III. XỨ SONG (ĀYATANAYAMAKA)
1- PHẦN ÐỊNH DANH (PAÑÑATTIVĀRO)
[279] Mười hai xứ; nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, sắc xứ, thinh xứ, khí xứ, vị xứ, xúc xứ, ý xứ, pháp xứ.
2- PHẦN XIỂN THUẬT (UDDESAVĀRO)
[280] Nhãn là nhãn xứ? Nhãn xứ là nhãn?
Nhĩ là nhĩ xứ? Nhĩ xứ là nhĩ?
Tỷ là tỷ xứ? Tỷ xứ là tỷ?
Thiệt là thiệt xứ? Thiệt xứ là thiệt?
Thân là thân xứ? Thân xứ là thân?
Sắc là sắc xứ? Sắc xứ là sắc?
Thinh là thinh xứ? Thinh xứ là thinh?
Khí là khí xứ? Khí xứ là khí?
Vị là vị xứ? Vị xứ là vị?
Xúc là xúc xứ? Xúc xứ là xúc?
Ý là ý xứ? Ý xứ là ý?
Pháp là pháp xứ? Pháp xứ là pháp?
[281] Phi nhãn là phi nhãn xứ? Phi nhãn xứ là phi nhãn ?
Phi nhĩ là phi nhĩ xứ? Phi nhĩ xứ là phi nhĩ?
Phi tỷ là phi tỷ xứ? Phi tỷ xứ là phi tỷ?
Phi thiệt là phi thiệt xứ? Phi thiệt xứ là phi thiệt?
Phi thân là phi thân xứ? Phi thân xứ là phi thân?
Phi sắc là phi sắc xứ? Phi sắc xứ là phi sắc?
Phi thinh là phi thinh xứ? Phi thinh xứ là phi thinh?
Phi khí là phi khí xứ? Phi khí xứ là phi khí?
Phi vị là phi vị xứ? Phi vị xứ là phi vị?
Phi xúc là phi xúc xứ? Phi xúc xứ là phi xúc?
Phi ý là phi ý xứ? Phi ý xứ là phi ý?
Phi pháp là phi pháp xứ? Phi pháp xứ là phi pháp?
[282] Nhãn là nhãn xứ? Xứ là nhĩ xứ?
Nhãn là nhãn xứ? Xứ là tỷ xứ?
Nhãn là nhãn xứ? Xứ là thiệt xứ?
… trùng … xứ là pháp xứ?
Nhĩ là nhĩ xứ? Xứ là nhãn xứ?
Nhĩ là nhĩ xứ? Xứ là tỷ xứ?
… trùng … xứ là pháp xứ?
Tỷ là tỷ xứ? … trùng … xứ là pháp xứ … trùng …
Pháp là pháp xứ? Xứ là nhãn xứ?
Pháp là pháp xứ? Xứ là nhãn xứ?
Pháp là pháp xứ? Xứ là nhĩ xứ?
… trùng … xứ là ý xứ?
(nên kết câu xoay vòng ).
[283] Phi nhãn là phi nhãn xứ? Phi xứ là phi nhĩ xứ?
Phi nhãn là phi nhãn xứ? Phi xứ là phi tỷ xứ?
Phi nhãn là phi nhãn xứ? Phi xứ là phi thiệt xứ?
… trùng … phi xứ là phi pháp xứ?
Phi nhĩ là phi nhĩ xứ? Phi xứ là phi nhãn xứ?
Phi nhĩ là phi nhĩ xứ? Phi xứ là phi tỷ xứ?
… trùng … phi xứ là phi pháp xứ?
Phi tỷ là phi tỷ xứ … trùng … phi xứ là phi pháp xứ?… trùng …
Phi pháp là phi pháp xứ? Phi xứ là phi nhãn xứ?
Phi pháp là phi pháp xứ? Phi xứ là phi nhĩ xứ?
… trùng … phi xứ là phi ý xứ?
(Nên kết cấu xoay vòng)
[284] Nhãn là nhãn xứ? Xứ là nhãn?
Nhĩ là nhĩ xứ? Xứ là nhĩ?
Tỷ là xứ? Xứ là tỷ?
Thiệt là xứ? Xứ là thiệt?
Thân là xứ? Xứ là thân?
Sắc là xứ? Xứ là sắc?
Thinh là xứ? Xứ là Thinh?
Khí là xứ? Xứ là khí?
Vị là xứ? Xứ là vị?
Xúc là xứ? Xứ là xúc?
Ý là xứ? Xứ là ý?
Pháp là xứ? Xứ là pháp?
[285] Phi nhãn là phi xứ? Phi xứ là phi nhãn?
Phi nhĩ là phi xứ? Phi xứ là phi nhĩ?
Phi tỷ là phi xứ? Phi xứ là phi tỷ?
Phi thiệt là phi xứ? Phi xứ là phi thiệt?
Phi thân là phi xứ? Phi xứ là phi thân?
Phi sắc là phi xứ? Phi xứ là phi sắc?
Phi thinh là phi xứ? Phi xứ là phi thinh?
Phi khí là phi xứ? Phi xứ là phi khí?
Phi vị là phi xứ? Phi xứ là phi vị?
Phi xúc là phi xứ? Phi xứ là phi xúc?
Phi ý là phi xứ? Phi xứ là phi ý?
Phi pháp là phi xứ? Phi xứ là phi pháp?
[286] Nhãn là xứ? Xứ là nhĩ … trùng … Nhãn là xứ? Xứ là pháp?
Nhĩ là xứ? Xứ là nhãn … trùng … nhĩ là xứ? Xứ là pháp?
Tỷ là xứ? Xứ là nhãn … trùng … Tỷ là xứ? Xứ là pháp?
Pháp là xứ? Xứ là nhãn ? Pháp là xứ? Xứ là nhĩ? … trùng … xứ là ý? (nên kết cấu xoay vòng )
[287] Phi nhãn là phi xứ? Phi xứ là phi nhĩ?… trùng … phi nhãn là phi xứ? phi xứ là phi pháp?
Phi nhĩ là phi xứ? Phi xứ là phi nhãn ?… trùng … phi xứ là phi pháp?
Phi tỷ là phi xứ? Phi xứ là phi nhãn ?… trùng … phi xứ là phi pháp?
Phi pháp là phi xứ? Phi xứ là phi nhãn ? Phi pháp là phi xứ? Phi xứ là phi nhĩ? … trùng … phi xứ là phi ý? (Nên kết cấu xoay vòng)
DỨT PHẦN XIỂN THUẬT
3- PHẦN XIỂN MINH (NIDDESAVĀRO)
PHẦN ÐỊNH DANH (PAÑÑATTIVĀRA)
[288] Nhãn là nhãn xứ?
“Thiên nhãn, tuệ nhãn là nhãn nhưng không phải là nhãn xứ; chỉ có nhãn xứ là nhãn cũng là nhãn xứ”
– NHÃN XỨ LÀ NHÃN ?
“Phải rồi!”
– NHĨ LÀ NHĨ XỨ?
“Thiên nhĩ, ái nhĩ(1) là nhĩ nhưng không là nhĩ xứ; chỉ có nhĩ xứ là nhĩ cũng là nhĩ xứ”
– NHĨ XỨ LÀ NHĨ?
“Phải rồi!”
TỶ LÀ TỶ XỨ?
“Phải rồi!”
– TỶ XỨ LÀ TỶ?
“Phải rồi!”
– THIỆT LÀ THIỆT XỨ?
“Phải rồi!”
– THIỆT XỨ LÀ THIỆT?
“Phải rồi!”
– THÂN LÀ THÂN XỨ?
“Ngoại trừ thân xứ, thân còn lại là thân nhưng không phải là thân xứ, chỉ có thân xứ là thân cũng là thân xứ”.
– THÂN XỨ LÀ THÂN?
“Phải rồi!”
– SẮC LÀ SẮC XỨ?
“Ngoại trừ sắc xứ, sắc còn lại là sắc nhưng không phải là sắc xứ; sắc xứ là sắc và cũng là sắc xứ?
– SẮC XỨ LÀ SẮC?
“Phải rồi!”
– THINH LÀ THINH XỨ?
“Phải rồi!”
– THINH XỨ LÀ THINH?
“Phải rồi!”
– KHÍ LÀ KHÍ XỨ?
“Giới khí (Sīlagandho), định khí (Samādhigandho), tuệ khí (Paññāgandho)(1) là khí nhưng không phải là khí xứ, chỉ có khí xứ là khí cũng là khí xứ.”
KHÍ XỨ LÀ KHÍ?
“Phải rồi!”
– VỊ LÀ VỊ XỨ?
“Nghĩa vị (Attharasa), pháp vị (Dhammarasa), giải thoát vị (Vimuttirasa) là vị nhưng không phải là vị xứ, chỉ có vị xứ là vị và cũng là vị xứ”
– VỊ XỨ LÀ VỊ?
“Phải rồi!”
– XÚC LÀ XÚC XỨ?
“Phải rồi!”
– XÚC XỨ LÀ XÚC?
“Phải rồi!”
– Ý LÀ Ý XỨ?
“Phải rồi!”
– Ý XỨ LÀ Ý?
“Phải rồi!”
– PHÁP LÀ PHÁP XỨ?
“Ngoại trừ pháp xứ, pháp còn lại là pháp mà không phải là pháp xứ, chỉ có pháp xứ là pháp cũng là pháp xứ”.
– PHÁP XỨ LÀ PHÁP?
“Phải rồi!”
[289] Phi nhãn là phi nhãn xứ?
“Phải rồi!”
– PHI NHÃN XỨ LÀ PHI NHÃN?
“Thiên nhãn, tuệ nhãn là phi nhãn xứ mà là nhãn, ngoại trừ nhãn và nhãn xứ các pháp còn lại là phi nhãn và cũng phi nhãn xứ”.
– PHI NHĨ LÀ PHI NHĨ XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI NHĨ XỨ LÀ PHI NHĨ?
“Thiên nhĩ, ái nhĩ (Tanhāsotam) là phi nhĩ xứ mà là nhĩ (Sotam), ngoại trừ nhĩ và nhĩ xứ, các pháp còn lại là phi nhĩ và cũng phi nhĩ xứ “.
– PHI TỶ LÀ PHI TỶ XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI TỶ XỨ LÀ PHI TỶ?
“Phải rồi!”
– PHI THIỆT LÀ PHI THIỆT XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI THIỆT XỨ LÀ PHI THIỆT?
“Phải rồi!”
– PHI THÂN LÀ PHI THÂN XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI THÂN XỨ LÀ PHI THÂN?
“Ngoại trừ thân xứ thân còn lại là phi thân xứ mà gọi là thân; ngoại trừ thân và thân xứ, còn lại là phi thân và cũng là phi thân xứ “
– PHI SẮC LÀ PHI SẮC XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI SẮC XỨ LÀ PHI SẮC?
“Ngoại trừ sắc xứ, sắc còn lại là phi sắc xứ mà gọi là sắc; ngoại trừ sắc và sắc xứ, pháp còn lại là phi sắc cũng là phi sắc xứ”.
– PHI THINH LÀ PHI THINH XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI THINH XỨ LÀ PHI THINH?
“Phải rồi!”
– PHI KHÍ LÀ PHI KHÍ XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI KHÍ XỨ LÀ PHI KHÍ XỨ?
“Giới khí (Sīlagandho), định khí (Samādhigandho) tuệ khí (Paññāgandho) không phải là khí xứ mà gọi là khí; ngoại trừ khí và khí xứ, pháp còn lại là phi khí và cũng là phi khí xứ.”
– PHI VỊ LÀ PHI VỊ XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI VỊ XỨ LÀ PHI VỊ?
“Nghĩa vị (Attharasa) pháp vị (Dhammarasa), giải thoát vị (Vimuttirasa) không phải là vị xứ mà gọi là vị. Ngoại trừ vị và vị xứ, pháp còn lại là phi vị và cũng là phi vị xứ”
– PHI XÚC LÀ PHI XÚC XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI XÚC XỨ LÀ PHI XÚC?
“Phải rồi!”
– PHI Ý LÀ PHI Ý XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI Ý XỨ LÀ PHI Ý?
“Phải rồi!”
– PHI PHÁP LÀ PHI PHÁP XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI PHÁP XỨ LÀ PHI PHÁP?
“Ngoại trừ pháp xứ, pháp còn lại là phi pháp xứ mà gọi là pháp; ngoại trừ pháp và pháp xứ, còn lại là phi pháp cũng là phi pháp xứ”.
[290] Nhãn là nhãn xứ?
“Thiên nhãn, tuệ nhãn là nhãn mà không phải là nhãn xứ; chỉ có nhãn xứ là nhãn và cũng là nhãn xứ”.
– XỨ LÀ NHĨ XỨ?
“Nhĩ xứ là xứ mà cũng là nhĩ xứ, các xứ còn lại là xứ nhưng không phải là nhĩ xứ”.
– NHÃN LÀ NHÃN XỨ?
“Thiên nhãn, tuệ nhãn là nhãn mà không phải là nhãn xứ; chỉ có nhãn xứ là nhãn và cũng là nhãn xứ”.
– XỨ LÀ TỶ XỨ? … trùng … XỨ LÀ PHÁP XỨ?
“Pháp là xứ mà cũng là pháp xứ, các xứ còn lại là xứ nhưng không phải là pháp xứ”.
– NHĨ … trùng …
– TỶ … trùng …
– PHÁP LÀ PHÁP XỨ?
“Ngoại trừ pháp xứ, pháp còn lại là pháp mà không phải là pháp xứ; pháp xứ pháp xứ là pháp và cũng là pháp xứ”.
– XỨ LÀ NHÃN XỨ?
“Nhãn xứ là xứ cũng vừa là nhãn xứ; các xứ còn lại là xứ mà không phải là nhãn xứ”.
– PHÁP LÀ PHÁP XỨ?
“Ngoại trừ pháp xứ, pháp còn lại là pháp mà không phải là pháp xứ; pháp xứ là pháp và cũng là pháp xứ”.
– XỨ LÀ NHĨ XỨ? … trùng … XỨ LÀ Ý XỨ?
“Ý xứ là xứ và cũng là ý xứ; các xứ còn lại là xứ mà không phải là ý xứ”
(Nên kết cấu xoay vòng mỗi mỗi câu gốc cho được rõ ràng)
[291] Phi nhãn là phi nhãn xứ?
“Phải rồi!”
– PHI XỨ LÀ PHI NHĨ XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI NHÃN LÀ PHI NHÃN XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI XỨ LÀ PHI TỶ XỨ?
“Phải rồi!”
… trùng … PHI XỨ LÀ PHI PHÁP XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI NHĨ LÀ PHI NHĨ XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI XỨ LÀ PHI NHÃN XỨ? … trùng …
– PHI XỨ LÀ PHI PHÁP XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI TỶ LÀ PHI TỶ XỨ? … trùng …
– PHI PHÁP LÀ PHI PHÁP XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI XỨ LÀ PHI NHÃN XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI PHÁP LÀ PHI PHÁP XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI XỨ LÀ PHI NHĨ XỨ? … trùng …
– PHI XỨ LÀ PHI Ý XỨ?
“Phải rồi!”
(Trong tất cả câu theo kết cấu xoay vòng đều cần lập luận là “phải rồi”).
[292] Nhãn là xứ?
“Phải rồi!”
– XỨ LÀ NHÃN XỨ?
“Nhãn xứ là xứ và cũng là nhãn xứ; các xứ còn lại là xứ mà không là nhãn xứ”.
– NHĨ LÀ XỨ?
“Phải rồi!”
… trùng … TỶ… THIỆT… THÂN… SẮC… THINH… HƯƠNG… VỊ… XÚC… Ý…
– PHÁP LÀ XỨ?
“Phải rồi!”
– XỨ LÀ PHÁP XỨ?
“Pháp xứ là xứ và cũng là pháp xứ; các xứ còn lại là xứ mà không là pháp xứ”.
[293] Phi nhãn là phi xứ?
“Ngoại trừ nhãn, các xứ còn lại là phi nhãn mà là xứ; ngoại trừ nhãn và xứ, còn lại là phi nhãn và cũng là phi xứ”.
– PHI XỨ LÀ PHI NHÃN XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI NHĨ LÀ PHI XỨ?
“Ngoại trừ nhĩ… trùng… Ngoại trừ tỷ… trùng … Ngoại trừ thiệt… trùng… cũng là phi xứ”
– PHI THÂN LÀ PHI XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI XỨ LÀ PHI THÂN XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI SẮC LÀ PHI XỨ?
“Ngoại trừ sắc … trùng … Ngoại trừ thinh … ngoại trừ khí.
… Ngoại trừ vị … Ngoại trừ xúc … trùng … cũng là phi xứ”.
– PHI Ý LÀ PHI XỨ?
“Ngoại trừ ý các xứ còn lại là phi ý mà là xứ; ngoại trừ ý và xứ, còn lại là phi ý và cũng là phi xứ”.
– PHI XỨ LÀ PHI Ý XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI PHÁP LÀ PHI XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI XỨ LÀ PHI PHÁP XỨ?
“Phải rồi!”
[294] Nhãn là xứ?
“Phải rồi!”
– XỨ LÀ NHĨ XỨ?
“Nhĩ xứ là xứ và cũng là nhĩ xứ; các xứ còn lại là xứ mà phi nhĩ xứ”
-NHÃN LÀ XỨ?
“Phải rồi!”
– XỨ LÀ TỶ XỨ? … trùng … XỨ LÀ PHÁP XỨ?
“Pháp xứ là xứ và cũng là pháp xứ, các xứ còn lại là xứ mà phi pháp xứ”
– NHĨ LÀ XỨ?
“Phải rồi!”
– XỨ LÀ NHÃN XỨ?
… trùng … mà phi nhãn xứ”
… trùng … XỨ LÀ PHÁP XỨ?
… trùng … mà phi pháp xứ”
… TỶ … THIỆT … PHÁP LÀ XỨ?
“Phải rồi!”
– XỨ LÀ NHÃN XỨ? … trùng … XỨ LÀ Ý XỨ?
“Ý xứ là xứ và cũng là ý xứ, các xứ còn lại là xứ mà phi ý xứ”.
(Nên kết cấu xoay vòng)
[295] Phi nhãn là phi xứ?
“Ngoại trừ nhãn, các xứ còn lại là phi nhãn nhưng là xứ; Trừ ra nhãn và xứ, còn lại là phi nhãn và cũng là phi xứ”.
– PHI XỨ LÀ PHI NHĨ XỨ?
“Phải rồi!”
… trùng … PHI NHÃN LÀ PHI XỨ?
“Ngoại trừ nhãn, các xứ còn lại là phi nhãn nhưng là xứ; Trừ ra nhãn và xứ, còn lại là phi nhãn cũng là phi xứ”.
– PHI XỨ LÀ PHI TỶ XỨ? … trùng … PHI XỨ LÀ PHI PHÁP XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI NHĨ LÀ PHI XỨ?
“Ngoại trừ nhĩ … trùng … ngoại trừ tỷ … ngoại trừ thiệt … trùng … cũng là phi xứ”.
– PHI THÂN LÀ PHI XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI XỨ LÀ PHI NHÃN XỨ?
“Phải rồi!”
… trùng … PHI XỨ LÀ PHI PHÁP XỨ?
“Phải rồi!”
… trùng … PHI PHÁP LÀ PHI XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI XỨ LÀ PHI NHÃN XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI PHÁP LÀ PHI XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI XỨ LÀ PHI NHĨ XỨ?
“Phải rồi!”
… trùng … PHI XỨ LÀ PHI Ý XỨ?
“Phải rồi!”
(Nên kết cấu xoay vòng).
DỨT PHẦN ÐỊNH DANH
4- PHẦN CHUYỂN BIẾN (PAVATTIVĀRO)
[296] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì nhĩ xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người hữu nhãn vô nhĩ(1), nhãn xứ đang sanh cho người ấy nhưng nhĩ xứ không đang sanh cho người ấy, còn đối với người hữu nhãn hữu nhĩ đang sanh thì nhãn xứ đang sanh và nhĩ xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu nhĩ vô nhãn đang sanh thì nhĩ xứ đang sanh cho người ấy nhưng nhãn xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhĩ hữu nhãn đang sanh thì nhĩ xứ đang sanh và nhãn xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[297] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì tỷ xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người hữu nhãn vô tỷ(2), đang sanh thì nhãn nhĩ xứ đang sanh cho người ấy mà tỷ xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn hữu tỷ đang sanh thì nhãn xứ đang sanh và tỷ xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
– HAY LÀ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu tỷ vô nhãn đang sanh thì tỷ xứ đang sanh cho người ấy mà nhãn xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu tỷ hữu nhãn đang sanh thì tỷ xứ đang sanh và nhãn xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[298] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì sắc xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu sắc vô nhãn đang sanh thì sắc xứ đang sanh cho người ấy mà nhãn xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì sắc xứ đang sanh và nhãn xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[299] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì ý xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu tâm vô nhãn đang sanh thì ý xứ đang sanh cho người ấy mà nhãn xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì ý xứ đang sanh và nhãn xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[300] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì pháp xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô nhãn đang sanh thì pháp xứ đang sanh cho người ấy mà nhãn xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì pháp xứ đang sanh và nhãn xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[301] Tỷ xứ đang sanh cho người nào thì sắc xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu sắc vô tỷ đang sanh thì sắc xứ đang sanh cho người ấy nhưng tỷ xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu tỷ đang sanh thì sắc xứ đang sanh và tỷ xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[302] Tỷ xứ đang sanh cho người nào thì ý xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu tâm vô tỷ đang sanh thì ý xứ đang sanh cho người ấy nhưng tỷ xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu tỷ đang sanh thì ý xứ đang sanh và tỷ xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[303] Tỷ xứ đang sanh cho người nào thì pháp xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô tỷ đang sanh thì pháp xứ đang sanh cho người ấy nhưng tỷ xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu tỷ đang sanh thì pháp xứ đang sanh và tỷ xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[304] Sắc xứ đang sanh cho người nào thì ý xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô tâm đang sanh thì sắc xứ đang sanh cho người ấy nhưng ý xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu sắc hữu tâm đang sanh thì sắc xứ đang xanhvà ý xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
– HAY LÀ Ý XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô sắc đang sanh thì ý xứ đang sanh cho người ấy nhưng sắc xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu tâm hữu sắc thì ý xứ đang sanh và sắc xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[305] Sắc xứ đang sanh cho người nào thì pháp xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô sắc đang sanh pháp xứ đang sanh cho người ấy nhưng sắc xứ không đang sanh cho người ấy; còn người hữu sắc đang sanh thì pháp xứ đang sanh và sắc xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[306] Ý xứ đang sanh cho người nào thì pháp xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô tâm đang sanh thì pháp xứ đang sanh cho người ấy nhưng ý xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu tâm đang sanh thì pháp xứ đang sanh và ý xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[307] Nhãn xứ đang sanh ở cõi nào thì nhĩ xứ đang sanh ở cõi đó phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH Ở CÕI ÐÓ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[308] Nhãn xứ đang sanh ở cõi nào thì tỷ xứ đang sanh ở cõi đó phải chăng?
“Ở cõi sắc giới, cõi ấy nhãn xứ đang sanh nhưng tỷ xứ không đang sanh ở cõi ấy; ở cõi dục giới, cõi ấy nhãn xứ đang sanh và tỷ xứ cũng đang sanh”.
– HAY LÀ TỶ XỨ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH Ở CÕI ÐÓ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[309] Nhãn xứ, đang sanh ở cõi nào thì sắc xứ đang sanh ở cõi đó phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH Ở CÕI ÐÓ PHẢI CHĂNG?
“Cõi vô tưởng, ở cõi ấy sắc xứ đang sanh nhưng nhãn xứ không đang sanh ở cõi đó; cõi ngũ uẩn, ở cõi đó sắc xứ đang sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[310] Nhãn xứ đang sanh ở cõi nào thì ý xứ đang sanh ở cõi đó phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH Ở CÕI ÐÓ PHẢI CHĂNG?
“Cõi vô sắc, ở cõi ấy ý xứ đang sanh nhưng nhãn xứ không đang sanh ở cõi đó; cõi ngũ uẩn, ở cõi ấy ý xứ đang sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[311] Nhãn xứ đang sanh ở cõi nào thì pháp xứ đang sanh ở cõi đó phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH Ở CÕI ÐÓ PHẢI CHĂNG?
“Cõi vô tưởng, cõi vô sắc, ở cõi ấy pháp xứ đang sanh nhưng nhãn xứ không đang sanh ở cõi đó; cõi ngũ uẩn, ở cõi ấy pháp xứ đang sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[312] Tỷ xứ đang sanh ở cõi nào thì sắc xứ đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Cõi sắc giới, ở cõi ấy sắc xứ đang sanh nhưng tỷ xứ không đang sanh ở cõi ấy; cõi dục giới, ở cõi ấy sắc xứ đang sanh và tỷ xứ cũng đang sanh”.
(Ở cõi nào tỷ xứ đang sanh thì ở cõi ấy ý xứ và pháp xứ cũng sanh được như nhau; không có nói trong phần sau đây, nên hiểu rằng vì tóm tắt).
[313] Tỷ xứ đang sanh ở cõi nào thì pháp xứ đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, ở cõi ấy pháp xứ đang sanh mà tỷ xứ không đang sanh ở cõi ấy; cõi dục giới, ở cõi ấy pháp xứ đang sanh và tỷ xứ cũng đang sanh”.
[314] Sắc xứ đang sanh ở cõi nào thì ý xứ đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Cõi vô tưởng, ở cõi ấy sắc xứ đang sanh mà ý xứ không đang sanh ở cõi ấy; cõi ngũ uẩn, ở cõi ấy sắc xứ đang sanh và ý xứ cũng đang sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Cõi vô sắc, ở cõi ấy ý xứ đang sanh mà sắc xứ không đang sanh ở cõi ấy; cõi ngũ uẩn, ở cõi ấy ý xứ đang sanh và sắc xứ cũng không đang sanh”.
[315] Sắc xứ đang sanh ở cõi nào thì pháp xứ đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Cõi vô sắc ở cõi ấy pháp xứ đang sanh mà sắc xứ không đang sanh ở cõi ấy; cõi ngũ uẩn, cõi vô tưởng ở cõi ấy pháp xứ đang sanh và sắc xứ cũng đang sanh”.
[316] Ý xứ đang sanh ở cõi nào thì pháp xứ đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Cõi vô tưởng, ở cõi ấy pháp xứ đang sanh mà ý xứ không đang sanh ở cõi ấy; cõi tứ uẩn, cõi ngũ uẩn, ở cõi ấy pháp xứ đang sanh và ý xứ cũng đang sanh”.
[317] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ đang sanh cho người ấy cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người hữu nhãn vô nhĩ đang sanh thì nhãn xứ đang sanh cho người ấy cõi ấy nhưng nhĩ xứ không đang sanh cho người ấy cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn hữu nhĩ đang sanh, thì nhãn xứ đang sanh và nhĩ xứ cũng đang sanh cho người ấy cõi ấy”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu nhĩ vô nhãn đang sanh thì nhĩ xứ đang sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng nhãn xứ không đang sanh cho người ấy cõi ấy; còn đối với người hữu nhĩ hữu nhãn đang sanh thì nhĩ xứ đang sanh và nhãn xứ cũng đang sanh cho người ấy cõi ấy”.
(Ðiểm nào trùng lập thì được tóm tắt).
[318] Ý xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ đang sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô tâm đang sanh thì pháp xứ đang sanh cho người ấy cõi ấy nhưng ý xứ không đang sanh cho người ấy cõi ấy; còn đối với người hữu tâm đang sanh thì pháp xứ đang sanh và nhãn xứ cũng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[319] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì nhĩ xứ không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô nhãn hữu nhĩ đang sanh thì nhãn xứ không đang sanh cho người ấy nhưng nhĩ xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; Ðối với tất cả người đang tử biệt, những người vô nhãn vô nhĩ đang sanh, thì nhãn xứ không đang sanh và nhĩ xứ cũng không đang sanh cho họ”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô nhĩ hữu nhãn đang sanh thì nhĩ xứ không đang sanh cho người ấy nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhĩ vô nhãn đang sanh thì nhĩ xứ không đang sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh cho họ”.
[320] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì tỷ xứ không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô nhãn hữu tỷ đang sanh thì nhãn xứ không đang sanh cho người ấy nhưng tỷ xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn vô tỷ đang sanh, thì nhãn xứ không đang sanh và tỷ xứ cũng không đang sanh cho họ”.
– HAY LÀ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô tỷ hữu nhãn đang sanh thì tỷ xứ không đang sanh cho người ấy nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt, người vô tỷ vô nhãn đang sanh, thì tỷ xứ không đang sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh cho họ”.
[321] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì sắc xứ không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô nhãn hữu sắc đang sanh thì nhãn xứ không đang sanh cho người ấy nhưng sắc xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; đối với tất cả người đang tử biệt, người vô sắc đang sanh thì nhãn xứ khôngđang sanh thi nhãn xứ không đang sanh và sắc xứ cũng không đang sanh cho họ”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[322] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì ý xứ không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô nhãn hữu tâm đang sanh thì nhãn xứ không đang sanh cho người ấy nhưng ý xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt, người vô tâm đang sanh, thì nhãn xứ không đang sanh và ý xứ cũng không đang sanh cho người ấy”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[323] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì pháp xứ không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô nhãn đang sanh thì nhãn xứ không đang sanh cho người ấy nhưng pháp xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt thì nhãn xứ không đang sanh và pháp xứ cũng không đang sanh cho người ấy”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[324] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào thì sắc xứ không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô tỷ hữu sắc đang sanh thì tỷ xứ không đang sanh cho người ấy nhưng sắc xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt, người vô sắc đang sanh, thì tỷ xứ không đang sanh và sắc xứ cũng không đang sanh cho Họ”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[325] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào thì ý xứ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô tỷ hữu tâm đang sanh thì tỷ xứ không đang sanh cho người ấy nhưng ý xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt, người vô tâm đang sanh thì tỷ xứ không đang sanh và ý xứ cũng không đang sanh cho họ”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[326] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào thì pháp xứ không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô tỷ đang sanh thì tỷ xứ không đang sanh cho người ấy nhưng pháp xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt thì tỷ xứ không đang sanh và pháp xứ cũng đang sanh cho họ”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[327] Sắc xứ không đang sanh cho người nào thì ý xứ không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô sắc đang sanh thì sắc xứ không đang sanh cho người ấy nhưng ý xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt thì sắc xứ không đang sanh và ý xứ cũng không đang sanh cho họ”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô tâm đang sanh thì ý xứ không đang sanh cho người ấy nhưng sắc xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt thì ý xứ không đang sanh và sắc xứ cũng không đang sanh cho họ”.
[328] Sắc xứ không đang sanh cho người nào thì pháp xứ không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô sắc đang sanh thì sắc xứ không đang sanh cho người ấy nhưng pháp xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt thì sắc xứ không đang sanh và pháp xứ cũng không đang sanh cho họ”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[329] Ý xứ không đang sanh cho người nào thì pháp xứ không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô tâm đang sanh thì ý xứ không đang sanh cho người ấy nhưng pháp xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt thì ý xứ không đang sanh và pháp xứ cũng không đang sanh cho họ”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[330] Nhãn xứ không đang sanh ở cõi nào thì nhĩ xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[331] Nhãn xứ không đang sanh ở cõi nào thì tỷ xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO, THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Cõi sắc giới, ở cõi ấy Tỷ xứ không đang sanh nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh ở cõi ấy; cõi vô tưởng, cõi vô sắc, ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[332] Nhãn xứ không đang sanh ở cõi nào thì sắc xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Cõi vô tưởng, ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng sắc xứ chẳng phải không đang sanh ở cõi ấy; cõi vô sắc, cõi ấy nhãn xứ không đang sanh và sắc xứ cũng không đang sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[333] Nhãn xứ không đang sanh ở cõi nào thì ý xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Cõi vô sắc, ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng ý xứ chẳng phải không đang sanh ở cõi ấy; cõi vô tưởng, ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh và ý xứ cũng không đang sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[334] Nhãn xứ không đang sanh ở cõi nào thì pháp xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Ðang sanh!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[335] Tỷ xứ không đang sanh ở cõi nào thì sắc xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Sắc giới, ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh, nhưng sắc xứ chẳng phải không đang sanh ở cõi ấy; cõi vô sắc, ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh và sắc xứ cũng không đang sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[336] Tỷ xứ không đang sanh ở cõi nào thì ý xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Sắc giới, vô sắc giới, ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh, mà ý xứ chẳng phải là không đang sanh ở cõi ấy; cõi vô tưởng, ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh và ý xứ cũng không đang sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[337] Tỷ xứ không đang sanh ở cõi nào thì pháp xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Ðang sanh!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[338] Sắc xứ không đang sanh ở cõi nào thì ý xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Ðang sanh!”
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðang sanh!”
[339] Sắc xứ không đang sanh ở cõi nào thì pháp xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Ðang sanh!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[340] Ý xứ không đang sanh ở cõi nào thì pháp xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Ðang sanh!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[341] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người vô nhãn hữu nhĩ đang sanh thì nhãn xứ không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng nhĩ xứ chẳng phải là không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn vô nhĩ đang sanh thì nhãn xứ không đang sanh và nhĩ xứ cũng không đang sanh cho người ấy ở cõi ấyï”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô nhĩ hữu nhãn đang sanh thì nhĩ xứ không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy, nhưng nhãn xứ chẳng phải là không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhĩ vô nhãn đang sanh thì nhĩ xứ không đang sanh và nhản xứ cũng không đang sanh cho người ấy ở cõi ấyï”
… Ðoạn trùng …
[342] Ý xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người vô tâm đang sanh thì ý xứ không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng pháp xứ chẳng phải là không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt thì ý xứ không đang sanh và pháp xứ cũng không đang sanh cho người ấy ở cõi ấyï”
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[343] Nhãn xứ từng sanh cho người nào thì nhĩ xứ từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[344] Nhãn xứ từng sanh cho người nào thì tỷ xứ … trùng … sắc xứ … ý xứ … pháp xứ từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!” … trùng …
[345] Tỷ xứ … trùng … sắc xứ … ý xứ từng sanh cho người nào thì pháp xứ từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[346] Nhãn xứ từng sanh ở cõi nào… trùng…
(trong phần luận cõi, luận về hiện tại, cũng như về quá khứ, vị lai quá khứ hiện tại, vị lai hiện tại, vị lai quá khứ thì tất cả điều giống nhau, chỉ cần thay tên là đang sanh hay đã từng sanh vậy thôi).
[347] Nhãn xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[348] Nhãn xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Sắc giới, đối với người ấy ở cõi ấy thì nhãn xứ từng sanh nhưng tỷ xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Dục giới, đối với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ từng sanh và tỷ xứ cũng từng sanh”
– HAY LÀ TỶ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[349] Nhãn xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng sanh nhưng nhãn xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với cõi ngũ uẩn, người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng sanh và nhãn xứ cũng từng sanh”
[350] Nhãn xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với cõi vô sắc người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh nhưng nhãn xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với cõi ngũ uẩn, người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh và nhãn xứ cũng từng sanh”.
[351] Nhãn xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với cõi vô tưởng, cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy, pháp xứ từng sanh nhưng nhãn xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với cõi ngũ uẩn thì người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh và nhãn xứ cũng từng sanh”.
[352] Tỷ xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với cõi sắc giới người ấy cõi ấy thì sắc xứ từng sanh nhưng tỷ xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với cõi dục giới, người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng sanh và tỷ xứ cũng từng sanh”.
[353] Tỷ xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, người ấy ở cõi ấy thì ý xứ từng sanh nhưng tỷ xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với cõi dục giới thì ý xứ từng sanh và tỷ xứ cũng từng sanh”.
[354] Tỷ xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với sắc giới, vô sắc giới, pháp xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng tỷ xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với dục giới, người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh và tỷ xứ cũng từng sanh”.
[355] Sắc xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với cõi tưởng, người ấy cõi ấy sắc xứ từng sanh nhưng ý xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với cõi ngũ uẩn, người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng sanh và ý xứ cũng từng sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh nhưng sắc xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với cõi ngũ uẩn, người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh và sắc xứ cũng từng sanh”.
[356] Sắc xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh nhưng sắc xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với cõi ngũ uẩn, cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh và sắc xứ cũng từng sanh”.
[357] Ý xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh nhưng ý xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn, người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh và ý xứ cũng từng sanh”.
[358] Nhãn xứ không từng sanh cho người nào thì nhĩ xứ không từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!” (Tóm tắt)
[359] Ý xứ không từng sanh cho người nào thì pháp xứ không từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[360] Nhãn xứ không từng sanh ở cõi nào … (trùng lập) …
[361] Nhãn xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[362] Nhãn xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TỶ XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với cõi sắc giới, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh, nhưng nhãn xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với cõi tịnh cư, cõi vô tưởng, cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh và nhãn xứ cũng không từng sanh”.
[363] Nhãn xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không từng sanh nhưng sắc xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với cõi tịnh cư, cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không từng sanh và sắc xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[364] Nhãn xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không từng sanh nhưng ý xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với cõi tịnh cư, cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không từng sanh và ý xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[365] Nhãn xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với cõi vô tưởng, cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không từng sanh nhưng pháp xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; Ðối với cõi tịnh cư, nhãn xứ không từng sanh và pháp xứ cũng không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[366] Tỷ xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với cõi sắc giới, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh nhưng sắc xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với cõi tịnh cư, cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh và sắc xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[367] Tỷ xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh nhưng ý xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với cõi tịnh cư, cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh và ý xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[368] Tỷ xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, tỷ xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng pháp xứ, chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh và pháp xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[369] Sắc xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy sắc xứ không từng sanh nhưng ý xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy sắc xứ không từng sanh và ý xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy ý xứ không từng sanh nhưng sắc xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy ý xứ không từng sanh và sắc xứ cũng không từng sanh”.
[370] Sắc xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy sắc xứ không từng sanh nhưng pháp xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy sắc xứ không từng sanh và pháp xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[371] Ý xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy ý xứ không từng sanh nhưng pháp xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy ý xứ không từng sanh và pháp xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[372] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào thì nhĩ xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[373] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào thì tỷ xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Người mà sẽ sanh lên cõi sắc giới rồi viên tịch (Parinibbāyissanti) thì nhãn xứ sẽ sanh cho người ấy nhưng tỷ xứ sẽ không sanh cho người ấy nữa; đối với những hạng khác thì nhãn xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng sẽ sanh cho họ”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[374] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào thì sắc xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
(Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào thì ý xứ và pháp xứ đều sẽ sanh cho người ấy. Hai phần này cũng giống nhau).
[375] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, pháp xứ sẽ sanh cho người ấy nhưng sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy nữa; đối với những hạng khác thì pháp xứ sẽ sanh và nhãn xứ cũng sẽ sanh cho họ”.
[376] Tỷ xứ sẽ sanh cho người nào thì sắc xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Người mà sẽ sanh lên cõi sắc giới rồi viên tịch, sắc xứ sẽ sanh cho người ấy nhưng tỷ xứ sẽ không sanh cho người ấy nữa; đối với những hạng khác thì sắc xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng sẽ sanh cho họ”.
[377] Tỷ xứ sẽ sanh cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Người mà sẽ sanh lên cõi sắc giới, cõi vô sắc rồi viên tịch, pháp xứ sẽ sanh cho người ấy nhưng tỷ xứ sẽ không sanh cho người ấy; đối với những hạng khác thì pháp xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng sẽ sanhï”.
[377] Sắc xứ sẽ sanh cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, pháp xứ sẽ sanh cho người ấy nhưng sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy; đối với các hạng khác thì pháp xứ sẽ sanh và sắc xứ cũng sẽ sanh cho họ”.
[379] Ý xứ sẽ sanh cho người nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[380] Nhãn xứ sẽ sanh ở cõi nào … trùng …
[381] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[382] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người ở cõi sắc giới, thì nhãn xứ sẽ sanh, nhưng tỷ xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người ở cõi dục giới, thì nhãn xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[383] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người ở cõi vô tưởng, thì sắc xứ sẽ sanh nhưng nhãn xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người ở cõi ngũ uẩn, thì sắc xứ sẽ sanh và nhãn xứ cũng sẽ sanh”.
[384] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người ở cõi vô sắc, thì ý xứ sẽ sanh nhưng nhãn xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người ở cõi ngũ uẩn, thì ý xứ sẽ sanh và nhãn xứ cũng sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[385] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người ở cõi vô tưởng, cõi vô sắc, thì pháp xứ sẽ sanh nhưng nhãn xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người ở cõi ngũ uẩn, thì pháp xứ sẽ sanh và nhãn xứ cũng sẽ sanh”.
[386] Tỷ xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người ở cõi sắc giới, thì sắc xứ sẽ sanh nhưng tỷ xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người ở cõi dục giới, thì sắc xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng sẽ sanh”.
[387] Tỷ xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người ở cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, thì pháp xứ sẽ sanh, nhưng tỷ xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người ở cõi dục giới, thì pháp xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng sẽ sanh”.
[388] Sắc xứ sẽ sanh cho người nào, ở cõi nào thì ý xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người ở cõi vô tưởng, thì sắc xứ sẽ sanh nhưng ý xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người ở cõi ngũ uẩn, thì sắc xứ sẽ sanh và ý xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người ở cõi vô sắc, thì ý xứ sẽ sanh, nhưng sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người ở cõi ngũ uẩn, thì ý xứ sẽ sanh và sắc xứ cũng sẽ sanh”.
[389] Sắc xứ sẽ sanh cho người nào, ở cõi nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người ở cõi vô sắc, thì pháp xứ sẽ sanh, nhưng sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người ở cõi ngũ uẩn, cõi vô tưởng, thì pháp xứ sẽ sanh và sắc xứ cũng sẽ sanh”.
[390] Ý xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người ở cõi vô tưởng, thì pháp xứ sẽ sanh, nhưng ý xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người ở cõi tứ uẩn, cõi ngũ uẩn, thì pháp xứ sẽ sanh và ý xứ cũng sẽ sanh”.
[391] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào thì nhĩ xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[392] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào thì tỷ xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Người mà sẽ sanh lên cõi sắc giới rồi viên tịch, tỷ xứ sẽ không sanh cho người ấy nhưng nhãn xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy; đối với người kiếp chót, và người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc, rồi viên tịch, tỷ xứ sẽ không sanh và nhãn xứ cũng sẽ không sanh cho họ”.
[393] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào thì sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[394] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào thì ý xứ… trùng… pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, nhãn xứ sẽ không sanh cho người ấy nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy; đối với người kiếp chót, thì nhãn xứ sẽ không sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh cho họ”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[395] Tỷ xứ sẽ không sanh cho người nào thì sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Người mà sẽ sanh lên cõi sắc giới rồi viên tịch, đối với người ấy tỷ xứ sẽ không sanh nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy; còn đối với người kiếp chót và người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch thì tỷ xứ sẽ không sanh và sắc xứ cũng sẽ không sanh cho họ”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[396] Tỷ xứ sẽ không sanh cho người nào thì ý xứ… trùng… pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Người mà sẽ sanh lên cõi sắc giới cõi vô sắc giới rồi viên tịch, đối với người ấy tỷ xứ sẽ không sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho họ; còn đối với người kiếp chót thì tỷ xứ sẽ không sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh cho họ”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[397] Sắc xứ sẽ không sanh cho người nào thì ý xứ… trùng… pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, đối với người ấy sắc xứ sẽ không sanh, nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy; Ðối với người kiếp chót thì sắc xứ sẽ không sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh cho họ”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[398] Ý xứ sẽ không sanh cho người nào thì pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[399] Nhãn xứ sẽ không sanh cho cõi nào … trùng …
[400] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[401] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người ở cõi sắc giới, thì tỷ xứ sẽ không sanh, nhưng nhãn xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người kiếp chót trong cõi ngũ uẩn, đối với người ở cõi vô tưởng, cõi vô sắc, thì tỷ xứ sẽ không sanh và nhãn xứ cũng sẽ không sanh”.
[402] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người ở cõi vô tưởng, thì nhãn xứ sẽ không sanh, nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người kiếp chót cõi ngũ uẩn, đối với cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không sanh và sắc xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[403] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người ở cõi vô sắc, thì nhãn xứ sẽ không sanh, nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với người kiếp chót, đối với người cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không sanh và ý xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[404] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, thì nhãn xứ sẽ không sanh, nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người kiếp chót, người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[405] Tỷ xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người ở cõi sắc giới, thì tỷ xứ sẽ không sanh, nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với người kiếp chót cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không sanh và sắc xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[406] Tỷ xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không sanh nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với người kiếp chót, người cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không sanh và ý xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[407] Tỷ xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không sanh, nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người kiếp chót, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[408] Sắc xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô sắc, người ấy cõi ấy sắc xứ sẽ không sanh, nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với người kiếp chót, người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không sanh và ý xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người kiếp chót, người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh và sắc xứ cũng sẽ không sanh”.
[409] Sắc xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không sanh, nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người kiếp chót, người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[410] Ý xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người kiếp chót, người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[411] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì nhĩ xứ từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, các người ấy ù nhĩ xứ từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng phải đang sanh cho họ; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì nhĩ xứ từng sanh cho họ và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[412] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì tỷ xứ … trùng … sắc xứ … ý xứ … pháp xứ từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, các người ấy pháp xứ từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng phải đang sanh cho họ; đối với người hữu nhãn đang sanh thì pháp xứ từng sanh cho họ và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[413] Tỷ xứ đang sanh cho người nào thì sắc xứ… trùng… ý xứ… pháp xứ từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tỷ đang sanh, các người ấy pháp xứ từng sanh nhưng tỷ xứ chẳng phải đang sanh cho họ; còn đối với người hữu tỷ đang sanh thì pháp xứ từng sanh cho họ và tỷ xứ cũng đang sanh”.
[414] Sắc xứ đang sanh cho người nào thì ý xứ… trùng… pháp xứ từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô sắc đang sanh, các người ấy pháp xứ từng sanh nhưng sắc xứ chẳng đang sanh cho họ; còn đối với người hữu sắc đang sanh thì pháp xứ từng sanh cho họ và sắc xứ cũng đang sanh”.
[415] Ý xứ đang sanh cho người nào thì pháp xứ từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Tất cả người đang tử biệt, người vô tâm đang sanh các người ấy pháp xứ từng sanh nhưng ý xứ chẳng đang sanh cho họ; còn đối với người hữu tâm đang sanh thì pháp xứ từng sanh cho họ và ý xứ cũng đang sanh”.
[416] Nhãn xứ đang sanh ở cõi nào … trùng …
[417] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư (Suddhāvāsa), người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh nhưng nhĩ xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với hạng người hữu nhãn ngoài ra mà đang sanh thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh và nhĩ xứ cũng từng sanh”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy, còn đối với người hữu nhãn đang sanh, thì người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ từng sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[418] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi sắc giới, người ấy ở cõi ấy, nhãn xứ đang sanh nhưng tỷ xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh cõi dục giới thì người ấy cõi ấy nhãn xứ đang sanh và tỷ xứ cũng từng sanh”.
– HAY LÀ TỶ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi dục giới, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng đang sanh cho họ; còn đối với người hữu nhãn đang sanh cõi dục giới thì người ấy cõi ấy tỷ xứ từng sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[419] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy, nhãn xứ đang sanh nhưng sắc xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn ngoài ra mà đang sanh thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh và sắc xứ cũng từng sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, người vô tưởng, thì người ấy ở cõi ấy, sắc xứ từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[420] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh nhưng ý xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn ngoài ra mà đang sanh thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh và ý xứ cũng từng sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, người vô sắc, thì người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[421] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh nhưng pháp xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn ngoài ra mà đang sanh thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh và pháp xứ cũng từng sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, thì người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu tỷ đang sanh thì người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng sanh và tỷ xứ cũng đang sanh”.
[423] Tỷ xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi dục giới, người vô tỷ đang sanh cõi dục giới, người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới, thì người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh nhưng tỷ xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu tỷ đang sanh, thì người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh và tỷ xứ cũng đang sanh”.
[424] Tỷ xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tỷ đang sanh, thì người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh nhưng tỷ xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu tỷ đang sanh thì người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh và tỷ xứ cũng đang sanh”.
[425] Sắc xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người đang sanh cõi vô tưởng, thì người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang sanh nhưng ý xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi ngũ uẩn ngoài ra, thì người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang sanh và ý xứ cũng từng sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, thì người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh nhưng sắc xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi ngũ uẩn thì người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh và sắc xứ cũng đang sanh”.
[426] Sắc xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang sanh nhưng pháp xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với người hữu sắc ngoài ra mà đang sanh thì người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang sanh và pháp xứ cũng từng sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô sắc đang sanh, người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh nhưng sắc xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu sắc đang sanh thì người ấy cõi ấy pháp xứ từng sanh và sắc xứ cũng đang sanh”.
[427] Ý xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy ý xứ đang sanh nhưng pháp xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu sắc ngoài ra mà đang sanh thì người ấy ở cõi ấy ý xứ đang sanh và pháp xứ cũng từng sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tâm đang sanh, người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh nhưng ý xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu tâm đang sanh thì người ấy cõi ấy pháp xứ từng sanh và ý xứ cũng đang sanh”.
[428] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì nhĩ xứ không từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Từng sanh!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[429] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì tỷ xứ … trùng … sắc xứ … ý xứ … pháp xứ không từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Từng sanh!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[430] Tỷ xứ … trùng … sắc xứ … ý xứ không đang sanh cho người nào thì pháp xứ không từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Từng sanh!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[431] Nhãn xứ không đang sanh ở cõi nào … trùng …
[432] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng nhĩ xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh và nhĩ xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ không từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[433] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi dục giới, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng tỷ xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang tử biệt cõi sắc giới, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, thì người ấy cõi ấy nhãn xứ không đang sanh và tỷ xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ TỶ XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi sắc giới, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh, nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang rử biệt cõi sắc giới, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[434] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, người vô tưởng, thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng sắc xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người cõi vô sắc, thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh và sắc xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy sắc xứ không từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư, người cõi vô sắc, thì người ấy, ở cõi ấy sắc xứ không từng sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[435] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, người vô sắc, thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng ý xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh và ý xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy ý xứ không từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, thì người ấy, ở cõi ấy ý xứ không từng sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[436] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, thì người ấy cõi ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng pháp xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh và pháp xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy pháp xứ không từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi tịnh cư thì người ấy ở cõi ấy pháp xứ không từng sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[437] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt cõi dục giới, người vô tỷ đang sanh cõi dục giới, người cõi sắc giới, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh nhưng sắc xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư, người cõi vô sắc thì người ấy ở cõi ấy, tỷ xứ không đang sanh và sắc xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[438] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi dục giới, người vô tỷ đang sanh cõi dục giới, người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh nhưng ý xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng thì người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh và ý xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[439] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tỷ đang sanh, người ấy cõi ấy tỷ xứ không đang sanh, nhưng pháp xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư thì người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh và pháp xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
(1) Taṇhāsotaṃ đúng nghĩa là dòng sông ái, dịch chử Ái lưu. Trong tiếng Phạn, Sota có 2 nghĩa – một là lổ tai (nhỉ) – hai là dòng sông (Lưu), trong câu sotaṃ là sotāyatana? mới chơi chữ (đồng tự bất đồng nghĩa) đáp rằng: “taṇhāsotaṃ cũng là sotaṃ mà không phải là sotāyatana…“ ở đây cũng uyển chuyển cho hợp cách chơi chứ đồng tự bất đồng nghĩa, nên tạm dùng tiếng “ái nhĩ” dịch cho taṇhāsotaṃ để câu hỏi “nhĩ là nhĩ xứ?” thì đáp “ái nhĩ là nhĩ nhưng không phải là nhĩ xứ …”, taṇhāsotaṃ dịch là “ái lưu” mới đúng nghĩa, nếu nói “ái nhĩ” thì không có nghĩa chi! ND.
(1) Tiếng Phạn gandho có hai nghĩa: 1- hơi mùi (thối và thơm nói chung), 2- hương, mùi thơm gandha trong 12 loại āyatana là nghĩa mùi hơi (khí), đúng ra silagandho samādhigandhopaññāgandho phải dịch theo nghĩ hương thơm: giới hương, định hương, tuệ hương nhưng ở đây lại dịch là giới khí, định khí, tuệ khí là vì để lập luận vấn đáp cho hợp với câu: “Khí là khí xứ phải chăng?” giới, định, tuệ là khí (mùi thơm giả dụ) nhưng không phải là khí xứ (mùi thật).
(1) Người hữu nhãn vô nhĩ (sacakkhuka asotaka) tức là người khi tái sanh chỉ có thần kinh mắt mà không có thần kinh tai.
(2) Người vô tỷ (aghāmaka) tức là người lúc tái tục không có thần kinh mũi. Người hữu tỷ (saghānaka) là người có thần kinh mũi.
-ooOoo-