Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni 

Chương Nissaggiya: Phẩm Lõa Thể

Điều học thứ nhất

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, nhiều tỳ khưu ni lõa thể tắm chung với các cô gái điếm ở một bến tắm nơi dòng sông Aciravatī. Các cô gái điếm đã chế giễu các tỳ khưu ni ấy rằng: – “Các bà đại đức ơi, có được cái gì cho các bà với việc thực hành Phạm hạnh trong lúc đang còn quá trẻ vậy? Chớ không phải các dục lạc là nên được thụ hưởng hay sao? Khi nào trở nên già cả, khi ấy các bà sẽ thực hành Phạm hạnh, như thế các bà sẽ vơ được cả hai mối lợi.” Trong khi bị các cô gái điếm chế giễu, các tỳ khưu ni đã xấu hổ. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã đi về chỗ ngụ và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, như thế thì ta sẽ quy định điều học cho các tỳ khưu ni vì mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, ―(như trên)― và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào lõa thể tắm thì phạm tội pācittiya.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Lõa thể tắm: vị ni không quấn y hoặc không choàng y rồi tắm. Trong lúc tiến hành thì phạm tội dukkaṭa. Khi hoàn tất việc tắm thì phạm tội pācittiya.

Vị ni có y (choàng tắm) bị cướp đoạt, hoặc vị ni có y (choàng tắm) bị hư hỏng, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ nhất.

–ooOoo–

Điều học thứ nhì

Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, vải choàng tắm của các tỳ khưu ni đã được đức Thế Tôn cho phép. Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Vải choàng tắm đã được đức Thế Tôn cho phép,” rồi đã mặc những vải choàng tắm không đúng kích thước, trong lúc để lòng thòng ở phía trước và phía sau rồi đi đó đây.

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại mặc những vải choàng tắm không đúng kích thước?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư mặc những vải choàng tắm không đúng kích thước, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại mặc những vải choàng tắm không đúng kích thước vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Trong khi cho thực hiện vải choàng tắm, vị tỳ khưu ni nên bảo làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài bốn gang tay, chiều rộng hai gang theo gang tay của đức Thiện Thệ. Nếu vượt quá mức ấy thì (vải choàng tắm) nên được cắt bớt và phạm tội pācittiya.”

Vải choàng tắm nghĩa là vật mà vị ni quấn vào rồi tắm.

Trong khi cho thực hiện: trong khi (tự) làm hoặc trong khi bảo làm. Nên bảo làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài bốn gang tay chiều rộng hai gang theo gang tay của đức Thiện Thệ.[5] Nếu vị (tự) làm hoặc bảo làm vượt quá mức ấy, trong lúc tiến hành thì phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được thì nên cắt bớt rồi nên sám hối tội pācittiya.

Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya. Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya.

Vị tự làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa. Được làm bởi người khác, vị ni có được rồi sử dụng thì phạm tội dukkaṭa.

Vị ni làm theo kích thước, vị ni làm nhỏ hơn, do người khác làm quá kích thước sau khi có được thì cắt bớt rồi sử dụng, vị ni làm mái che hoặc thảm trải nền hoặc tấm vách chắn hoặc nệm hoặc gối kê, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ nhì.

–ooOoo–

Điều học thứ ba

Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, y bằng vải y đắt giá của vị tỳ khưu ni nọ đã được làm xấu xí, đã được may vụng về. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với tỳ khưu ni ấy điều này: – “Này ni sư, vải y này của cô tuyệt đẹp nhưng y đã được làm xấu xí, đã được may vụng về.” – “Này ni sư, tôi tháo rời ra, có phải cô sẽ may lại?” – “Này ni sư, đúng vậy. Tôi sẽ may lại.” Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã tháo rời y ấy rồi đã trao cho tỳ khưu ni Thullanandā. Tỳ khưu ni Thullanandā (nghĩ rằng): “Ta sẽ may lại, ta sẽ may lại” nhưng không may lại, cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni.

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao ni sư Thullanandā sau khi bảo tháo rời y của vị tỳ khưu ni rồi không may lại, cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi bảo tháo rời y của vị tỳ khưu ni rồi không may lại, cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi bảo tháo rời y của vị tỳ khưu ni rồi không may lại, cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời y của vị tỳ khưu ni, vị ni ấy sau đó không gặp trở ngại vẫn không may lại, cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại, ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày thì phạm tội pācittiya.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Của vị tỳ khưu ni: của vị tỳ khưu ni khác.

Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y.

Khi đã tháo rời: sau khi tự mình tháo rời.

(Sau khi) bảo tháo rời: sau khi bảo người khác tháo rời.

Vị ni ấy sau đó không gặp trở ngại: khi không có trở ngại.

Vẫn không may lại: không tự mình may lại.

Không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại: không chỉ thị người khác.

Ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày: trừ ra trong bốn ngày hoặc năm ngày. (Nghĩ rằng): “Ta sẽ không may lại, ta sẽ không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại,” khi vừa buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya.

Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni ấy khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời y sau đó không gặp trở ngại vẫn không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại thì phạm tội pācittiya ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày. Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni ấy khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời y sau đó không gặp trở ngại vẫn không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại thì phạm tội pācittiya ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày. Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni ấy khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời y sau đó không gặp trở ngại vẫn không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại thì phạm tội pācittiya ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày.

Vị ni ấy khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời vật phụ tùng khác sau đó không gặp trở ngại vẫn không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại thì phạm tội dukkaṭangoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày. Vị ni ấy khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời y hoặc vật phụ tùng khác của người nữ chưa tu lên bậc trên sau đó không gặp trở ngại vẫn không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại thì phạm tội dukkaṭa ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày. Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.

Trong khi có trở ngại, vị ni đã tầm cầu nhưng không có được (thời gian), trong khi làm vị ni ấy vượt quá bốn ngày hoặc năm ngày, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ ba.

–ooOoo–

Điều học thứ tư

Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni sau khi trao y tận tay của các tỳ khưu ni rồi ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y. Các y ấy được để lại lâu ngày trở nên mốc meo. Các tỳ khưu ni đem phơi nắng các y ấy. Các tỳ khưu ni đã nói với các tỳ khưu ni ấy điều này: – “Này các ni sư, các y bị mốc meo này là của vị nào vậy?” Khi ấy, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni.

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao các tỳ khưu ni sau khi trao y tận tay của các tỳ khưu ni lại ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni sau khi trao y tận tay của các tỳ khưu ni rồi ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni sau khi trao y tận tay của các tỳ khưu ni lại ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào vượt quá năm ngày thiếu vắng y hai lớp thì phạm tội pācittiya.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Vượt quá năm ngày thiếu vắng y hai lớp: đến ngày thứ năm vị ni không quấn hoặc không trùm hoặc không phơi nắng năm y, vị ni vượt quá ngày thứ năm thì phạm tội pācittiya.[6]

Khi đã vượt quá năm ngày, nhận biết là đã vượt quá, phạm tội pācittiya. Khi đã vượt quá năm ngày, có sự hoài nghi, phạm tội pācittiya. Khi đã vượt quá năm ngày, (lầm) tưởng là chưa vượt quá, phạm tội pācittiya.

Khi chưa vượt quá năm ngày, (lầm) tưởng là đã vượt quá, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa vượt quá năm ngày, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa vượt quá năm ngày, nhận biết là chưa vượt quá thì vô tội.

Vào ngày thứ năm vị ni quấn hoặc trùm hoặc phơi nắng năm y, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ tư.

–ooOoo–

Điều học thứ năm

Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ sau khi đi khất thực đã trải ra tấm y bị đẩm ướt rồi đi vào trong trú xá. Có vị tỳ khưu ni khác đã choàng lên y ấy rồi đi vào làng để khất thực. Vị ni kia đi ra đã hỏi các tỳ khưu ni rằng: – “Này các ni sư, các vị có nhìn thấy y của tôi không?” Các tỳ khưu ni đã kể lại sự việc ấy cho vị tỳ khưu ni ấy. Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao vị tỳ khưu ni trùm y của tôi mà không hỏi ý?” Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni.

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao tỳ khưu ni trùm y của tỳ khưu ni mà không hỏi ý?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni trùm y của vị tỳ khưu ni mà không hỏi ý, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni trùm y của tỳ khưu ni mà không hỏi ý vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào sử dụng y thiết thân (của vị ni khác) thì phạm tội pācittiya.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Y thiết thân nghĩa là y nào đó trong năm y của người nữ đã tu lên bậc trên. Vị ni quấn hoặc trùm y chưa được vị ni kia cho, hoặc chưa hỏi ý vị ni kia thì phạm tội pācittiya.

Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni sử dụng y thiết thân (của vị ni kia) thì phạm tội pācittiya. Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni sử dụng y thiết thân (của vị ni kia) thì phạm tội pācittiya. Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni sử dụng y thiết thân (của vị ni kia) thì phạm tội pācittiya.

Vị ni sử dụng y thiết thân của người nữ chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.

Vị ni kia cho, hoặc sau khi hỏi ý vị ni kia rồi quấn hoặc trùm lên, vị ni có y bị cướp đoạt, vị ni có y bị hư hỏng, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ năm.

–ooOoo–

Điều học thứ sáu

Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, gia đình hộ độ cho tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này: – “Thưa ni sư, chúng tôi sẽ dâng y đến hội chúng tỳ khưu ni.” Tỳ khưu ni Thullanandā đã gây chướng ngại (nói rằng): – “Các người có nhiều phận sự, có nhiều công việc cần phải làm.” Vào lúc bấy giờ, ngôi nhà của gia đình ấy bị cháy. Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Tại sao ni sư Thullanandā lại gây chướng ngại việc bố thí của chúng tôi khiến chúng tôi bị xa lìa cả hai là tài sản và phước báu?”

Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao ni sư Thullanandā lại gây chướng ngại lợi lộc về y của nhóm?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā gây chướng ngại lợi lộc về y của nhóm, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại gây chướng ngại lợi lộc về y của nhóm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào gây chướng ngại lợi lộc về y của nhóm thì phạm tội pācittiya.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Nhóm nghĩa là hội chúng tỳ khưu ni được đề cập đến.

Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.

Gây chướng ngại: vị gây chướng ngại (hỏi rằng): “Các người có thể bố thí y này như thế nào?” thì phạm tội pācittiya. Vị gây chướng ngại vật phụ tùng khác thì phạm tội dukkaṭa. Vị gây chướng ngại y hoặc vật phụ tùng khác của nhiều vị tỳ khưu ni hoặc của một vị tỳ khưu ni hoặc của người nữ chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa.

Vị ni cản trở sau khi chỉ rõ sự lợi ích, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ sáu.

–ooOoo–

Điều học thứ bảy

Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có y ngoài hạn kỳ phát sanh đến hội chúng tỳ khưu ni. Khi ấy, hội chúng tỳ khưu ni có ý định phân chia y ấy nên tụ hội lại. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni học trò của tỳ khưu ni Thullanandā đang đi vắng. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với các tỳ khưu ni ấy điều này: – “Này các ni sư, các tỳ khưu ni đang đi vắng, trong khi ấy y sẽ không được chia.” Rồi đã ngăn cản sự phân chia y đúng Pháp. Các tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Trong khi ấy y sẽ không được chia” nên đã ra đi. Đến khi các tỳ khưu ni học trò trở về lại, tỳ khưu ni Thullanandā đã bảo phân chia y ấy.

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao ni sư Thullanandā lại ngăn cản sự phân chia y đúng pháp?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā ngăn cản sự phân chia y đúng pháp, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại ngăn cản sự phân chia y đúng pháp vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào ngăn cản sự phân chia y đúng pháp thì phạm tội pācittiya.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Sự phân chia y đúng pháp nghĩa là hội chúng tỳ khưu ni có sự hợp nhất tụ hội lại rồi phân chia.

Ngăn cản: vị ni ngăn cản (hỏi rằng): “Có thể phân chia y này như thế nào?” thì phạm tội pācittiya.

Hành sự đúng pháp, nhận biết là hành sự đúng pháp, vị ni ngăn cản thì phạm tội pācittiya. Hành sự đúng pháp, có sự hoài nghi, vị ni ngăn cản thì phạm tội pācittiya. Hành sự đúng pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai pháp, vị ni ngăn cản thì vô tội.

Hành sự sai pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp thì vô tội.

Vị ni ngăn cản sau khi chỉ rõ sự lợi ích, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ bảy.

–ooOoo–

Điều học thứ tám

Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā cho y của Sa-môn đến các kịch sĩ, các vũ công, các người nhào lộn, các nhà ảo thuật, các người đánh trống (bảo rằng): – “Hãy nói lời khen ngợi về ta ở đám đông.” Các kịch sĩ, các vũ công, các người nhào lộn, các nhà ảo thuật, các người đánh trống đã nói lời khen ngợi về tỳ khưu ni Thullanandā ở đám đông rằng: – “Ni sư Thullanandā là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về nói Pháp thoại. Hãy bố thí đến ni sư. Hãy phục vụ cho ni sư.”

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao ni sư Thullanandā lại cho y của Sa-môn đến người nam tại gia?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā cho y của Sa-môn đến người nam tại gia, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại cho y của Sa-môn đến người nam tại gia vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào cho y của Sa-môn đến người nam tại gia hoặc nam du sĩ ngoại đạo hoặc nữ du sĩ ngoại đạo thì phạm tội pācittiya.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Người nam tại gia nghĩa là bất cứ người nam nào sống trong căn nhà.

Nam du sĩ ngoại đạo nghĩa là bất cứ người nam thành tựu pháp du sĩ trừ ra tỳ khưu và sa di.

Nữ du sĩ ngoại đạo nghĩa là bất cứ người nữ nào thành tựu pháp du sĩ trừ ra tỳ khưu ni, vị ni tu tập sự, và sa di ni.

Y của Sa-môn nghĩa là đề cập đến việc làm thành đúng phép đã được thực hiện. Vị ni cho thì phạm tội pācittiya.

Vị ni cho đến cha mẹ, vị ni cho mượn (trong thời hạn), vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ tám.

–ooOoo–

Điều học thứ chín

Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, gia đình hộ độ của tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này: – “Thưa ni sư, nếu chúng tôi có khả năng, chúng tôi sẽ dâng y đến hội chúng tỳ khưu ni.” Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni trải qua mùa (an cư) mưa có ý định phân chia y nên đã tụ họp lại. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với các tỳ khưu ni ấy điều này: – “Này các ni sư, hãy chờ đợi. Có niềm hy vọng về y cho hội chúng tỳ khưu ni.” Các tỳ khưu ni đã nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này: – “Này ni sư, hãy đi và tìm hiểu về y ấy.” Tỳ khưu ni Thullanandā đã đi đến gặp gia đình ấy, sau khi đến đã nói với những người ấy điều này: – “Này các đạo hữu, hãy dâng y đến hội chúng tỳ khưu ni.” – “Thưa ni sư, chúng tôi không thể dâng y đến hội chúng tỳ khưu ni.” Tỳ khưu ni Thullanandā đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni.

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao ni sư Thullanandā lại để cho vượt quá thời hạn về y khi niềm hy vọng về y không chắc chắn?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā để cho vượt quá thời hạn về y khi niềm hy vọng về y không chắc chắn, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại để cho vượt quá thời hạn về y khi niềm hy vọng về y không chắc chắn vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào để cho vượt quá thời hạn về y khi niềm hy vọng về y không chắc chắn thì phạm tội pācittiya.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Niềm hy vọng về y không chắc chắn nghĩa là lời nói đã được phát ra rằng: “Nếu chúng tôi có khả năng, chúng tôi sẽ dâng y.”

Thời hạn về y nghĩa là khi Kaṭhina không được thành tựu thì tháng cuối cùng của mùa mưa, khi Kaṭhina được thành tựu thì năm tháng.

Để cho vượt quá thời hạn về y: khi Kaṭhina không được thành tựu, vị ni để cho vượt quá ngày cuối cùng của mùa mưa thì phạm tội pācittiya. Khi Kaṭhina được thành tựu, vị ni để cho vượt quá ngày Kaṭhina hết hiệu lực thì phạm tội pācittiya.

Khi y không chắc chắn, nhận biết là y không chắc chắn, vị ni để cho vượt quá thời hạn về y thì phạm tội pācittiya. Khi y không chắc chắn, có sự hoài nghi, vị ni để cho vượt quá thời hạn về y thì phạm tội dukkaṭa. Khi y không chắc chắn, (lầm) tưởng là được chắc chắn, vị ni để cho vượt quá thời hạn về y thì vô tội.

Khi y được chắc chắn, (lầm) tưởng là không chắc chắn, phạm tội dukkaṭa. Khi y được chắc chắn, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi y được chắc chắn, nhận biết là được chắc chắn thì vô tội.

Vị ni cản trở sau khi chỉ rõ sự lợi ích, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ chín.

–ooOoo–

Điều học thứ mười 

Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có ngôi trú xá dành cho hội chúng đã được nam cư sĩ nọ cho xây dựng. Vào dịp lễ của ngôi trú xá ấy, người ấy có ý định dâng y ngoài hạn kỳ đến cả hai hội chúng. Vào lúc bấy giờ, kaṭhina của cả hai hội chúng đã được thành tựu. Khi ấy, nam cư sĩ ấy đã đi đến gặp hội chúng và cầu xin sự thâu hồi Kaṭhina. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi đã bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, ta cho phép thâu hồi Kaṭhina. Và này các tỳ khưu, Kaṭhina nên được thâu hồi như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thâu hồi Kaṭhina. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng thâu hồi Kaṭhina. Đại đức nào đồng ý với việc thâu hồi Kaṭhina xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Kaṭhina đã được hội chúng thâu hồi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Sau đó, nam cư sĩ ấy đã đi đến gặp hội chúng tỳ khưu ni và cầu xin sự thâu hồi Kaṭhina. Tỳ khưu ni Thullanandā (nghĩ rằng): “Sẽ có y cho chúng ta” nên đã ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina. Khi ấy, nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Tại sao các tỳ khưu ni lại không cho sự thâu hồi Kaṭhina của chúng tôi?” Các tỳ khưu ni đã nghe được nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai.

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao ni sư Thullanandā lại ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina đúng pháp?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhinađúng pháp, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina đúng pháp vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina đúng pháp thì phạm tội pācittiya.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là vị ‘tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Sự thâu hồi Kaṭhina đúng pháp nghĩa là hội chúng tỳ khưu ni có sự hợp nhất tụ hội lại rồi thâu hồi.

Ngăn cản: vị ngăn cản (hỏi rằng): “Có thể thâu hồi Kaṭhina này như thế nào?” thì phạm tội pācittiya.

Đúng pháp, nhận biết là đúng pháp, vị ni ngăn cản thì phạm tội pācittiya. Đúng pháp, có sự hoài nghi, vị ni ngăn cản thì phạm tội dukkaṭa. Đúng pháp, (lầm) tưởng là sai pháp, vị ni ngăn cản thì vô tội.

Sai pháp, (lầm) tưởng là đúng pháp, phạm tội dukkaṭa. Sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Sai pháp, nhận biết là sai pháp thì vô tội.

Vị ni ngăn cản sau khi chỉ rõ sự lợi ích, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ mười.

Phẩm Lõa Thể là thứ ba.

–ooOoo–

Tóm lược phẩm này

Lõa thể, vải choảng tắm, sau khi tháo ra, năm ngày, (y) thiết thân, của nhóm, việc phân chia, (y của) Sa-môn, không chắc chắn, và với việc (thâu hồi) Kaṭhina.”

–ooOoo–

[5] Nếu tính gang tay của đức Thiện Thệ theo kích thước của người bình thường là 0,25 cm thì kích thước vải choàng tắm của tỳ khưu ni là 1 m x 0,5 m. Vải choảng tắm mưa của các tỳ khưu lớn hơn: 1,50 m x 0, 625 m (ND).

[6] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng cứ mỗi y là tính một tội pācittiya (VinA. iv, 929).

TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *