2. Thứ Hai tụng Ratanasutta

2. Ratanasutta

25. Paṇidhānato paṭṭhāya Tathāgatassa dasa pāramiyo dasa upapāramiyo dasa paramatthapāramiyo’ti samatiṃsa pāramiyo, pañca mahāpariccāge, lokatthacariyaṃ ñātatthacariyaṃ buddhatthacariyanti tisso cariyāyo, pacchimabhave gabbhavokkantiṃ, jātiṃ, abhinikkhamanaṃ, padhānacariyaṃ, bodhipallaṅke māravijayaṃ, sabbaññutaññāṇappativedhaṃ, dhammacakkappavattanaṃ, navalokuttaradhamme’ti sabbepime buddhaguṇe āvajjetvā Vesāliyā tīsu pākārantaresu tiyāmarattiṃ parittaṃ karonto āyasmā Ānandatthero viya kāruññacittaṃ upaṭṭhapetvā — 

26. Koṭīsatasahassesu, cakkavāḷesu devatā; yassānaṃ paṭiggaṇhanti, yañca Vesāliyā pure. 

27. Rogāmanussa-dubbhikkha-sambhūtaṃ tividhaṃ bhayaṃ; khippamantaradhāpesi,
parittaṃ taṃ bhaṇāmahe. 

28. Yānīdha bhūtāni samāgatāni, bhummāni vā yāni va antalikkhe; sabbeva bhūtā sumanā bhavantu, athopi sakkacca suṇantu bhāsitaṃ.

29. Tasmā hi bhūtā nisāmetha sabbe, mettaṃ karotha mānusiyā pajāya; divā ca ratto ca haranti ye baliṃ, tasmā hi ne rakkhatha appamattā.

30. Yaṃ kiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā, saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ; na no samaṃ atthi tathāgatena, idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ; etena saccena suvatthi hotu.

31. Khayaṃ virāgaṃ amataṃ paṇītaṃ, yadajjhagā sakyamunī samāhito; na tena dhammena samatthi kiñci, idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ; etena saccena suvatthi hotu.

32. Yaṃ buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ, samādhimānantarikaññamāhu; samādhinā tena samo na vijjati, idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ; etena saccena suvatthi hotu.

33. Ye puggalā aṭṭha sataṃ pasatthā, cattāri etāni yugāni honti; te dakkhiṇeyyā sugatassa sāvakā, etesu dinnāni mahapphalāni. Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu.

34. Ye suppayuttā manasā daḷhena, nikkāmino gotamasāsanamhi; te pattipattā amataṃ vigayha, laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā. Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu.

35. Yathindakhīlo pathavissito siyā, catubbhi vātehi asampakampiyo; tathūpamaṃ sappurisaṃ vadāmi, yo ariyasaccāni avecca passati. Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu.

36. Ye ariyasaccāni vibhāvayanti, gambhīrapaññena sudesitāni; kiñcāpi te honti bhusaṃ pamattā, na te bhavaṃ aṭṭhamamādiyanti. Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu.

37. Sahāvassa dassanasampadāya, tayassu dhammā jahitā bhavanti; sakkāyadiṭṭhī vicikicchitañca, sīlabbataṃ vāpi yadatthi kiñci.

38. Catūhapāyehi ca vippamutto, chaccābhiṭhānāni abhabba kātuṃ; idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu.

39. Kiñcāpi so kamma karoti pāpakaṃ, kāyena vācā uda cetasā vā; abhabba so tassa paṭicchadāya, abhabbatā diṭṭhapadassa vuttā. Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu.

40. Vanappagumbe yatha phussitagge, gimhānamāse paṭhamasmiṃ gimhe; tathūpamaṃ dhammavaraṃ adesayi, nibbānagāmiṃ paramaṃ hitāya. Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu.

41. Varo varaññū varado varāharo, anuttaro dhammavaraṃ adesayi; idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu.

42. Khīṇaṃ purāṇaṃ nava natthi sambhavaṃ, virattacittāyatike bhavasmiṃ; te khīṇabījā avirūḷhichandā, nibbanti dhīrā yathāyaṃ padīpo. Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu.

43. Yānīdha bhūtāni samāgatāni, bhummāni vā yāni va antalikkhe; tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ, buddhaṃ namassāma suvatthi hotu. 

44. Yānīdha bhūtāni samāgatāni, bhummāni vā yāni va antalikkhe; tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ, dhammaṃ namassāma suvatthi hotu.

45. Yānīdha bhūtāni samāgatāni, bhummāni vā yāni va antalikkhe; tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ, saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu.

Ratanasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

2. Kinh Châu Báu 

25. (Chúng ta nên) phát khởi bi tâm như tôn giả Ānanda, đã suy tưởng đến các Phật ân từ khi mới phát nguyện thành đức Như Lai, là tu ba mươi pháp Pāramī, gồm mười pháp pāramī bậc hạ, mười pháp pāramī bậc trung và mười pháp pāramī bậc thượng; năm pháp đại thí; ba pháp hạnh gồm thế gian lợi ích hạnh, quyến thuộc lợi ích hạnh và giác ngộ lợi ích hạnh; sự giáng sanh vào lòng mẹ trong kiếp chót; sự đản sanh; sự xuất gia; sự khổ hạnh; sự chiến thắng Ma vương tại bồ đoàn dưới cội bồ-đề; sự chứng đạt Toàn tri trí; sự chuyển vận Pháp luân; và chín Siêu thế pháp; khi đang tụng đọc kinh Paritta trọn đủ ba canh đêm tại ba vòng thành Vesāli. 

26 – 27. Chư thiên khắp mọi nơi

Trong triệu triệu thế gian, 

Đều nhận được oai lực 

Từ kinh Paritta, 

Khiến ba sự sợ hãi:

Bệnh, phi nhân, nạn đói

Trong thành Vesālī

Được tiêu tan nhanh chóng.

Do vậy, hỡi chư hiền 

Cùng tụng đọc Kinh này. 

28. Phàm ở tại đời này,
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất này,
Hoặc chính giữa hư không,
Mong rằng mọi sanh linh,
Ðược đẹp ý vui lòng,
Vậy, hãy nên cẩn thận,
Lắng nghe lời dạy này.

29. Do vậy các sanh linh,
Tất cả hãy chú tâm,
Khởi lên lòng từ mẫn,
Ðối với thảy mọi loài,
Ban ngày và ban đêm,
Họ đem vật cúng dường,
Do vậy không phóng dật,
Hãy giúp hộ trì họ.

30. Phàm có tài sản gì,
Ðời này hay đời sau,
Hay ở tại thiên giới,
Có châu báu thù thắng,
Không gì sánh bằng được,
Với Như Lai Thiện Thệ,
Như vậy, nơi Ðức Phật,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

31. Ðoạn diệt và ly tham,
Bất tử và thù diệu.
Phật Thích-ca Mâu-ni,
Chứng Pháp ấy trong thiền,
Không gì sánh bằng được,
Với Pháp thù diệu ấy.
Như vậy, nơi Chánh Pháp,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

32. Phật, Thế Tôn thù thắng,
Nói lên lời tán thán,
Pháp thù diệu trong sạch,
Liên tục không gián đoạn,
Không gì sánh bằng được,
Pháp thiền vi diệu ấy.
Như vậy, nơi Chánh Pháp,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

33. Tám vị bốn đôi này,
Ðược bậc thiện tán thán.
Chúng đệ tử Thiện Thệ,
Xứng đáng được cúng dường.
Bố thí các vị ấy,
Ðược kết quả to lớn.
Như vậy, nơi tăng chúng,
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

34. Các vị lòng ít dục,
Với ý thật kiên trì,
Khéo liên hệ mật thiết,
Lời dạy Gô-ta-ma!
Họ đạt được quả vị,
Họ thể nhập bất tử,
Họ chứng đắc dễ dàng,
Hưởng thọ sự tịch tịnh,
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

35. Như cây trụ cột đá,
Khéo y tựa lòng đất.
Dầu có gió bốn phương,
Cũng không thể dao động.
Ta nói bậc Chơn nhân,
Giống như thí dụ này,
Vị thể nhập với tuệ,
Thấy được những Thánh đế,
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

36. Những vị khéo giải thích,
Những sự thật Thánh đế,
Những vị khéo thuyết giảng,
Với trí tuệ thâm sâu.
Dầu họ có hết sức,
Phóng dật không chế ngự,
Họ cũng không đến nỗi,
Sanh hữu lần thứ tám,
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

37. Vị ấy nhờ đầy đủ,
Với chánh kiến sáng suốt,
Do vậy có ba pháp,
Ðược hoàn toàn từ bỏ,
Thân kiến và nghi hoặc,
Giới cấm thủ cũng không,
Ðối với bốn đọa xứ,
Hoàn toàn được giải thoát.
Vị ấy không thể làm,
Sáu điều ác căn bản,
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

38. Dầu vị ấy có làm,
Ðiều gì ác đi nữa,
Với thân hay với lời,
Kể cả với tâm ý,
Vị ấy không có thể,
Che đậy việc làm ấy,
Việc ấy được nói rằng,
Không thể thấy ác đạo.
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

39. Ðẹp là những cây rừng,
Có bông hoa đầu ngọn,
Trong tháng hạ nóng bức,
Những ngày hạ đầu tiên,
Pháp thù thắng thuyết giảng,
Ðược ví dụ như vậy.
Pháp đưa đến Niết Bàn,
Pháp hạnh phúc tối thượng,
Như vậy, nơi Ðức Phật,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

40. Cao thượng biết cao thượng,
Cho đem lại cao thượng,
Bậc Vô thượng thuyết giảng,
Pháp cao thượng thù thắng,
Như vậy nơi đức Phật,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

41. Nghiệp cũ đã đoạn tận,
Nghiệp mới không tạo nên,
Với tâm tư từ bỏ,
Trong sanh hữu tương lai,
Các hột giống đoạn tận,
Ước muốn không tăng trưởng
Bậc trí chứng Niết Bàn,
Ví như ngọn đèn này,
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

42. Phàm ở tại đời này,
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất này,
Hoặc chính giữa hư không,
Hãy đảnh lễ Ðức Phật,
Ðã như thực đến đây,
Ðược loài Trời, loài Người,
Ðảnh lễ và cúng dường,
Mong rằng, với hạnh này,
Mọi loài được hạnh phúc.

43. Phàm ở tại nơi này,
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất này,
Hoặc chính giữa hư không,
Hãy đảnh lễ Chánh pháp,
Ðã như thực đến đây,
Ðược loài Trời, loài Người,;
Ðảnh lễ và cúng dường,
Mong rằng với hạnh này,
Mọi loài được hạnh phúc.

44. Phàm ở tại đời này,
Có sanh linh tụ hội
Hoặc trên cõi đất này,
Hoặc chính giữa hư không,
Hãy đảnh lễ chúng Tăng,
Ðảnh lễ và cúng dường,
Mong rằng với hạnh này,
Mọi loài được hạnh phúc. 

Kết thúc Kinh Châu Báu

-ooOoo-

 

TẢI SÁCH BẢN PDF TẠI ĐÂY:

PARITTA - Sư Thiện Hảo

 

* Bài viết được trích từ cuốn Paritta Pāḷi – Kinh Hộ Trì Pāḷi Việt – Trích lục bởi Bhikkhu Vāyāma – Tỳ Khưu Thiện Hảo

 

 

TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)

Các bài viết trong sách

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *