dục vọng rồi đưa ngón tay cái vào âm vật (của đứa bé gái). Đứa bé gái đã chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika. Ngươi phạm tội saṅghādisesa.” (12)

Vào lúc bấy giờ, có người thanh niên Bā-la-môn nọ đem lòng say đắm tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā. Khi ấy, lúc tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đã đi vào làng để khất thực, thanh niên Bā-la-môn ấy đã đi vào liêu cốc nấp kín rồi chờ đợi. Khi đi khất thực trở về sau bữa ăn, tỳ khưu ni Uppala-vaṇṇā đã rửa chân rồi đi vào liêu cốc và ngồi xuống ở trên giường. Khi ấy, người thanh niên Bā-la-môn ấy đã nhấc bổng tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā lên và làm điều tồi bại. Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, vị ni không ưng thuận thì vô tội.”[30] (13)

Vào lúc bấy giờ, tướng trạng người nữ đã xuất hiện ở vị tỳ khưu nọ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, Ta cho phép chuyển sang (sinh hoạt) với các tỳ khưu ni (và vẫn giữ nguyên) thầy tế độ ấy, sự tu lên bậc trên ấy, các năm (thâm niên) ấy. Những tội nào của các tỳ khưu có liên quan đến các tỳ khưu ni, các tội ấy được làm cho hết tội trong sự chứng minh của các tỳ khưu ni. Những tội nào của các tỳ khưu không có liên quan đến các tỳ khưu ni thì được vô tội với các tội ấy.” (14)

Vào lúc bấy giờ, tướng trạng người nam đã xuất hiện ở vị tỳ khưu ni nọ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, Ta cho phép chuyển sang (sinh hoạt) với các tỳ khưu (và vẫn giữ nguyên) thầy tế độ ấy, sự tu lên bậc trên ấy, các năm (thâm niên) ấy. Những tội nào của các tỳ khưu ni có liên quan đến các tỳ khưu, các tội ấy được làm cho hết tội trong sự chứng minh của các tỳ khưu. Những tội nào của các tỳ khưu ni không có liên quan đến các tỳ khưu thì được vô tội với các tội ấy.” (15)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ (nghĩ rằng): “Như thế này thì ta sẽ không phạm tội” rồi đã thực hiện việc đôi lứa với người mẹ. ―(như trên)― rồi đã thực hiện việc đôi lứa với con gái. ―(như trên)― rồi đã thực hiện việc đôi lứa với chị (em) gái. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tộipārājika.” (16-18)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã thực hiện việc đôi lứa với người vợ cũ. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (19)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ là người có lưng dẻo. Vị ấy bị bực bội bởi sự không thỏa thích nên đã dùng miệng ngậm lấy dương vật của mình. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (20)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ là người có dương vật dài. Vị ấy bị bực bội bởi sự không thỏa thích nên đã đưa dương vật của mình vào đường đại tiện của mình. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (21)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã nhìn thấy thây người chết. Và trên thi thể ấy, có vết loét ở bên cạnh bộ phận sinh dục. Vị ấy (nghĩ rằng): “Như thế này thì ta sẽ không phạm tội” rồi đã đưa dương vật vào bộ phận sinh dục rồi rút ra bằng chỗ vết loét. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (22)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã nhìn thấy thây người chết. Và trên thi thể ấy, có vết loét ở bên cạnh bộ phận sinh dục. Vị ấy (nghĩ rằng): “Như thế này thì ta sẽ không phạm tội” rồi đã đưa dương vật vào vết loét rồi rút ra từ bộ phận sinh dục. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (23)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục nên đã dùng dương vật (của mình) sờ vào vật biểu tượng ở tranh vẽ. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa.” (24)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục nên đã dùng dương vật (của mình) sờ vào chỗ kín ở tượng gỗ. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa.” (25)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu tên Sundara đã được xuất gia ở thành Rājagaha và (đang) đi trên đường. Có người nữ nọ [sau khi nhìn thấy vị ấy đã nói điều này]: – “Thưa ngài, xin chờ chốc lát, tôi sẽ đảnh lễ.” Trong khi đảnh lễ, người nữ ấy đã vén y nội lên rồi dùng miệng ngậm lấy dương vật (vị ấy). Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, có phải ngươi đã ưng thuận?” – “Bạch Thế Tôn, con đã không ưng thuận.” – “Này tỳ khưu, vị không ưng thuận thì vô tội.”[31] (26)

Vào lúc bấy giờ, có người nữ nọ sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu đã nói điều này: – “Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy thực hiện việc đôi lứa.” – “Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép.” – “Thưa ngài, hãy đến. Tôi sẽ ra sức, ngài đừng ra sức; như thế ngài sẽ không phạm tội.” Vị tỳ khưu ấy đã làm như thế. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (27)

Vào lúc bấy giờ, có người nữ nọ sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu đã nói điều này: – “Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy thực hiện việc đôi lứa.” – “Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép.” – “Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy ra sức, tôi sẽ không ra sức; như thế ngài sẽ không phạm tội.” Vị tỳ khưu ấy đã làm như thế. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (28)

Vào lúc bấy giờ, có người nữ nọ sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu đã nói điều này: – “Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy thực hiện việc đôi lứa.” – “Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép.” – “Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở bên trong rồi cho xuất tinh ra ở bên ngoài. ―(như trên)― “Ngài hãy cọ xát ở bên ngoài rồi cho xuất tinh ra ở bên trong; như thế ngài sẽ không phạm tội.” Vị tỳ khưu ấy đã làm như thế. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (29-30)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến bãi tha ma đã nhìn thấy thi thể chưa bị (thú) ăn và đã thực hiện việc đôi lứa ở thi thể ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (31)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến bãi tha ma đã nhìn thấy thi thể chưa bị (thú) ăn nhiều phần và đã thực hiện việc đôi lứa ở thi thể ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (32)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến bãi tha ma đã nhìn thấy thi thể đã bị (thú) ăn nhiều phần và đã thực hiện việc đôi lứa ở thi thể ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (33)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến bãi tha ma đã nhìn thấy cái đầu bị đứt lìa rồi đã đưa dương vật vào vào cái miệng đã được banh ra và có va chạm. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (34)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến bãi tha ma đã nhìn thấy cái đầu bị đứt lìa rồi đã đưa dương vật vào cái miệng đã được banh ra và không va chạm. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa.” (35)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đem lòng say đắm người nữ nọ. Nàng ấy đã từ trần và bị quăng bỏ ở mộ địa. Các khúc xương đã bị phân tán rải rác. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã đi vào bãi tha ma rồi thâu nhặt các khúc xương lại và đã đặt dương vật vào chỗ kín. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa.” (36)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã thực hiện việc đôi lứa với rồng cái. ―(như trên)― đã thực hiện việc đôi lứa với Dạ-xoa nữ. ―(như trên)― đã thực hiện việc đôi lứa với ma nữ. ―(như trên)― đã thực hiện việc đôi lứa với người vô căn. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (37-40)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị liệt cảm giác. Vị ấy (nghĩ rằng): “Ta đây không cảm giác được lạc hay khổ, như thế ta sẽ không phạm tội” rồi đã thực hiện việc đôi lứa. ―(như trên)― Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, kẻ rồ dại ấy đã phạm tội pārājika dầu đã cảm giác hay đã không cảm giác.” (41)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ (nghĩ rằng): “Ta sẽ thực hiện việc đôi lứa với người nữ” nhưng chỉ mới chạm vào vị ấy đã hối hận. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội saṅghādisesa.” (42)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ nằm nghỉ ngơi vào ban ngày trong khu rừng Jātiyā ở thành Bhaddiya. Các phần cơ thể của vị ấy đã bị cương lên bởi gió. Có người nữ nọ nhìn thấy rồi đã ngồi lên trên dương vật (vị ấy), đến khi đạt được mục đích đã bỏ đi. Các vị tỳ khưu nhìn thấy (vị ấy) bị nhầy nhụa nên đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, dương vật trở nên thích ứng do năm lý do: do ái dục, do phân, do nước tiểu, do gió, do bị cắn bởi sâu bọ. Này các tỳ khưu, đây là năm lý do làm cho dương vật trở nên thích ứng. Này các tỳ khưu, dương vật của vị tỳ khưu ấy trở nên thích ứng do ái dục là điều không có cơ sở và không hợp lý. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy là vị A-la-hán. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không phạm tội.” (43)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ nằm nghỉ ngơi vào ban ngày trong khu rừng Andha ở thành Sāvatthī. Có cô chăn bò nọ nhìn thấy rồi đã ngồi lên trên dương vật (vị ấy). Vị tỳ khưu ấy đã ưng thuận việc đưa vào, đã ưng thuận khi được đẩy vào, đã ưng thuận khi dừng lại, đã ưng thuận việc rút ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (44)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ nằm nghỉ ngơi vào ban ngày trong khu rừng Andha ở thành Sāvatthī. Có cô chăn dê nọ nhìn thấy ―(như trên)― Có cô đi mót củi nọ nhìn thấy ―(như trên)― Có cô đi nhặt phân bò nọ nhìn thấy rồi đã ngồi lên trên dương vật (vị ấy). Vị tỳ khưu ấy đã ưng thuận việc đưa vào, đã ưng thuận khi được đẩy vào, đã ưng thuận khi dừng lại, đã ưng thuận việc rút ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (45-47)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ nằm nghỉ ngơi vào ban ngày ở Mahāvana trong thành Vesālī. Có người nữ nọ nhìn thấy rồi đã ngồi lên dương vật (vị ấy), sau khi đạt được mục đích đã đứng cạnh bên rồi cười. Vị tỳ khưu ấy thức giấc đã nói với người nữ ấy điều này: – “Có phải việc làm này là của cô?” – “Thưa vâng, là việc làm của tôi.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi có ưng thuận không?” – “Bạch Thế Tôn, con không biết.” – “Này tỳ khưu, vị không biết thì vô tội.” (48)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khi nghỉ ngơi vào ban ngày ở Mahāvana trong thành Vesālī đã nằm xuống tựa vào thân cây. Có người nữ nọ nhìn thấy rồi đã ngồi lên trên dương vật (vị ấy). Vị tỳ khưu ấy đã lập tức đứng dậy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, có phải ngươi đã ưng thuận? – “Bạch Thế Tôn, con đã không ưng thuận. – “Này tỳ khưu, vị không ưng thuận thì vô tội.” (49)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khi nghỉ ngơi vào ban ngày ở Mahāvana trong thành Vesālī đã nằm xuống tựa vào thân cây. Có người nữ nọ nhìn thấy rồi đã ngồi lên trên dương vật (vị ấy). Vị tỳ khưu ấy đã nhổm dậy khiến cô ấy lăn tròn. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, có phải ngươi đã ưng thuận? – “Bạch Thế Tôn, con đã không ưng thuận. – “Này tỳ khưu, vị không ưng thuận thì vô tội.” (50)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khi nghỉ ngơi vào ban ngày tại giảng đường Kūṭāgāra ở Mahāvana trong thành Vesālī đã mở cửa lớn rồi nằm xuống. Các phần thân thể của vị ấy đã bị cương lên bởi gió. Vào lúc bấy giờ, có nhiều người nữ mang theo vật thơm và tràng hoa đã đi đến tu viện ngắm nhìn các trú xá. Khi ấy, những người nữ ấy đã nhìn thấy vị tỳ khưu ấy nên đã ngồi lên trên dương vật (vị ấy), đến khi đạt được mục đích đã nói rằng: “Đây quả thật là người như bò mộng,” sau khi để lại vật thơm và tràng hoa rồi đã bỏ đi. Các vị tỳ khưu nhìn thấy (vị ấy) bị nhầy nhụa nên đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– “Này các tỳ khưu, dương vật trở nên thích ứng do năm lý do: do ái dục, do phân, do nước tiểu, do gió, do bị cắn bởi sâu bọ. Này các tỳ khưu, đây là năm lý do làm cho dương vật trở nên thích ứng. Này các tỳ khưu, dương vật của vị tỳ khưu ấy trở nên thích ứng do ái dục là điều không có cơ sở và không hợp lý. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy là vị A-la-hán. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không có phạm tội. Này các tỳ khưu, đối với vị nghỉ ngơi vào ban ngày, Ta cho phép nghỉ ngơi sau khi đã đóng cửa lớn lại.” (51)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ người thành phố Bhārukaccha trong lúc đang ngủ (mơ thấy) đã thực hiện việc đôi lứa với người vợ cũ (nên nghĩ rằng): “Ta không còn là Sa-môn nữa, ta sẽ hoàn tục.” Trong lúc đi đến thành phố Bhārukaccha, giữa đường đã nhìn thấy đại đức Upāli và đã kể lại sự việc ấy. Đại đức Upāli đã nói như vầy: – “Này đại đức, với vị đang ngủ mơ thì không phạm tội.” (52)

Vào lúc bấy giờ, nữ cư sĩ tên Supabbā ở trong thành Rājagaha là người có đức tin mù quáng. Cô ấy có tri kiến như vầy: “Người nữ nào dâng cúng việc đôi lứa thì người nữ ấy dâng cúng vật thí tối thượng.” Sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu, cô ấy đã nói điều này: – “Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy thực hiện việc đôi lứa. – “Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép. – “Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở giữa hai bắp vế; như thế ngài sẽ không phạm tội. Vị tỳ khưu ấy đã làm như thế. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội saṅghādisesa.” (53)

Vào lúc bấy giờ, nữ cư sĩ tên Supabbā ở trong thành Rājagaha là người có đức tin mù quáng. Cô ấy có quan điểm như vầy: “Người nữ nào dâng cúng việc đôi lứa thì người nữ ấy dâng cúng vật thí tối thượng.” Sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu, cô ấy đã nói điều này: – “Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy thực hiện việc đôi lứa.” – “Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép.” – “Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở lỗ rún; … Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở bụng; … Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở nách; … Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở cổ; … Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở lỗ tai; … Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở bím tóc; … Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở giữa hai ngón tay; … Thưa ngài, hãy đến. Tôi sẽ dùng tay ra sức và làm (ngài) xuất tinh; như thế ngài sẽ không phạm tội.” Vị tỳ khưu ấy đã làm như thế. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội saṅghādisesa.” (54-61)

Vào lúc bấy giờ, nữ cư sĩ tên Saddhā ở trong thành Sāvatthī là người có đức tin mù quáng. Cô ấy có quan điểm như vầy: “Người nữ nào dâng cúng việc đôi lứa thì người nữ ấy dâng cúng vật thí tối thượng.” Sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu, cô ấy đã nói điều này: – “Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy thực hiện việc đôi lứa.” – “Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép. – “Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở giữa hai bắp vế; ―(như trên)― Thưa ngài, hãy đến. Tôi sẽ đến gần và dùng tay làm (ngài) xuất tinh; như thế ngài sẽ không phạm tội.” Vị tỳ khưu ấy đã làm như thế. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội saṅghādisesa.” (62-70)

Vào lúc bấy giờ, các vương tử Licchavi ở thành Vesālī đã bắt giữ vị tỳ khưu rồi buộc phải phạm giới với vị tỳ khưu ni. Cả hai đã ưng thuận. – “Cả hai nên bị trục xuất.” ―(như trên)― Cả hai đã không ưng thuận. – “Cả hai đều vô tội.” (71)

Vào lúc bấy giờ, các vương tử Licchavi ở thành Vesālī đã bắt giữ vị tỳ khưu rồi buộc phải phạm giới với cô ni tu tập sự. ―(như trên)― rồi buộc phải phạm giới với vị sa di ni. Cả hai đã ưng thuận. – “Cả hai nên bị trục xuất.” ―(như trên)― Cả hai đã không ưng thuận. – “Cả hai đều vô tội.” (72-73)

Vào lúc bấy giờ, các vương tử Licchavi ở thành Vesālī đã bắt giữ vị tỳ khưu rồi buộc phải phạm giới với gái điếm. ―(như trên)― rồi buộc phải phạm giới với người vô căn. ―(như trên)― rồi buộc phải phạm giới với nữ gia chủ. Vị tỳ khưu đã ưng thuận. – “Vị tỳ khưu nên bị trục xuất.” ―(như trên)― Vị tỳ khưu đã không ưng thuận. – “Vị tỳ khưu vô tội.” (74-76)

Vào lúc bấy giờ, các vương tử Licchavi ở thành Vesālī đã bắt giữ vị tỳ khưu rồi buộc phải phạm giới lẫn nhau. Cả hai đã ưng thuận. – “Cả hai nên bị trục xuất.” ―(như trên)― Cả hai đã không ưng thuận. – “Cả hai đều vô tội.” (77)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ xuất gia lúc tuổi đã lớn. Vị ấy đã đi gặp người vợ cũ. Cô ấy đã níu giữ lại (nói rằng): – “Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy hoàn tục.” Vị tỳ khưu ấy trong lúc bước lui đã té ngửa ra. Cô ấy đã giở (y) lên rồi ngồi lên trên dương vật (vị ấy). Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không ưng thuận thì vô tội.” (78)

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ ngụ ở trong rừng. Có con nai tơ đã đi đến chỗ tiểu tiện của vị ấy. Trong lúc đang uống nước tiểu, nó đã dùng miệng ngậm lấy dương vật (vị ấy). Vị tỳ khưu ấy đã ưng thuận. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (79)

Dứt điều pārājika thứ nhất.

–ooOoo–

[16] Dịch sát từ sẽ là: “Sau khi nhìn thấy, điều này đã khởi đến anh ta: …”

[17] Y paṃsukūla: y được may bằng vải dơ bị người ta quăng bỏ, thông thường là vải quấn tử thi được tìm thấy ở bãi tha ma (ND).

[18] Ngài Buddhaghosa giải thích ở Chú Giải Samantapāsādikā rằng đã tám năm trôi qua nên người nữ tỳ không thể nhận ra đại đức Sudinna mà chỉ nhận biết qua các đặc điểm của tay, chân, và giọng nói. Thêm vào đó còn cho biết vị Sudinna đã xuất gia vào năm thứ mười hai của đức Thế Tôn và thời điểm xảy ra câu chuyện này là năm thứ hai mươi (VinA. i, 208).

[19] Theo ngài Buddhaghosa cho biết, hai mẹ con đã xuất gia sau đó khoảng bảy hoặc tám năm (VinA. i,215).

[20] Là việc đặt dương vật vào trong miệng của con rắn có nọc độc khủng khiếp, vào trong miệng của con hắc xà, vào trong hố than được đốt cháy có ngọn lửa sáng rực (ND).

[21] Là việc đặt dương vật vào trong âm vật của người nữ (ND).

[22] Chánh Pháp (saddhamma): Ngài Buddhaghosa giải thích saddhamma gồm có ba phần: Pariyattisaddhamma (Pháp Học) gồm tất cả các lời dạy của đức Phật đã được kết tập thành Tam Tạng,Paṭipattisaddhamma (Pháp Hành) là 13 pháp Đầu-đà, 14 pháp hành, 82 phận sự chính, Giới, Định, và Minh Sát, Adhigamasaddhamma (Pháp Đắc Chứng) là 4 Đạo, 4 Quả, và Niết Bàn (VinA. i, 225). Giải thích về 82 phận sự chính Ṭīkā (Sớ Giải) ghi rằng: 66 phận sự của vị hành parivāsa (bắt đầu với điều “Không nên ban phép tu lên bậc trên, …, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành trong khi vị tỳ khưu trong sạch đi kinh hành ở trên mặt đất”); không ngụ chung với 5 hạng tỳ khưu (vị cũng thực hànhparivāsa nhưng thâm niên hơn, vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta, vị đang thực hành mānatta, vị xứng đáng sự giải tội) tính là 5 điều thành 71; “không nên tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các vị tỳ khưu trong sạch” tính là 1 điều thành 72; “không nên bôi nhọ vị tỳ khưu trong sạch với sự hư hỏng về giới, v.v…” tính là 10 điều; tổng cộng là 82 phận sự.

[23] Từ “bất cộng trụ” đã được sử dụng quen thuộc khi đề cập đến tội pārājika. Thật ra, “bất cộng trụ” là từ dịch của asaṃvāso trong câu “ayampi pārājiko hoti asaṃvāso,” chứ không phải của pārājika. Pārājikađược xem là tên của tội, còn asaṃvàso có thể xem như là một hình thức xử lý tội pārājika, là không được sống chung và tiến hành các hành sự như là lễ Uposatha, lễ Parāraṇā, v.v… Ngài Buddhaghosa chỉ ra động từ liên quan là “parājeti = khuất phục, đánh bại, chế ngự, chiến thắng” và giải thích rằng vị “pārājiko” là vị “parājito,” (parājito là quá khứ phân từ thể thụ động của parājeti, có nghĩa là: bị khuất phục, bị đánh bại, bị chế ngự). Như vậy, pārājika có nghĩa là “kẻ thất trận, kẻ bại trận người thua cuộc” và được sử dụng cho tên của một loại tội cực nặng trong giới bổn Pātimokkha của tỳ khưu gồm 4 điều được trình bày trong chương này. Chúng tôi giữ nguyên từ pārājika không dịch.

[24] Nguyên nhân kia đã được giải thích ở phần trước.

[25] Nguyên nhân này là việc đặt dương vật vào trong âm vật của con khỉ cái (ND).

[26] Adhisīla: Tăng thượng giới là giới bổn Pātimokkha. Adhicitta: Tăng thượng tâm là sự tu tập các loại định hợp thế. Adhipaññā: Tăng thượng tuệ là sự tu tập (các tâm) Đạo Siêu Thế (VinA. i, 244-245).

[27] Từ Pāli paṇḍaka là đề cập đến người phái nam. Về phái nữ, các từ được tìm thấy là paṇḍikā, itthipaṇḍikā, itthipaṇḍaka. Từ tiếng Anh tương đương là eunuch được dịch sang tiếng Việt là “hoạn quan, thái giám.” Từ “bị thiến” đã được dùng đến trong một số bản dịch trước đây. Lâu nay, chúng tôi hiểu theo ý nghĩa thông thường đó. Gần đây, chúng tôi tìm thấy từ jātipaṇḍaka mới biết thêm được là có hạng người paṇḍaka bẩm sanh. Dựa theo phần giảng giải của giới pārājika thứ nhất này, chúng tôi có được khái niệm là hạng này không có bộ phận sinh dục, còn việc xác định nam hay nữ là do các đặc tính khác như vóc dáng, bộ ngực, giọng nói, v.v… Về tâm sinh lý, trong Mahāvagga – Đại Phẩm thuộc tạng Luật có câu chuyện đề cập đến bản chất ham muốn về nhục dục của hạng người này. Chúng tôi tạm dịch là “vô căn” cho hạng người không có bộ phận sinh dục này cho dù là bẩm sinh hay bị thiến.

[28] Bhikkhupaccatthikā được Ṭīkā (Sớ Giải) giải thích là “các kẻ đối nghịch của tỳ khưu,” còn ngài Buddhaghosa thiên về ý “các tỳ khưu đối nghịch.” Theo văn phạm, hai cách dịch trên đều có khả năng tùy theo cách phân tích hợp từ bhikkhupaccatthikā là tappurisa hay kammadhāraya. Sự chọn lựa của ngài Buddhaghosa có phần hợp lý hơn, xin xem giải thích ở phần kế.

[29] Nếu ở trên dịch hợp từ bhikkhupaccatthikā là “các kẻ đối nghịch của tỳ khưu” thì ở đây phải dịch rājapaccatthikā là “các kẻ đối nghịch của vị vua” xét ra không hợp lý. Chính vì ở đây phải dịch là “các vị vua đối nghịch” nên có thể xác định ý nghĩa cho từ bhikkhupaccatthikā ở trên là “các tỳ khưu đối nghịch.”

[30] Lúc này, vị tỳ khưu ni Uppalavaṇṇa đã là vị A-la-hán. Còn người thanh niên ấy khi vừa đi khuất tầm mắt của vị tỳ khưu ni thì quả địa cầu đã nứt tạo ra lỗ hổng hút vào lòng đất như thể quả địa cầu này không thể nâng đỡ nỗi kẻ độc ác ấy. Anh ta lập tức bị đọa vào địa ngục Avīci và ở vào trạng thái bị lửa địa ngục thiêu đốt (VinA. i, 273)

[31] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng vị này đẹp trai (sundara) và là vị Bất Lai nên không còn ưa thích về việc đôi lứa (VinA. i, 278).

Đọc sách ebook: PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU I

–ooOoo–

 

TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)

Các bài viết trong sách

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *