TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC TỰ QUAN SÁT – THE IMPORTANCE OF SELF-OBSERVATION

Tầm Quan Trọng Của Việc Tự Quan Sát – The Importance of Self-Observation

(The following has been translated and adapted from the fourth in a series of 44 Hindi discourses given by Mr. S. N. Goenka and broadcasted on Zee TV)

(Phần sau đây đã được dịch và chuyển thể từ phần thứ tư trong một loạt 44 bài giảng tiếng Hindi do ngài S.N. Goenka đưa ra và phát trên Zee TV)

When one comes to a Vipassana centre to learn to purify the mind with the technique of Vipassana, one has to stay at the centre for ten days, follow all the rules and regulations, and observe the five precepts scrupulously. The work starts by focussing one’s attention on one’s own respiration and developing awareness of the truth manifesting within oneself. It is a technique of self-observation, observation of the truth.

Khi đến trung tâm Vipassana để học cách thanh lọc tâm bằng kỹ thuật thiền Vipassana, thiền sinh phải ở lại trung tâm trong mười ngày, tuân thủ tất cả các quy tắc và điều lệ, cũng như tuân thủ nghiêm ngặt năm giới luật. Sự thực hành này bắt đầu bằng cách tập trung sự chú ý vào hơi thở của chính mình và phát triển nhận thức về sự thật hiển nhiên được biểu lộ bên trong bản thân mỗi người. Đó là một kỹ thuật tự quan sát, quan sát sự thật.

This entire body-aggregate-is it ‘I’? Is it ‘mine’? Is it ‘my soul’? One must understand this at the experiential level. Since childhood, one has been hearing that this body is mortal, impermanent, transitory. How can it be ‘I’? How can it be ‘mine’? How can it be ‘my soul’? One accepts it because there are layers of conditioning of this belief on the intellect. One has been hearing and accepting since childhood that the body is different, the soul is different. But is this the truth? We have to understand the truth at the level of direct experience.

Toàn bộ cơ thể này – kết hợp lại – có phải là ‘tôi’? Có phải là ‘của tôi’? Có phải là ‘linh hồn của tôi’? Chúng ta phải hiểu điều này ở cấp độ kinh nghiệm (thực chứng). Từ nhỏ, ta đã nghe nói rằng cơ thể này là có sinh tử, không thường hằng, là tạm thời. Làm thế nào nó có thể là ‘tôi’? Làm thế nào nó có thể là ‘của tôi’? Làm thế nào nó có thể là ‘linh hồn của tôi’? Người ta chấp nhận điều này bởi vì họ có những mức độ về niềm tin trong tâm trí. Người ta đã nghe và chấp nhận từ nhỏ rằng cơ thể là khác biệt, tâm hồn là khác biệt. Nhưng liệu đây có phải là sự thật? Chúng ta phải hiểu sự thật ở cấp độ kinh nghiệm trực tiếp.

Similarly one calls the mind-aggregate ‘I’ and ‘mine’. Is it really ‘I’? Is it really ‘mine’? Is it really ‘my soul’? On the basis of whatever we have heard since childhood we say, “This mind is impermanent, it is ephemeral, it is transient. How can this be ‘I’? How can this be ‘mine’? How can this be ‘my soul’?” This is a belief; it is not knowledge based on actual experience. 

Tương tự, ta gọi tâm trí – có phải là tập hợp ‘tôi’ và ‘của tôi’. Nó có thực sự là ‘tôi’? Nó có thực sự là ‘của tôi’? Nó có thực sự là ‘linh hồn của tôi’? Trên cơ sở của bất cứ điều gì chúng ta đã nghe từ thời thơ ấu, chúng ta nói, “Tâm là vô thường, nó sinh và diệt, nó là thoáng qua. Làm sao đây có thể là tôi? Làm sao đây có thể là ‘của tôi’? Làm sao đây có thể là ‘linh hồn của tôi’?” Đây là một dạng niềm tin; nó không phải là kiến thức dựa trên kinh nghiệm thực tế.

One has to gain full understanding of the body, the mind and mental states at the level of direct experience. Initially, one experiences gross truths. One starts with the experience of gross truths. As one develops in the field of direct experience, one gains knowledge of progressively subtler and subtler truths. If one keeps observing objectively, without reacting, layers of negativities are removed from the mind. 

Ta phải đạt được sự hiểu biết đầy đủ về thân tâm và các trạng thái tinh thần ở mức độ kinh nghiệm trực tiếp. Ban đầu, một người trải nghiệm về sự thật thô thiển. Bắt đầu với kinh nghiệm về sự thật thô thiển. Khi một người phát triển trong lĩnh vực kinh nghiệm trực tiếp, họ có được kiến thức về những sự thật vi tế hơn. Nếu một người tiếp tục quan sát một cách khách quan, không phản ứng, các lớp tiêu cực sẽ được loại bỏ khỏi tâm trí.

The eradication of these layers of negativities results in the experiencing of subtler truths. As more and more layers are removed, more and more subtle truths are experienced. Thus one progresses from observation of the grossest truths of the body to the stage where one experiences the subtlest truths of the body; one experiences the subtlest truths of this material world.

Việc diệt trừ các lớp tiêu cực này dẫn đến việc trải nghiệm các sự thật vi tế hơn. Càng nhiều lớp được loại bỏ, càng có nhiều sự thật vi tế được trải nghiệm. Do đó, khi một người tiến bộ từ việc quan sát các sự thật thô thiển nhất của cơ thể đến giai đoạn mà người đó trải nghiệm những sự thật vi tế nhất của cơ thể; người đó trải nghiệm những sự thật vi tế của thế giới vật chất này.

Similarly, one starts by observing the gross states of the mind. As one continues to observe subtler and subtler truths, the negativities of the mind are gradually removed. Thus, one observes the entire field of body and mind at the experiential level and finds that it is impermanent, ephemeral, changing every moment. 

Tương tự, một người bắt đầu bằng cách quan sát các trạng thái thô của tâm. Khi họ tiếp tục quan sát các sự thật vi tế và vi tế hơn, những tiêu cực của tâm trí dần dần được loại bỏ. Nhờ thế, người đó quan sát toàn bộ phạm vi của cơ thể và tâm ở cấp độ kinh nghiệm và thấy rằng nó là vô thường, phù du, thay đổi trong mọi khoảnh khắc.

This is not a mere belief; one understands this truth of impermanence at the level of direct experience, until one reaches a stage beyond mind and matter, which is the ultimate truth. One starts on this path with the base of truth, the truth that one experiences oneself. If one just imagines something that one has heard or read somewhere, or accepts something based on devotion or intellectualisation, one will not progress. One must examine the truth about oneself at the level of experience.

Đây không phải là một niềm tin đơn thuần; người ta chỉ có thể hiểu sự thật về vô thường này ở cấp độ kinh nghiệm trực tiếp, chỉ khi họ đạt đến một giai đoạn vượt ra ngoài tâm trí và vật chất, đó là sự thật tối thượng. Họ bắt đầu trên con đường này với nền tảng của sự thật, sự thật mà một người tự kinh nghiệm trên chính mình. Nếu một người chỉ tưởng tượng ra một cái gì đó từ những điều mà họ đã nghe hoặc đọc ở đâu đó, hoặc chấp nhận một cái gì đó dựa trên sự sùng bái hoặc phân tích lập luận, họ sẽ không tiến bộ. Chúng ta phải khảo sát sự thật về bản thân ở cấp độ kinh nghiệm (thực chứng).

One sits erect in a comfortable posture with eyes and mouth closed and starts the work of investigation of the truth of oneself. What truth is being revealed about this body and mind? The first truth that is revealed is the incoming and outgoing breath. One is not imagining it; one is actually experiencing it. The breath is coming in; the breath is going out. One remains aware of natural, normal respiration. It is difficult to concentrate the mind using the object of natural respiration, but it is important in order to progress on this path.

Chỉ cần chúng ta ngồi thẳng trong tư thế thoải mái với mắt nhắm, miệng đóng lại và bắt đầu công việc khảo sát sự thật về chính mình. Sự thật nào đang được biểu lộ về cơ thể và tâm trí này? Sự thật đầu tiên được biểu lộ là hơi thở đi vào và hơi thở đi ra. Chúng ta không tưởng tượng ra nó mà chúng ta thực sự trải nghiệm nó. Hơi thở đang đi vào; hơi thở đang đi ra. Chúng ta duy trì nhận thức về hơi thở tự nhiên, hơi thở bình thường. Thật khó để tập trung tâm trí bằng cách sử dụng đối tượng hơi thở tự nhiên, nhưng điều đó là yếu tố quan trọng để tiến bộ trên con đường này.

I know from my own experience and from the experience of many others that if one adds any word to the incoming and outgoing breath and recites it repeatedly, the mind will quickly become concentrated. One may add the name of a saint or a god or goddess or a brahma in whom one has devotion.

Tôi biết từ kinh nghiệm của bản thân và từ kinh nghiệm của nhiều người khác rằng nếu một người thêm bất kỳ từ nào vào hơi thở đến và đi và đọc nó nhiều lần, tâm trí sẽ nhanh chóng trở nên tập trung. Họ có thể thêm tên của một vị thánh hoặc một vị thần hoặc nữ thần hoặc một brahma (đấng tạo hóa trong Ấn giáo) mà họ có lòng sùng kính.

One is observing respiration and also mentally reciting the name. Or one may add any shape or form: the image of a saint or a god or goddess or a brahma in whom one has devotion. If one visualises that image with closed eyes and observes respiration at the same time, the mind gets concentrated very easily. There will be very little difficulty in concentrating the mind.

Họ quan sát hơi thở và đồng thời tụng niệm một cái tên. Hoặc người ta có thể thêm vào bất kỳ hình dạng hoặc hình thái: hình ảnh của một vị thánh hoặc một vị thần hoặc nữ thần hoặc một brahma mà họ có lòng sùng kính. Nếu một người hình dung ra hình ảnh đó với đôi mắt nhắm và quan sát hơi thở cùng lúc, tâm trí sẽ dễ dàng tập trung. Sẽ có rất ít khó khăn trong việc tập trung tâm trí.

But if one wants to progress on the path of Vipassana, no name or image or form should be added to the breath. Otherwise one will not be able to reach the goal of full liberation. If the ultimate goal is merely to concentrate the mind on some object, one should certainly add a word or shape or image. One can attain this goal easily and quickly

Nhưng nếu một người muốn tiến bộ trên con đường của Vipassana, không nên thêm tên, hình ảnh hoặc hình thái nào vào hơi thở. Nếu không, người đó sẽ không thể đạt được mục tiêu giải thoát hoàn toàn. Nếu mục đích cuối cùng chỉ đơn thuần là tập trung tâm trí vào một đối tượng nào đó, chắc hẳn người đó nên thêm một câu từ hoặc hình dạng hoặc hình ảnh. Và họ có thể đạt được mục tiêu này một cách dễ dàng và nhanh chóng.

But concentration of the mind is not the ultimate goal of Vipassana meditation; it is to free the mind from all negativities. If the mind becomes concentrated without eradication of its negativities, it is not of much benefit. To eradicate negativities, one must go to the depth of the mind where they originate and multiply and overpower the mind. 

Nhưng việc định tâm không phải là mục đích tối thượng của thiền Vipassana, mà là giải phóng tâm khỏi những bất tịnh. Nếu tâm được định nhưng không diệt trừ được những bất tịnh trong tâm, điều đó không thể đưa chúng ta đến giải thoát thực sự khỏi khổ đau. Để diệt trừ gốc rễ của tiêu cực, bất tịnh, chúng ta phải đi tới tầng sâu thẳm của tâm, nơi chúng hình thành phát triển và chế ngự tâm.

When the mind is overpowered by negativities one performs unwholesome actions. By developing and sharpening awareness at the depth of the mind, one can stop their generation and multiplication and uproot the stock of old accumulated negativities.

Khi tâm bị chế ngự bởi những tiêu cực, chúng ta thể hiện ra bên ngoài những hành động bất thiện. Bằng sự phát triển và làm sắc bén nhận thức từ sâu trong tâm, ta có thể ngăn chặn việc tạo ra và nhân lên gốc rễ tiêu cực, và nhổ bỏ những gốc rễ tiêu cực tích lũy từ lâu.

Concentration of the mind is helpful in this work. But it is the means, not the end. Let us not get diverted from the goal of meditation, which is to know the truth about oneself. When one adds any word to the breath, one finds that gradually the breath is forgotten and the word becomes predominant. By repeating that word again and again the mind becomes totally concentrated, totally immersed in it. 

Sự định tâm là hữu ích trong sự thực hành này. Nhưng nó là phương tiện, không phải là đích đến cuối cùng. Chúng ta không chuyển hướng khỏi mục tiêu của thiền, đó là hiểu biết sự thật về chính mình. Khi thêm bất cứ từ ngữ nào vào hơi thở, ta nhận ra rằng dần dần hơi thở bị quên đi và và từ ngữ chiếm ưu thế. Bằng cách lặp lại những từ đó nhiều lần, tâm sẽ hoàn toàn được định, hoàn toàn bị đắm chìm trong đó.

Or the mind may become concentrated by visualising an image and becoming immersed in it. One attains samādhi (concentration of the mind) but the work of observing the body and mind has stopped, the work of uprooting negativities has stopped.

Hoặc tâm có thể được định bằng cách tưởng tượng một hình ảnh và trở nên đắm chìm vào nó. Một người đạt tới samādhi (sự định tâm) nhưng việc quan sát cơ thể và tâm đã dừng lại, việc nhổ bỏ gốc rễ của tiêu cực đã dừng lại.

One has to understand the truth about the body and mind at the experiential level. For this, one observes whatever is happening at the present moment and progresses on the strength of this observation.

Chúng ta phải hiểu sự thật về cơ thể và tâm trí ở cấp độ thực nghiệm. Đối với điều này, một người phải quan sát bất cứ điều gì đang xảy ra tại thời điểm hiện tại và phát triển sức mạnh quan sát này.

The echo of Vipassana is sometimes heard in the words of the saints of India. A saint of India says-“Thāpiā na jāi, kītā na hoi, āpe āpi niranjanu soi. Thāpiā na jāi, kītā na hoi.” – do not impose any belief, word, or shape. Whatever is happening, just observe it. Do not add any self-created artificial truth, any imposed truth of your own. “Āpe āpi” – Whatever truth is revealed by itself, accept only that as the truth.

Tiếng vang của Vipassana đôi khi được nhắc đến trong lời của các vị thánh Ấn Độ. Một vị thánh của Ấn Độ nói rằng: “Thāpiā na jāi, kītā na hoi, āpe āpi niranjanu soi. Thāpiā na jāi, kītā na hoi.” – không áp đặt bất kỳ niềm tin, từ ngữ hoặc hình dạng. Bất cứ điều gì đang xảy ra, chỉ cần quan sát nó. Không thêm bất kỳ sự thật nhân tạo, bất kỳ sự thật áp đặt nào của riêng bạn. “Āpe āpi” – Bất kể sự thật nào cũng được biểu lộ bởi chính nó, chỉ chấp nhận đó là sự thật.

Anjana mānhi niranjana dekho” – One has to experience the niranjana (purity) within the physical body, which is without shape or form. One should not impose anything. When the breath is coming in, one just realises that it is coming in. When the breath is going out, one just realises that it is going out.

Anjana mānhi niranjana dekho” – Người ta phải trải nghiệm niết bàn (tinh khiết) trong cơ thể vật chất, không có hình dạng hoặc khuôn mẫu. Không nên áp đặt bất cứ điều gì. Khi hơi thở đi vào, chỉ ý thức rằng hơi thở đang đi vào. Khi hơi thở đi ra, chỉ ý thức rằng hơi thở đang đi ra.

Whether the breath is passing through the left nostril or the right nostril or both nostrils, whether it is shallow or deep, just observe it objectively. Yathābhūta – as it is, not as you would like it to be. Just observe the natural breath, as it is. The only object of meditation is the breath.

Cho dù hơi thở đi qua lỗ mũi trái hay lỗ mũi phải hay cả hai lỗ mũi, dù nông hay sâu, chỉ cần quan sát nó một cách khách quan. Yathābhūta – như nó là, không phải như bạn muốn nó là. Chỉ cần quan sát hơi thở tự nhiên, như nó là. Đối tượng duy nhất của thiền là hơi thở.

One should not add any other object, word, shape or form. The mind will wander. It will wander again and again and one has to bring it back to respiration again and again. This is difficult but it is highly beneficial to pass through this difficulty.

Chúng ta không nên thêm vào bất kỳ đối tượng, từ ngữ, hình dạng hoặc hình thái nào khác. Tâm sẽ đi lang thang. Nó sẽ đi lang thang hết lần này đến lần khác và ta phải đưa nó trở lại hơi thở hết lần này đến lần khác. Điều này là khó khăn nhưng ta sẽ có được rất nhiều lợi ích một khi vượt qua được chướng ngại này.

Another reason why no name or form or shape should be added is because the entire path is universal, non-sectarian. If a name is added, whose will it be? It will be that of a Supreme Being or a god or goddess or Allah or a brahma or a saint, or a guru, in whom one has devotion. Every society, every religion, every community has devotion in some ideal person – a god or goddess or a brahma or a saint-that is limited to that particular community.

Một lý do khác tại sao không nên thêm tên hoặc hình thái hoặc hình dạng vào là bởi vì toàn bộ con đường là phổ quát, phi tông phái. Nếu một cái tên được thêm vào, nó sẽ là của ai? Nó sẽ là của một đấng tối cao hoặc một vị thần hoặc nữ thần hoặc Allah hoặc một brahma hoặc một vị thánh, hoặc một đạo sư, người mà người ta có lòng sùng kính. Mọi xã hội, mọi tôn giáo, mọi cộng đồng đều có sự tôn sùng ở một người lý tưởng nào đó – một vị thần hoặc nữ thần hoặc một brahma hoặc một vị thánh chỉ giới hạn trong cộng đồng cụ thể đó mà thôi.

If a name from a particular religion is recited, the followers of other religions will refuse to use it. Therefore, it will not be universal. Similarly any shape or form that is added will be from a particular religion or community and will not be universal. Therefore, if one wants to keep this technique universal one should not add any word or shape. 

Nếu một cái tên bắt nguồn từ một tôn giáo riêng biệt được đọc lên, những người theo tôn giáo khác sẽ từ chối sử dụng tên đó. Vì vậy, nó không phổ quát. Cũng vậy bất kỳ hình dáng hoặc hình thái nào được thêm vào sẽ là từ một tôn giáo hay một cộng đồng riêng biệt và do vậy sẽ không phải là chung cho tất cả. Vậy nên, nếu một người muốn giữ kỹ thuật phổ quát này, người đó không nên thêm bất kỳ từ ngữ hay hình ảnh nào.

But observation of respiration is universal. Everyone can observe breath. Whether a person is Hindu or Buddhist or Jain or Muslim or Sikh or Parsi or Jewish, he can easily observe breath without any hesitation. The entire path of Dhamma is universal; it is not the path of any particular organised religion.

Nhưng việc quan sát hơi thở là phổ quát. Mọi người đều có thế quan sát hơi thở. Dù họ người đó theo Hindu Ấn Độ giáo, Phật giáo, đạo Jaina Kỳ Na giáo, Hồi giáo hay Sikh giáo, hay Parsi Hoả giáo, Thiên Chúa giáo hay Do Thái giáo, đều có thể quan sát hơi thở mà không gặp bất kỳ trở ngại nào. Toàn bộ con đường của Dhamma là chung cho tất cả, không phải là con đường của bất cứ tổ chức tôn giáo riêng biệt nào.

Sometimes, a student who comes for meditation says, “I will not add any word or the shape of any god or goddess or saint or anyone related to any religion. When the breath comes, I will only say ‘coming’ and when the breath goes out, I will only say ‘going’. There is no religion involved in this. If I add any word, my work becomes easier. What is wrong with this?”

Đôi khi, có một thiền sinh tham dự khoá thiền và nói rằng: Tôi sẽ không thêm bất cứ từ ngữ hay hình thái nào của bất kỳ vị thần hay nữ thần hay vị thánh nào hoặc bất kỳ ai liên quan đến tôn giáo nào. Khi hơi thở vào, tôi chỉ nói “đang vào” khi hơi thở ra, tôi chỉ nói “đang ra”. Điều này không có tôn giáo nào liên quan ở đây. Nếu tôi thêm bất kỳ từ nào, sự thực hành của tôi dễ dàng hơn. Điều này có gì sai?

I explain that gradually this ‘coming, going’ will become a mantra and the mind will become immersed in it and will lose awareness of the breath. By the practice of observation of respiration, one gains much knowledge about the body and the mind. Therefore it is absolutely essential to maintain awareness of pure breath without adding anything to it. 

Tôi giải thích rằng, dần dần, từ “đang vào, đang ra” sẽ trở thành câu chú lặp lại và tâm sẽ trở nên chìm vào trong đó và sẽ mất sự nhận thức về hơi thở. Bằng cách thực hành quan sát hơi thở, chúng ta nhận thức được về thân và tâm. Do đó hoàn toàn cần thiết để duy trì nhận thức về hơi thở thuần khiết mà không thêm bất kỳ điều gì vào.

If it is coming in, one understands it is coming in; if it is going out, one understands it is going out. If the mind wanders, as soon as you become aware, “Oh, my mind has wandered”, start again. Our work is to bring the mind back to the breath. The mind will wander repeatedly, it has to be brought back again and again.

Nếu hơi thở đang vào, ta biết nó đang đi vào, nếu hơi thở đang đi ra, ta biết nó đang đi ra. Nếu tâm đi lang thang, ngay khi bạn nhận ra, “Ồ! Tâm tôi đã đi lang thang”, hãy bắt đầu lại. Việc của chúng ta là mang tâm trở về với hơi thở. Và sau đó tâm sẽ lại tiếp tục đi lang thang, và chúng ta sẽ phải liên tục mang tâm trở về.

One will have to exert a lot of effort. But many truths pertaining to the self will be revealed automatically as one keeps observing the bare breath. If one concentrates the mind with the help of any other object it will get concentrated easily, but progress on the path will stop. One will neither be able to know the truth about oneself nor be able to investigate the entire body and mind. 

Và ta sẽ phải nỗ lực rất nhiều. Nhưng rất nhiều sự thật liên quan đến bản thân sẽ tự động được biểu lộ khi ta tiếp tục quan sát hơi thở đơn thuần. Nếu một người định tâm sẽ với sự hỗ trợ của bất kỳ đối tượng nào khác thì sự định tâm sẽ rất dễ dàng, nhưng tiến trình trên con đường sẽ dừng lại. Người ta sẽ không biết sự thật về bản thân cũng như không khám phá được toàn bộ thân và tâm.

At first, it will seem that respiration is merely a physical mechanical process. The breath comes in and goes out because of the working of the lungs. Respiration is related to the body, but what relationship does it have with the mind? We want to understand not only the body but also the mind and the negativities that arise in the mind.

Thoạt đầu, dường như hơi thở chỉ là một quá trình chuyển động cơ học vật lý. Hơi thở đi vào và đi ra do hoạt động của phổi. Hơi thở liên quan đến cơ thể, nhưng nó có mối quan hệ gì với tâm? Chúng ta muốn hiểu không chỉ thân mà cả tâm và những tiêu cực nảy sinh trong tâm.

As one continues to observe respiration, one begins to understand that it is related not only to the body, but also to the mind and the mental negativities. While observing the breath, a thought will arise, and related to it, a negativity will arise. 

Khi một người tiếp tục quan sát hơi thở, người ta bắt đầu hiểu rằng nó không chỉ liên quan đến cơ thể, mà còn liên quan đến tâm và những tiêu cực trong tâm. Trong khi quan sát hơi thở, một ý nghĩ sẽ xuất hiện và liên quan đến nó, một sự tiêu cực sẽ xuất hiện.

One may recall some past incident, “He said this, he did this” and anger may arise, or other negativities like lust or fear may arise. If one observes carefully one finds that the breath loses its natural rhythm, it becomes slightly fast, slightly heavy. As soon as the negativity passes away, the breath again becomes natural.

Người ta có thể nhớ lại một số sự cố trong quá khứ như: “Anh ấy đã nói điều này, anh ấy đã làm điều này” và sự tức giận có thể phát sinh, hoặc những tiêu cực khác như ham muốn hoặc sợ hãi có thể phát sinh. Nếu quan sát cẩn thận sẽ thấy rằng khi đó hơi thở mất nhịp tự nhiên, nó trở nên hơi nhanh, hơi nặng. Ngay khi sự tiêu cực qua đi, hơi thở lại trở nên tự nhiên.

One has to understand these truths about the mental negativities so that one can eradicate them at the root. If one forgets the breath and the mind becomes immersed in some word, how can one know the truth about the body and the mind? Therefore, one should not add any word or shape or form. One observes only the breath, as it comes in, as it goes out, observing it objectively.

Ta phải hiểu những sự thật này về những tiêu cực trong tâm để ta có thể xóa bỏ chúng tận gốc. Nếu quên đi hơi thở và tâm trí trở nên đắm chìm trong một từ ngữ nào đó, làm sao ta có thể biết sự thật về thân và tâm? Do đó, không nên thêm bất kỳ từ ngữ hoặc hình dạng hoặc hình thái nào, ta chỉ quan sát hơi thở khi nó đi vào khi nó đi ra, quan sát một cách khách quan.

One finds that the mind is becoming concentrated, though with some difficulty. In addition, the mind is also getting purified and getting liberated from negativities, to some extent. But if the work of purification of the mind is stopped, if the mind is not getting liberated from negativities, how can one reach the goal of full liberation from all negativities?

Một khi tâm trí đang trở nên tập trung, mặc dù có một số khó khăn. Thêm vào đó, tâm trí cũng đang được thanh lọc và được giải thoát khỏi những tiêu cực, ở một mức độ nào đó. Nhưng nếu công việc thanh lọc tâm trí bị dừng lại, nếu tâm trí không được giải thoát khỏi những tiêu cực, làm thế nào người ta có thể đạt được mục tiêu giải thoát hoàn toàn khỏi mọi tiêu cực?

So along with concentration of mind, one should purify the mind. If the mind is becoming free from negativities, it will bring happiness, it will bring peace, it will bring liberation. One has to make the mind free not only from thoughts, but also from negativities. This will lead to real happiness, real peace, real liberation.

Vì vậy, cùng với sự tập trung của tâm, người ta nên thanh lọc tâm. Nếu tâm thoát khỏi những tiêu cực, nó sẽ mang lại hạnh phúc, nó sẽ mang lại hòa bình, nó sẽ mang lại sự giải thoát. Người ta phải làm cho tâm trí không chỉ thoát khỏi những suy nghĩ đan xen mà còn khỏi những tiêu cực. Điều này sẽ đưa đến hạnh phúc thực sự, hòa hợp thực sự, giải thoát thực sự.

 

Nguồn VRIDhamma.org

Các bài viết trong sách

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *