TẦM QUAN TRỌNG CỦA HƠI THỞ TỰ NHIÊN – THIỀN SƯ S.N. GOENKA

The Importance of Natural Respiration – Tầm Quan Trọng Của Hơi Thở Tự Nhiên

The following has been translated and adapted from the fifth in a series of 44 Hindi discourses by Mr. S. N. Goenka and broadcast on Zee TV

Phần sau đây đã được dịch và chuyển thể từ phần V trong loạt 44 bài giảng tiếng Hindi của Ngài S. N. Goenka và phát trên Zee TV

A meditator who comes to a meditation centre to learn Vipassana for ten days should clearly understand the ultimate goal of this meditation technique. Otherwise, one will get stuck at some midway station. One should clearly understand that the ultimate goal is to purify the mind, to free it completely from defilements.

Một thiền sinh đến trung tâm thiền để học Vipassana trong mười ngày nên hiểu rõ mục tiêu cuối cùng của kỹ thuật thiền này. Nếu không, thiền sinh sẽ bị mắc kẹt lại tại một trạm giữa đường. Thiền sinh nên hiểu rõ rằng mục tiêu cuối cùng là thanh lọc tâm trí, giải thoát nó hoàn toàn khỏi những phiền não.

Dhamma is development of a pure mind. When the mind becomes pure and Dhamma becomes a part of life, one has learned the art of living. One becomes happy and helps to make others happy. This is the only aim of the practice of Dhamma.

Dhamma (luật tự nhiên) là sự phát triển của một tâm thanh tịnh. Khi tâm trở nên thanh tịnh và Dhamma trở thành một phần của cuộc sống, bạn đã học được nghệ thuật sống. Bạn trở nên hạnh phúc và giúp những người khác hạnh phúc. Đây là mục đích duy nhất của thực hành Dhamma.

To purify the mind completely, to free it from all defilements, one will have to reach the depth of the mind where these defilements arise, multiply, and accumulate. One will have to stop their arising and multiplication at the depth and gradually eradicate the old stock of defilements so that the mind is completely purified.

Để thanh lọc và giải phóng tâm hoàn toàn khỏi các bất tịnh, bạn sẽ phải đạt đến các tầng sâu của tâm nơi các phiền não khởi sinh, tăng trưởng và tích lũy. Bạn sẽ phải dừng lại sự nảy sinh và tăng trưởng của chúng tại tầng sâu thẳm của tâm và dần dần nhổ gốc rễ của những bất tịnh ngủ ngầm để tâm có thể trở nên hoàn toàn thanh tịnh

Defilements arise within us, not outside. Pleasant or unpleasant situations occur outside, desirable or undesirable situations occur outside, but defilements arise within us, the resultant suffering, misery, grief arise within us.

Những bất tịnh nảy sinh bên trong chúng ta, không phải bên ngoài. Những tình huống dễ chịu hay khó chịu xảy ra bên ngoài, những tình huống ham muốn hay ghét bỏ xảy ra bên ngoài, nhưng những bất tịnh thì nảy sinh bên trong chúng ta, kết quả là khổ đau, buồn bực, ưu tư nảy sinh bên trong chúng ta.

Therefore, to eradicate these defilements, one must journey within. Knowledge of the apparent truth at the surface level will not take one to the depth of the mind where the defilements arise. Beginning with very gross truths, one will have to understand progressively subtler truths of the body and mind until the subtlest truth is reached. 

Vậy nên để diệt tận gốc rễ những bất tịnh này, bạn phải thực hiện một cuộc hành trình nội tâm. Sự hiểu biết về sự thật chế định tại mức độ bề mặt sẽ không mang chúng ta tới tầng sâu thẳm của tâm, nơi mà những bất tịnh nảy sinh. Bắt đầu với những sự thật rất thô thiển, bạn sẽ phải hiểu dần dần những sự thật vi tế hơn của thân và tâm cho đến khi đạt được đến sự thật vi tế nhất.

This must be done at the experiential level. The truth about this body and mind cannot be understood by reading books or listening to discourses. There is a vast difference between believing and knowing by direct experience.

Điều này phải được thực hiện tại cấp độ thực nghiệm. Sự thật về thân và tâm không thể được hiểu bằng cách đọc sách hay nghe những bài giảng. Có một sự khác biệt rất xa giữa niềm tin và hiểu biết bằng kinh nghiệm thực tế.

When understanding is based on actual experience, the entire secret of nature unfolds before us: how mental defilements arise as a result of the contact between mind and body and how they multiply. If one wishes to understand the essence of Dhamma, the essence of truth, one will have to journey within the body. Otherwise, one will give importance only to superficial matters for the whole life. 

Khi sự hiểu biết được dựa vào những trải nghiệm thật sự, toàn bộ bí mật của tự nhiên mở ra trước mắt chúng ta: cách mà những bất tịnh trong tâm khởi sinh do mối liên hệ giữa tâm và thân và cách mà chúng tăng trưởng. Nếu một người muốn hiểu bản chất của Dhamma, bản chất của sự thật, họ sẽ phải bắt đầu hành trình nội tâm. Nếu không, họ sẽ chỉ quan tâm đến những thứ hời hợi trong suốt cả cuộc đời.

A great saint of India, Narsi Mehta said- “Ṣarīra sodhe binā, o sāra nahin sāpḍe.” -‘Without searching within the body, one cannot find the essence of truth’. The essence of truth will become clear only when the entire truth about this body and mind is experienced. Once one understands this, the way to liberation is opened. For this, one has to explore the truth within the body. This is what the saints did. 

Narsi Mehta, một vị thánh vĩ đại của Ấn Độ nói rằng:“Ṣarīra sodhe binā, o sāra nahin sāpḍe.” –“Không có sự quán xét trên thân, bạn không thể tìm ra bản chất của sự thật”

Bản chất của sự thật sẽ trở nên rõ ràng chỉ khi toàn bộ sự thật về thân này và tâm được kinh nghiệm. Khi mà bạn hiểu điều này, con đường giải thoát được mở ra. Muốn được như thế, bạn phải khám phá sự thật bên trong cơ thể này. Đây là điều vị thánh đã làm.

Another saint of India said – “Tīna hātha eka aḍadhāyī, aisā ambara cīhno mere bhai! Aisā ambar khojo mere bhai!” – Explore the sky, the space within the body, gain full knowledge about it. If one practices this technique in its pristine purity, one will achieve this aim. Those who preserved this technique in its pristine purity for the past 2500 years have found that anyone practicing it benefited from it and developed purity of mind. Therefore, this technique should not be changed in any way – one should not try to add or remove anything from this technique.

Một vị thánh khác của Ấn Độ đã nói rằng:“Tīna hātha eka aḍadhāyī, aisā ambara cīhno mere bhai! Aisā ambar khojo mere bhai!” – “Hãy tự khám phá thế giới nội tâm bên trong chính mình, nhận lãnh tất cả hiểu biết về nó.” Khi một người thực hành kỹ thuật này trong sự ban sơ tinh khiết của nó, họ sẽ đạt được mục đích này. Những người đã giữ gìn kỹ thuật này trong sự thuần khiết ban sơ trải qua trong 2500 năm đã nhận thấy rằng bất kỳ ai thực hành nó sẽ được lợi lạc và phát triển sự thanh tịnh của tâm. Do đó, kỹ thuật này không nên được thay đổi dù dưới bất kỳ hình thức nào, bạn không nên thử thêm vào hay bớt đi bất cứ điều gì từ kỹ thuật này.

Then, it will continue to produce the same beneficial results. One must observe pure breath, natural breath, as it comes in, as it goes out. Just continue to observe and everything regarding the body and the mind will become clear at the experiential level.

Khi đó, nó tiếp tục mang đến những kết quả lợi lạc tương tự. Bạn phải quan sát hơi thở thuần khiết, hơi thở tự nhiên, khi nó đi vào, khi nó đi ra. Hãy cứ tiếp tục quan sát như thế và rồi mọi điều liên quan đến thân và tâm sẽ trở nên rõ ràng, ở cấp độ trải nghiệm.

What does the ordinary meditator actually know about his body? He may have read some book on anatomy and have the delusion that he knows very well what the body is, inside and outside. But he has not experienced these truths. He has experiential knowledge about the external organs such as the limbs and eyes that work according to his desires. If he wants to raise his hand, he can raise it; if he wants his eyes to open, he can open them; if he wants them to close, he can close them.

Điều gì một thiền sinh bình thường thật sự hiểu gì về cơ thể của mình? Họ có thể đã đọc một số quyển sách về giải phẫu học và ảo tưởng rằng họ biết rất rõ về cơ thể của họ, cả bên trong lẫn bên ngoài. Nhưng họ chưa hề trải nghiệm những sự thật này. Họ có sự hiểu biết thực tế về các cơ quan bên ngoài như chân tay, rằng chúng làm việc theo mong muốn của họ. Nếu họ muốn giơ tay, họ có thể giơ tay, nếu họ muốn mở mắt, họ có thể mở mắt, tương tự nếu họ muốn nhắm mắt, họ có thể nhắm mắt.

He can make them work as he wants. But there are many large organs inside the body like the heart, the lungs, the liver, and other important organs, which work independently, naturally, according to nature’s law; they do not wait for instructions.

Họ có thể làm chúng hoạt động như họ muốn. Nhưng có rất nhiều cơ quan trong cơ thể như tim, phổi, gan và những cơ quan quan trong khác. Những cơ quan đó hoạt động một cách độc lập, tự nhiên, theo như luật tự nhiên; chúng không chờ sự chỉ đạo nào cả.

One cannot make them work as one wants. One cannot make them work more quickly or more slowly or stop them from working. They work on their own. One knows nothing about them at the experiential level. One may have intellectual knowledge, but unless it is accompanied by experiential knowledge, it is incomplete. It only serves to satisfy one’s curiosity. Intellectual knowledge is important but it should be accompanied by experiential knowledge about one’s body and mind

Người ta không thể khiến chúng hoạt động như họ muốn. Họ không thể khiến chúng làm việc nhanh hơn hay chậm hơn hay bắt chúng dừng hoạt động. Chúng làm việc theo cách riêng của chúng. Họ không hiểu gì về chúng ở cấp độ thực nghiệm. Người ta có thể có những hiểu biết về mặt trí thức, điều đó chưa đầy đủ. Nó chỉ thỏa mãn sự tò mò của họ mà thôi. Những hiểu biết tri thức là quan trọng nhưng cần đi kèm với hiểu biết thực nghiệm về thân và tâm của một người.

It is with the help of the breath that one starts the journey within. For three days one keeps all attention at this door of the body, that is, the nostrils. The breath is coming in, the breath is going out. One develops the ability to continuously observe incoming breath and outgoing breath at this spot. Remaining aware in this way, one is increasing one’s ability to perceive the truths within the body. One thing about respiration becomes clear: it is not merely a physical process; it is intimately connected to the mind and even more to the mental defilements. This becomes clear by direct experience but only if one observes natural respiration. If one adds a word, a form or an imagination, or starts some breathing exercise, one becomes entangled in it and loses awareness of the breath.

Với sự hỗ trợ của hơi thở, chúng ta bắt đầu cuộc hành trình khám phá bên trong nội tâm chính mình. Trong ba ngày, chúng ta giữ tất cả sự chú ý tại nơi cửa mũi. Hơi thở đang đi vào, hơi thở đang đi ra. Chúng ta phát triển khả năng liên tục quan sát hơi thở đi vào và hơi thở đi ra tại điểm này. Duy trì sự ý thức theo cách này, chúng ta đang làm tăng trưởng khả năng nhận thức về sự thật bên trong cơ thể của mình. Một điều về hơi thở trở nên rõ ràng rằng: đó không chỉ là một quá trình thể lý, mà nó còn có mối liên hệ mật thiết với tâm và thậm chí cả về những bất tịnh trong tâm. Điều này trở nên rõ ràng nhờ sự trải nghiệm trực tiếp, nhưng chỉ khi quan sát hơi thở tự nhiên mà thôi. Nếu một người thêm một từ ngữ, một hình dạng, một sự hình dung tưởng tượng, hay bắt đầu một số bài tập thở, người đó trở nên vướng mắc vào nó và mất đi sự nhận thức về hơi thở.

There are two fields in the body: the known field – the field of the external organs and the unknown field – a bigger field about which we have no experiential knowledge. We have to move from the known field to the unknown field and understand it. To achieve this, we take the help of respiration. Respiration is a function of the body that works according to our desire but also works automatically. One can breathe faster or slower or even stop breathing for some time. So we can control our respiration if we wish but otherwise, it continues to work automatically. One automatically breathes in and out. Since the breath functions in both ways – according to our instructions as well as automatically – it can be used to understand the unknown field of the body, which works automatically and about which we wish to gain more knowledge. 

Có 2 phần trên cơ thể: phần đã biết – phần thuộc về các cơ quan bên ngoài và phần chưa biết – phần lớn hơn về những thứ mà chúng ta chưa có những hiểu biết thực nghiệm. Chúng ta cần phải chuyển từ phần đã biết đến phần chưa biết và hiểu về nó. Để đạt được điều này, chúng ta nhận sự giúp đỡ của hơi thở. Hơi thở là một chức năng của cơ thể và hoạt động theo mong muốn của chúng ta nhưng đồng thời cũng hoạt động một cách tự động. Chúng ta có thể thở nhanh hơn, chậm hơn hay thậm chí đôi khi nín thở. Vì vậy chúng ta có thể kiểm soát hơi thở nếu chúng ta muốn nhưng mặt khác thì nó vẫn sẽ tiếp tục hoạt động một cách tự nhiên. Chúng ta tự động hít vào và thở ra. Do đó, hơi thở hoạt động theo cả hai cách là phụ thuộc vào sự điều khiển và tự động – nó có thể dùng để hiểu về những phần chưa hiểu biết trên cơ thể, những phần hoạt động tự động và nó hướng tới thứ mà chúng ta muốn có thêm sự hiểu biết.

An example: A person living on the bank of the river knew everything about it through his experience since he lived there. He had never gone to the other bank, so he did not know anything about it. A person who has crossed the river to the other bank described the other bank to him – “Oh, the other bank is so wonderful! It is so beautiful! It is so charming!” So the person living on this bank felt – “I should also see the other bank. I should also enjoy the beauty of the other side.” So what did he do? He stood on this side of the river, folded his hands, and with moist eyes and in a distressed voice, he made a fervent prayer-“O other bank of the river, please come over here. I want to see you, I want to enjoy your beauty.”

Even if he cries all his life, the other side is not going to come to him. If he wants to enjoy the beauty of the other side, he will have to cross the river and go to the other side. Only then can he see the other bank. How can he reach the other bank? He can reach there with the help of a bridge that joins this bank of the river to the other bank. 

Một ví dụ: Một người đàn ông đang sống trong bên bờ sông biết tất cả mọi thứ về nó thông qua trải nghiệm của anh ấy từ khi sống ở đó. Anh ấy không bao giờ đi qua bờ bên kia, nên anh ấy không biết bất cứ điều gì về bờ bên đó. Và một người khác đã băng qua sông để đến bờ bên kia và miêu tả về bờ bên kia cho anh ấy: “Ồ! Bờ bên kia rất tuyệt vời! Nó thật là đẹp, thật là mê!” Vì thế người đàn ông này nghĩ rằng: ”Tôi cũng nên chiêm ngưỡng bờ bên kia. Tôi cũng nên thưởng thức vẻ đẹp của bờ bên kia.”

Và anh ấy đã làm gì? Anh ta đứng bên bờ sông, chắp tay lại, với đôi mắt đẫm lệ và với giọng nói đau khổ, anh ta cầu nguyện nhiệt thành – “Hỡi bờ sông kia, xin hãy đến đây! Ta muốn thấy ngươi, ta muốn chiêm ngưỡng vẻ đẹp của ngươi”. Kể cả nếu anh ấy khóc cả đời, bờ bên kia cũng không đến với anh. Nếu anh ta muốn thưởng thức vẻ đẹp của bờ bên kia, anh ta phải băng qua con sông và đi đến bờ bên kia. Chỉ khi đó anh ta mới có thể thấy bờ bên kia. Làm sao người đó có thể đi qua tới bờ bên kia? Anh ta có thể đi qua tới đó nhờ một cây cầu nối từ bờ bên này đến bờ bên kia.

The two banks of the river are like the two fields in the body: the known field, where the organs work voluntarily, according to one’s wishes, and the unknown field, where the organs work on their own. But the breath comes in and goes out according to one’s wishes as well as automatically. So respiration is connected to the known field as well as to the unknown field of the body. Therefore, it can serve as a bridge between the known and unknown fields. By the observation of pure respiration, one can reach the unknown field where things work on their own. 

Cả hai bờ sông cũng giống như hai phần của cơ thể, phần đã biết nơi mà các cơ quan hoạt động theo ý mình, theo mong muốn của mình, và phần chưa biết, nơi mà các cơ quan hoạt động theo cách của chúng. Nhưng hơi thở đến và đi vừa theo mong muốn của mình, vừa theo hoạt động tự nhiên. Vậy nên hơi thở kết nối với phần đã biết cũng như phần chưa biết của cơ thể. Bằng sự quan sát hơi thở thuần khiết, một người có thể chạm tới phần chưa biết nơi mà mọi thứ tự hoạt động theo cách của chúng.

The object of meditation should be natural respiration only. When the breath is coming in, one observes that it is coming in; when the breath is going out, one observes that it is going out. As one continues to observe natural respiration, the subtlest truths of the body and the mind will be revealed until one reaches the ultimate truth, a state beyond both the body and mind. 

Đối tượng của thiền chỉ nên là hơi thở tự nhiên. Khi hơi thở đi vào ta quan sát nó đang đi vào, khi hơi thở đi ra ta quan sát nó đang đi ra. Khi một người tiếp tục quan sát hơi thở tự nhiên, những sự thật vi tế của thân và tâm  sẽ được tiết lộ cho đến khi người đó đạt đến sự thật tối thượng, một trạng thái vượt ra ngoài cả thân và tâm.

“Saans dekhte dekhte, satya prakaṭatā jāya, Satya dekhte dekhte, parama satya dikh jāya.” – “Observing respiration, truth manifests itself, Observing truth, the supreme truth manifests itself”.

“Saans dekhte dekhte, satya prakaṭatā jāya, Satya dekhte dekhte, parama satya dikh jāya.”  “Quan sát hơi thở, sự thật tự biểu lộ, quan sát sự thật, sự thật tối thượng biểu lộ chính nó.”

If one observes natural respiration, one will understand everything about the body. As one progresses on this path, the body that appears so gross will gradually start to disintegrate until one reaches the stage where one can feel the entire body to be subatomic particles arising and passing away, arising and passing away in the form of wavelets.

Nếu một người quan sát hơi thở tự nhiên, họ có thể hiểu tất cả mọi thứ về cơ thể. Khi một người tiến bộ trên con đường này, cơ thể có vẻ thô thiển sẽ dần dần bắt đầu tan rã cho đến khi đạt đến giai đoạn mà người ta có thể cảm thấy toàn bộ cơ thể là các hạt vi tử sinh và diệt, sinh và diệt dưới dạng các gợn sóng lăn tăn.

One has to reach that stage. One may have read books that say that the entire material world is made up of sub-atomic particles and each sub-atomic particle is nothing but wavelets. What does one gain by that? But if one experiences this truth, one understands the close interrelationship of the breath with the mind and the mental defilements.
One also discovers the interrelationship of the body with the mind and mental defilements. Gradually, one will reach a stage where one can observe how the defilements arise and multiply in the mind and what part the body plays in it, what part the mind plays in it. When all these truths are realised by direct experience, one is able to eradicate these defilements. Otherwise, one continues to remain deluded. 

Người ta phải đạt đến giai đoạn đó. Họ có thể đã đọc nhiều sách nói rằng toàn thể thế giới vật chất này được tạo nên từ những hạt vi tử và những hạt vi tử đó là không gì khác ngoài các gợn sóng. Người ta đạt được gì từ những điều đó? Nhưng nếu một người trải nghiệm sự thật này, họ sẽ hiểu được mối liên hệ chặt chẽ giữa hơi thở và tâm cũng như các bất tịnh trong tâm.

Họ cũng khám phá ra mối liên hệ của thân và tâm và những bất tịnh trong tâm. Dần dần, người ta sẽ đạt đến một giai đoạn mà họ có thể quan sát cách các phiền não bất tịnh phát sinh và tăng trưởng trong tâm và phần nào thân có vai trò trong đó, phần nào tâm có vai trò trong đó. Khi tất cả những sự thật này được nhận ra bằng kinh nghiệm trực tiếp, người ta có thể xóa bỏ những phiền não này. Nếu không, người ta sẽ vẫn tiếp tục ảo tưởng.

If a defilement such as anger arises, one always tries to find the external cause – “This person has abused me. That is why anger has arisen and I have become agitated.” But the cause of your anger, the cause of your misery, is not outside. When you begin to look within, you will clearly understand that there is a link between the external event and the misery that has arisen within. When that link is observed, one gains understanding about it and learns to remove the cause of one’s misery. 

Nếu một sự bất tịnh như giận dữ xuất hiện, bạn luôn cố gắng tìm ra nguyên nhân ở bên ngoài – “Người này đã xúc phạm tôi. Đó là lý do tại sao sự tức giận đã xuất hiện và tôi trở nên kích động.” Nhưng nguyên nhân cơn giận của bạn, nguyên nhân của sự đau khổ của bạn, không phải ở bên ngoài. Khi bạn bắt đầu nhìn vào bên trong, bạn sẽ hiểu rõ rằng có một mối liên hệ giữa sự kiện bên ngoài và sự đau khổ đã phát sinh bên trong. Khi liên kết đó được quan sát, người ta hiểu được về nó và học được cách loại bỏ nguyên nhân của sự đau khổ của mình.

But this will happen only when one understands the truth by direct experience. Intellectual understanding of the truth may be of some benefit. But the intellect is a very small portion of the mind. The remaining vast portion of the mind which is full of defilements remains unseen, remains unknown. One remains satisfied by purifying only the surface part of the mind but this is not sufficient to purify the mind.

Nhưng điều này sẽ chỉ xảy ra khi một người hiểu sự thật bằng kinh nghiệm trực tiếp. Sự hiểu biết tri thức về sự thật có thể có ích. Nhưng tri thức là một phần rất nhỏ của tâm trí. Phần to lớn còn lại của tâm trí đầy phiền não bất tịnh vẫn chưa được nhìn thấy, vẫn chưa được biết. Người ta vẫn hài lòng bằng cách chỉ thanh lọc phần bề mặt của tâm nhưng điều này không đủ để thanh lọc tâm .

With the help of the breath, one clearly understands the interaction between the body and the mind: how they affect each other and the breath resulting in the generation and multiplication of defilements. By observing it, one will learn to come out of defilements.

Với sự giúp đỡ của hơi thở, người ta hiểu rõ sự tương tác giữa thân và tâm: cách chúng ảnh hưởng lẫn nhau và cách mà hơi thở dẫn đến sự sinh ra và nhân lên của bất tịnh phiền não. Bằng cách quan sát nó, người ta sẽ học được cách thoát khỏi phiền não.

Only by eradicating defilements can one practice pure Dhamma and apply it in life. As one continues to purify the mind, one’s life becomes full of Dhamma, full of happiness, full of harmony. Indeed, one who practices Dhamma gains real happiness, real welfare, real peace, real liberation.

Chỉ bằng cách diệt trừ những bất tịnh phiền não, một người mới có thể thực hành Dhamma tinh khiết và áp dụng nó trong cuộc sống. Khi một người tiếp tục thanh lọc tâm , cuộc sống của một người trở nên đầy Dhamma, đầy hạnh phúc, đầy hòa hợp. Thật vậy, một người thực hành Dhamma đạt được hạnh phúc thực sự, an lạc thực sự, hòa hợp thực sự, giải thoát thực sự.

 

Nguồn VRIDhamma.org

Các bài viết trong sách

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *