TRƯỞNG LÃO KỆ

NHÓM TÁM

229.

  1. “Không nên làm việc nhiều, nên tránh xa mọi người, không nên gắng sức. Là người năng nổ, bị tham đắm ở vị nếm, vị ấy bỏ bê mục đích, nguồn đem lại sự an lạc.
  2. Họ đã biết việc đảnh lễ và cúng dường ở các gia đình chỉ là ‘bùn lầy.’ Mũi tên mảnh mai thì khó rút ra, sự tôn vinh là khó từ bỏ đối với kẻ ti tiện.[14]
  3. Việc làm xấu xa của một người là không liên quan đến người khác, không nên tự mình thực hiện việc ấy, bởi vì loài người là thân quyến của nghiệp.
  4. Không do lời nói của người khác mà trở thành kẻ trộm, không do lời nói của người khác mà trở thành bậc hiền trí, bản thân nhận biết con người thế nào, chư Thiên cũng đã biết con người thế ấy.
  5. Và những người khác không nhận thức được là chúng ta đang đến gần cái chết ở đời sống này. Còn những người nào nhận thức được điều ấy, nhờ thế các sự tranh chấp được chấm dứt.[15]
  6. Người có trí tuệ cũng vẫn sống mặc dầu có sự cạn kiệt của tài sản, nhưng do sự không đạt được trí tuệ, mặc dầu là người có của cải cũng không phải đang sống.
  7. Nghe được tất cả nhờ vào tai, nhìn được tất cả nhờ vào mắt, người thông minh không nên bỏ qua điều đã được thấy, được nghe.
  8. Người có mắt nên là như kẻ mù, người có tai nên là như kẻ điếc, người có trí tuệ nên là như kẻ câm, người có sức mạnh tựa như kẻ yếu đuối, và khi có sự việc đã được sanh khởi, hãy nằm xuống ngủ như kẻ chết.”

Đại đức trưởng lão Mahākaccāyana đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Mahākaccāyana.

230.

  1. “Không nổi giận, không thù hằn, không xảo trá, sự nói đâm thọc là không có, hẳn nhiên vị tỳ khưu có đức tính thế ấy, sau khi qua đời như vậy không bị sầu muộn.
  2. Không nổi giận, không thù hằn, không xảo trá, sự nói đâm thọc là không có, vị tỳ khưu luôn có các giác quan được bảo vệ, sau khi qua đời như vậy không bị sầu muộn.
  3. Không nổi giận, không thù hằn, không xảo trá, sự nói đâm thọc là không có, vị tỳ khưu ấy có giới tốt đẹp, sau khi qua đời như vậy không bị sầu muộn.
  4. Không nổi giận, không thù hằn, không xảo trá, sự nói đâm thọc là không có, vị tỳ khưu ấy có bạn bè tốt đẹp, sau khi qua đời như vậy không bị sầu muộn.
  5. Không nổi giận, không thù hằn, không xảo trá, sự nói đâm thọc là không có, vị tỳ khưu ấy có trí tuệ tốt đẹp, sau khi qua đời như vậy không bị sầu muộn.
  6. Đối với vị nào niềm tin ở đức Như Lai là không bị dao động, đã khéo được thiết lập, và đối với vị nào có giới tốt đẹp, được ưa thích bởi các bậc Thánh, được ca ngợi, …
  7. … đối với vị nào có sự tịnh tín ở Hội Chúng, và sự nhận thức có trạng thái ngay thẳng, họ đã nói về vị ấy rằng: ‘Không bị nghèo khó,’ mạng sống của vị ấy không phải là trống rỗng.
  8. Do đó, người thông minh, trong lúc ghi nhớ lời giáo huấn của chư Phật, nên gắn bó với đức tin, giới, sự tịnh tín, và sự nhận thức về Giáo Pháp.”

Đại đức trưởng lão Sirimitta đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Sirimitta.

231.

  1. “Vào lúc tôi đã nhìn thấy đấng Đạo Sư, bậc không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu lần đầu tiên, do đó đã có sự chấn động ở tôi sau khi nhìn thấy đấng Tối Thượng Nhân.
  2. Người nào cúi lạy vận may đã đi đến với các bàn tay và các bàn chân, sau khi làm hoan hỷ bậc Đạo Sư như thế này, người ấy sao có thể bỏ qua cơ hội?
  3. Khi ấy, tôi đã lìa bỏ con trai và người vợ, tài sản và lúa gạo. Sau khi nhờ người cắt tóc râu, tôi đã xuất gia sống đời không nhà.
  4. Được đầy đủ về việc học tập và sự nuôi mạng, đã khéo được thu thúc ở các giác quan, trong khi kính lễ đấng Toàn Giác, tôi đã sống, không bị đánh bại.
  5. Sau đó, tôi đã có ước nguyện, tôi đã mong mỏi ở trong tâm rằng: ‘Khi mũi tên tham ái chưa được lấy ra, ta không nên ngồi xuống cho dầu chỉ phút chốc.’
  6. Trong lúc tôi đây đang sống như vậy, hãy nhìn xem sự tinh tấn và ra sức của tôi. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.
  7. Có Thiên nhãn được trong sạch, tôi biết được đời sống trong thời quá khứ. Tôi là vị A-la-hán, bậc xứng đáng cúng dường, đã được giải thoát, không còn mầm mống tái sanh.
  8. Sau đó, vào lúc tàn đêm cho đến khi mọc lên của mặt trời, sau khi làm khô héo tất cả tham ái, tôi đã ngồi xuống với thế ngồi kiết già.”

Đại đức trưởng lão Mahāpanthaka đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Mahāpanthaka.

*****

TÓM LƯỢC NHÓM NÀY

“Trưởng lão Mahākaccāyana, vị Sirimitta, vị Mahāpanthaka. Ở nhóm tám này, có hai mươi bốn câu kệ.”

Nhóm Tám được chấm dứt.

–ooOoo–

9. NHÓM CHÍN

232.

  1. “Khi nào bậc sáng trí (nhận thức rằng) ‘già và chết là khổ,’ là điều mà những kẻ phàm nhân ngu si bị vướng mắc, sau khi biết toàn diện về khổ, rồi tham thiền, thật sự có niệm, thì không còn tìm thấy sự thích thú nào tối thắng hơn điều ấy.
  2. Khi nào (vị ấy) đã trừ tuyệt sự đem lại khổ đau, sự quyến luyến, sự đem lại khổ đau do sự tích lũy các điều chướng ngại, tham ái, rồi tham thiền, thật sự có niệm, thì không còn tìm thấy sự thích thú nào tối thắng hơn điều ấy.
  3. Khi nào nhìn thấy bằng tuệ lối đi gồm tám chi phần, tốt đẹp, Đạo Lộ tối thượng, có sự rửa sạch tất cả phiền não, rồi tham thiền, thật sự có niệm, thì không còn tìm thấy sự thích thú nào tối thắng hơn điều ấy.
  4. Khi nào (vị ấy) phát triển vị thế không sầu muộn, xa lìa luyến ái, không bị tạo tác, an tịnh, có sự rửa sạch tất cả phiền não, có sự cắt đứt việc trói buộc của những điều ràng buộc, thì không còn tìm thấy sự thích thú nào tối thắng hơn điều ấy.
  5. Khi nào tiếng sấm của đám mây đen gào thét ở bầu trời, những dòng nước dầy đặc khắp mọi nơi ở đường bay của những con chim, và vị tỳ khưu đi đến hang núi, rồi tham thiền, thì không còn tìm thấy sự thích thú nào tối thắng hơn điều ấy.
  6. Khi nào chính vị Sa-môn ngồi xuống ở bãi đất dọc những dòng sông, được chen chúc bông hoa, với những chùm hoa rừng nhiều màu sắc, rồi tham thiền, thì không còn tìm thấy sự thích thú nào tối thắng hơn điều ấy.
  7. Khi nào vào lúc nửa đêm, ở cánh rừng thanh vắng, khi trời đang đổ mưa, những con thú có răng nanh gầm rống, và vị tỳ khưu vẫn đi đến hang núi, rồi tham thiền, thì không còn tìm thấy sự thích thú nào tối thắng hơn điều ấy.
  8. Khi nào (vị ấy) đã chặn đứng các sự suy nghĩ của bản thân, đã nương tựa vào khe núi, bên trong ngọn núi, có sự buồn bực đã được xa lìa, có sự cứng cỏi của tâm đã ra đi, rồi tham thiền, thì không còn tìm thấy sự thích thú nào tối thắng hơn điều ấy.
  9. Khi nào có sự an lạc, có sự tiêu tan của sự nhiễm ô cứng cỏi và sầu muộn, không còn bị cản trở, không còn tham ái, hết bị mũi tên, đã thật sự thủ tiêu tất cả các lậu hoặc, rồi tham thiền, thì không còn tìm thấy sự thích thú nào tối thắng hơn điều ấy.”

Đại đức trưởng lão Bhūta đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Bhūta.

*****

TÓM LƯỢC NHÓM NÀY

“Vị trưởng lão Bhūta đã được thấy như vậy, một mình, như sừng của loài tê giác; ở nhóm chín cũng chỉ có chín câu kệ này.”

Nhóm Chín được chấm dứt.

–ooOoo–

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Kệ“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Kệ” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *