Phân Tích Giới Tỳ Khưu I
Chương 1: Verañjā
Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri!
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Verañjā, ở cội cây Nimba của Dạ-xoa Naḷeru,[1]cùng với đại chúng tỳ khưu có số lượng năm trăm vị tỳ khưu. Vị Bà-la-môn Verañja đã nghe được rằng: “Chắn chắn là ngài Sa-môn Gotama, con trai dòng Sakya, từ dòng dõi Sakya đã xuất gia, và hiện ngự tại Verañjā, ở cội cây Nimba của Dạ-xoa Naḷeru, cùng với đại chúng tỳ khưu có số lượng năm trăm vị tỳ khưu. Tiếng tăm tốt đẹp về Ngài Gotama ấy đã được lan rộng ra như vầy: ‘Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Tối Thượng Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’ Với thắng trí của mình, vị ấy chứng ngộ và công bố về thế gian này tính luôn cõi chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài người. Vị ấy thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự. Vị ấy giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ. Tốt thay cho việc diện kiến các vị A-la-hán như thế ấy!”
2. Sau đó, Bà-la-môn Verañja đã đi đến gặp đức Thế Tôn. Sau khi đến, vị ấy đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Verañja đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Thưa Ngài Gotama, tôi đã được nghe điều này: ‘Sa-môn Gotama không cung kính, hoặc không đứng dậy, hoặc không mời chỗ ngồi đến các vị Bà-la-môn già cả, uy tín, lớn tuổi, sống thọ, đã đạt đến giai đoạn cuối của cuộc đời.’ Thưa Ngài Gotama, điều ấy thật đúng như thế! Bởi vì Ngài Gotama không cung kính, hoặc không đứng dậy, hoặc không mời chỗ ngồi đến các vị Bà-la-môn già cả, uy tín, lớn tuổi, sống thọ, đã đạt đến giai đoạn cuối của cuộc đời. Thưa Ngài Gotama, điều ấy thật không thích đáng!”
3. – “Này Bà-la-môn, trong thế gian tính luôn cõi chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài người, Ta không thấy một ai mà Ta có thể cung kính, hoặc có thể đứng dậy, hoặc có thể mời chỗ ngồi. Này Bà-la-môn, bởi vì nếu Như Lai cung kính, hoặc đứng dậy, hoặc mời chỗ ngồi người nào thì đầu của người ấy sẽ bị vỡ tan.”
4. – “Ngài Gotama không biết về phẩm chất!” – “Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta thì có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama không biết về phẩm chất.’ Này Bà-la-môn, các phẩm chất về sắc, các phẩm chất về thinh, các phẩm chất về hương, các phẩm chất về vị, các phẩm chất về xúc, đối với Như Lai các việc ấy đã được dứt bỏ, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta thì có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama không biết về phẩm chất;’ và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.”[2]
5. – “Ngài Gotama không biết thưởng thức!” – “Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta thì có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama không biết thưởng thức.’ Này Bà-la-môn, các sự thưởng thức về sắc, các sự thưởng thức về thinh, các sự thưởng thức về hương, các sự thưởng thức về vị, các sự thưởng thức về xúc, đối với Như Lai các việc ấy đã được dứt bỏ, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta thì có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama không biết thưởng thức;’ và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.”
6. – “Ngài Gotama thuyết về không hành động!” – “Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta thì có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama thuyết về không hành động.’ Này Bà-la-môn, bởi vì Ta thuyết về không hành động đối với việc làm ác do thân, đối với lời nói ác do miệng, đối với suy nghĩ ác do ý; Ta thuyết về không hành động của các pháp ác và bất thiện có nhiều dạng. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta thì có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama thuyết về không hành động;’ và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.”
7. – “Ngài Gotama thuyết về đoạn diệt!”[3] – “Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta thì có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama thuyết về đoạn diệt.’ Này Bà-la-môn, bởi vì Ta thuyết về sự đoạn diệt của luyến ái, của sân hận, của si mê; Ta thuyết về sự đoạn diệt của các pháp ác và bất thiện có nhiều dạng. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta thì có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama thuyết về đoạn diệt;’ và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.”
8. – “Ngài Gotama có sự ghê tởm!” – “Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta thì có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama có sự ghê tởm.’ Này Bà-la-môn, bởi vì Ta ghê tởm với việc làm ác do thân, với lời nói ác do miệng, với suy nghĩ ác do ý; Ta ghê tởm đối với sự thành tựu của các pháp ác và bất thiện có nhiều dạng. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta thì có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama có sự ghê tởm;’ và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.”
9. – “Ngài Gotama là người cách ly!” – “Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta thì có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama là người cách ly.’ Này Bà-la-môn, bởi vì Ta thuyết về pháp đưa đến sự cách ly đối với luyến ái, đối với sân, đối với si; Ta thuyết về pháp đưa đến sự cách ly đối với các pháp ác và bất thiện có nhiều dạng. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta thì có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama là người cách ly;’ và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.”
10. – “Ngài Gotama là người thiêu đốt!” – “Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta thì có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama là người thiêu đốt.’ Này Bà-la-môn, Ta thuyết rằng các pháp ác và bất thiện tức là việc làm ác do thân, lời nói ác do miệng, và suy nghĩ ác do ý cần được thiêu đốt. Này Bà-la-môn, người nào có các pháp ác và bất thiện cần được thiêu đốt đã được diệt tận, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai; Ta gọi người ấy là: ‘Người thiêu đốt.’ Này Bà-la-môn, các pháp ác và bất thiện cần được thiêu đốt của Như Lai đã được dứt bỏ, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta thì có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama là người thiêu đốt;’ và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.”
11. – “Ngài Gotama là người thoát khỏi bào thai!” – “Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta thì có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama là người thoát khỏi bào thai.’ Này Bà-la-môn, sự sanh vào bào thai trong ngày vị lai của người nào, tức là sự tái sanh và hiện hữu lần nữa đã được dứt bỏ, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai; Ta gọi người ấy là: ‘Người thoát khỏi bào thai.’ Này Bà-la-môn, sự sanh vào bào thai trong ngày vị lai của Như Lai, tức là sự tái sanh và hiện hữu lần nữa đã được dứt bỏ, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta thì có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama là người thoát khỏi bào thai;’ và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.
12. Này Bà-la-môn, cũng giống như con gà mái có được tám, hoặc mười, hoặc mười hai quả trứng. Nếu con gà mái nằm lên trên chúng đúng cách, ủ nóng đều đúng cách, ấp đúng cách, và trong số các con gà con mới nở ấy, con nào dùng vuốt của móng chân hoặc mỏ phá vỡ vỏ trứng và nở ra an toàn trước tiên, thì điều nên nói về con gà con ấy là thế nào, lớn nhất hay nhỏ nhất?” – “Thưa Ngài Gotama, nên gọi nó là ‘con lớn nhất’ bởi vì nó lớn nhất trong bầy.” – “Này Bà-la-môn, cũng tương tợ như thế trong số chúng sanh sống trong vô minh (ví như) đang ở trong quả trứng và bị trùm kín lại, Ta là người duy nhất đã phá vỡ vỏ trứng vô minh và chứng đắc quả vị Chánh Đẳng Giác vô thượng ở trên đời. Này Bà-la-môn, chính Ta đây là người đứng đầu và cao cả nhất của thế gian.
13. Này Bà-la-môn, hơn nữa Ta đã có sự tinh tấn bền vững không bị trì trệ, có niệm được thiết lập không bị xao lãng, có thân được khinh an không còn rạo rực, có tâm được định tĩnh tập trung. Này Bà-la-môn, quả vậy sau khi đã tách ly khỏi các dục và tách ly khỏi các pháp bất thiện, Ta đây đã chứng đạt và trú thiền thứ nhất với hỷ và lạc sanh lên do tách ly (khỏi các triền cái), có tầm, có tứ. Do sự yên lặng của tầm và tứ, Ta đã chứng đạt và trú thiền thứ hai với nội phần an tĩnh, tâm được chuyên nhất, có hỷ và lạc sanh lên do định, không tầm, không tứ. Và do sự không còn tham muốn ở hỷ, với xả Ta đã trú. Có niệm và tỉnh giác, Ta đã chứng nghiệm trạng thái lạc bằng thân, đó là điều mà các bậc Thánh nói rằng: ‘Vị ấy có xả, có niệm, có sự trú vào lạc;’ Ta đã chứng đạt và trú thiền thứ ba. Do sự từ bỏ lạc, do sự từ bỏ khổ (của thân), do sự biến mất của hỷ và ưu ở tâm (đã có) trước đây, Ta đã chứng đạt và trú thiền thứ tư với sự thanh tịnh của xả và niệm, không khổ không lạc.
14. Trong khi tâm được định tĩnh, thuần tịnh, trong sạch, không ô nhiễm, lìa khỏi phiền não, nhu thuận, có thể sử dụng, ổn định, đạt đến trạng thái vững chắc như thế, Ta đây đã hướng dẫn tâm đến trí tuệ ghi nhớ về các kiếp sống trước. Ta nhớ lại nhiều kiếp sống trước như là một lần sanh, hai lần sanh, ba lần sanh, bốn lần sanh, năm lần sanh, mười lần sanh, hai mươi lần sanh, ba mươi lần sanh, bốn mươi lần sanh, năm mươi lần sanh, một trăm lần sanh, một ngàn lần sanh, một trăm ngàn lần sanh, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp: ‘Ở nơi ấy, Ta đã có tên như vầy, dòng họ như vầy, giai cấp như vầy, thức ăn như vầy, kinh nghiệm lạc và khổ như vầy, có giới hạn tuổi thọ như vầy. Từ chỗ ấy, Ta đây đã chết đi rồi đã sanh lên tại chỗ kia. Ở nơi kia, Ta đã có tên như vầy, dòng họ như vầy, giai cấp như vầy, thức ăn như vầy, kinh nghiệm lạc và khổ như vầy, có giới hạn tuổi thọ như vầy. Từ nơi kia, Ta đây đã chết đi rồi đã sanh lên tại nơi này.’ Như thế, Ta nhớ lại nhiều kiếp sống trước với các nét đại cương và cá biệt. Này Bà-la-môn, quả vậy vào canh đầu của đêm Ta đã chứng đạt Minh thứ nhất này, vô minh được diệt tận, minh được sanh khởi, bóng tối được diệt tận, ánh sáng được sanh khởi. Như thế ấy là điều (Ta đã thành đạt) trong lúc Ta sống không xao lãng, nỗ lực, quyết tâm. Này Bà-la-môn, chính điều này đã là sự khai mở đầu tiên của Ta, tương tợ như con gà con thoát ra từ vỏ trứng vậy.
15. Trong khi tâm được định tĩnh, thuần tịnh, trong sạch, không ô nhiễm, lìa khỏi phiền não, nhu thuận, có thể sử dụng, ổn định, đã đạt đến trạng thái vững chắc như thế, Ta đây đã hướng dẫn tâm đến trí về sự sanh tử của chúng sanh. Bằng Thiên nhãn thanh tịnh vượt trội loài người, Ta đây nhìn thấy các chúng sanh trong khi chết đi rồi sanh lại (trở thành) hạ tiện, cao quý, đẹp đẽ, xấu xí, sung sướng, (hay) đau khổ, Ta biết được rằng các chúng sanh đều đi theo nghiệp tương ứng (như vầy):
‘Quả đúng như vậy, những chúng sanh đang hiện hữu này có hành động xấu xa bằng thân, có hành động xấu xa bằng lời nói, có suy nghĩ xấu xa bằng ý, vu khống các bậc Thánh, theo tà kiến, tán thành các hành động do tà kiến. Những kẻ ấy, khi tan rã thân xác và chết đi, bị sanh vào bất hạnh, cõi khổ, đọa xứ, địa ngục. Trái lại, những chúng sanh đang hiện hữu này có hành động tốt đẹp bằng thân, có hành động tốt đẹp bằng lời nói, có suy nghĩ tốt đẹp bằng ý, không vu khống các bậc Thánh, theo chánh kiến, tán thành các hành động do chánh kiến. Những người ấy, khi tan rã thân xác và chết đi, được sanh vào chốn an vui, cõi trời, loài người.’
Như thế, bằng Thiên nhãn thanh tịnh vượt trội loài người, Ta nhìn thấy các chúng sanh trong khi chết đi rồi sanh lại (trở thành) hạ tiện, cao quý, đẹp đẽ, xấu xí, sung sướng, (hay) đau khổ, Ta biết được rằng các chúng sanh đều đi theo nghiệp tương ứng. Này Bà-la-môn, quả vậy vào canh giữa của đêm Ta đã chứng đạt Minh thứ hai này, vô minh được diệt tận, minh được sanh khởi, bóng tối được diệt tận, ánh sáng được sanh khởi. Như thế ấy là điều (Ta đã thành đạt) trong lúc Ta sống không xao lãng, nỗ lực, quyết tâm. Này Bà-la-môn, chính điều này đã là sự khai mở thứ hai của Ta, tương tợ như con gà con thoát ra từ vỏ trứng vậy.
16. Trong khi tâm được định tĩnh, thuần tịnh, trong sạch, không ô nhiễm, lìa khỏi phiền não, nhu thuận, có thể sử dụng, ổn định, đã đạt đến trạng thái vững chắc như thế, Ta đây đã hướng dẫn tâm đến trí tuệ đoạn tận các lậu hoặc. Ta đây đã biết rõ: ‘Đây là Khổ’ đúng theo bản thể thật. Ta đây đã biết rõ: ‘Đây là nguyên nhân của Khổ’ đúng theo bản thể thật. Ta đây đã biết rõ: ‘Đây là sự Diệt Khổ’ đúng theo bản thể thật. Ta đây đã biết rõ: ‘Đây là sự thực hành đưa đến sự Diệt Khổ’ đúng theo bản thể thật. Ta đây đã biết rõ: ‘Đây là các lậu hoặc’ đúng theo bản thể thật. Ta đây đã biết rõ: ‘Đây là nguyên nhân của các lậu hoặc’ đúng theo bản thể thật. Ta đây đã biết rõ: ‘Đây là sự diệt tận các lậu hoặc’ đúng theo bản thể thật. Ta đây đã biết rõ: ‘Đây là sự thực hành đưa đến sự diệt tận các lậu hoặc’ đúng theo bản thể thật. Trong khi Ta đây biết được như thế, thấy được như thế, thì tâm cũng đã được giải thoát khỏi dục lậu, tâm cũng đã được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm cũng đã được giải thoát khỏi vô minh lậu. Khi đã được giải thoát, trí của Ta đây đã khởi lên rằng: ‘Đã được giải thoát.’ Và Ta đã biết rõ rằng: ‘Sự tái sanh đã cạn kiệt, Phạm hạnh đã sống, việc cần làm đã làm, không còn gì khác cho việc (giải thoát) này nữa.’ Này Bà-la-môn, quả vậy vào canh cuối của đêm Ta đã chứng đạt Minh thứ ba này, vô minh được diệt tận, minh được sanh khởi, bóng tối được diệt tận, ánh sáng được sanh khởi. Như thế ấy là điều (Ta đã thành đạt) trong lúc Ta sống không xao lãng, nỗ lực, quyết tâm. Này Bà-la-môn, chính điều này đã là sự khai mở thứ ba của Ta, tương tợ như con gà con thoát ra từ vỏ trứng vậy.”
17. Khi được nói như thế, Bà-la-môn Verañja đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Ngài Gotama là vị đứng đầu, Ngài Gotama là người cao cả nhất. Bạch Ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Bạch Ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Bạch Ngài Gotama, cũng giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, hoặc đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;’ tương tợ như thế, Pháp đã được Ngài Gotama giảng rõ bằng nhiều phương tiện. Tôi đây đi đến nương nhờ Ngài Gotama, Giáo Pháp, và Hội Chúng tỳ khưu. Xin Ngài Gotama chấp nhận tôi là nam cư sĩ đã đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời. Xin Ngài Gotama hãy nhận lời tôi về việc cư trú mùa mưa ở Verañjā cùng với hội chúng tỳ khưu.”
18. Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn, Bà-la-môn Verañja đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
19. Vào lúc bấy giờ, xứ Verañjā có sự khan hiếm về vật thực, khó kiếm ăn, có dịch bệnh,[4]thẻ vật thực được phân phối, không dễ sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Vào lúc bấy giờ, có những người buôn ngựa từ xứ Uttarāpatha đã đến cư trú mùa mưa ở Verañjā cùng với năm trăm con ngựa. Ở các bãi nhốt ngựa, họ có chuẩn bị từng phần lúa mạch[5] cho các vị tỳ khưu. Vào buổi sáng, các vị tỳ khưu mặc y cầm y bát rồi đi vào trong thành Verañjā để khất thực. Khi không nhận được đồ ăn khất thực, các vị đi đến khất thực ở các bãi nhốt ngựa và mang về tu viện (mỗi vị) một phần lúa mạch. Các vị giã đi giã lại trong cối giã rồi thọ dụng. Đại đức Ānanda nghiền phần lúa mạch ở tảng đá rồi dâng lên đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn thọ dụng thức ấy.
20. Quả vậy, đức Thế Tôn đã nghe tiếng cối giã. Các đấng Như Lai dầu biết vẫn hỏi, dầu biết các vị vẫn không hỏi, biết đúng thời các vị mới hỏi, biết đúng thời các vị vẫn không hỏi. Các đấng Như lai hỏi có liên quan đến lợi ích và không (hỏi việc) không có liên quan đến lợi ích. Khi không có liên quan đến lợi ích các đấng Như Lai có cách để cắt đứt vấn đề. Chư Phật Thế Tôn hỏi các vị tỳ khưu bởi hai lý do: “Chúng ta sẽ thuyết Pháp hoặc sẽ quy định điều học cho các đệ tử.”
Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng: – “Này Ānanda, tiếng cối giã ấy là gì vậy?” Khi ấy, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này Ānanda, tốt lắm! Tốt lắm! Này Ānanda, (điều ấy) đã được khắc phục bởi các ngươi là những người hoàn thiện. Về sau này, con người sẽ chê bai cơm gạo sāli và thịt.”
21. Sau đó, đại đức Mahāmoggallāna đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Mahāmoggallāna đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch Ngài, hiện nay Verañjā có sự khan hiếm về vật thực, khó kiếm ăn, có dịch bệnh, thẻ vật thực được phân phối, không dễ sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Bạch Ngài, bề mặt bên dưới của đại địa cầu này có chất như là mật ong, không cặn bã, và có hương vị y như thế. Bạch Ngài, thật tốt thay nếu con lật ngửa quả địa cầu ra (để rồi) các tỳ khưu sẽ thọ dụng chất bổ dưỡng (ấy).”[6]
– “Này Moggallāna, còn các chúng sanh sống ở quả địa cầu thì ngươi sẽ giải quyết thế nào?”
– “Bạch Ngài, con sẽ biến hoá một bàn tay trở thành giống như đại địa cầu và sẽ di chuyển chúng sanh sống ở quả địa cầu đến đó, rồi con sẽ lật ngửa quả địa cầu ra bằng cánh tay kia.”
– “Này Moggallāna, thôi đi. Ngươi chớ thích thú để lật ngửa quả địa cầu ra nữa khiến chúng sanh sẽ phải gánh chịu sự xáo trộn.”
– “Bạch Ngài, thật tốt thay nếu tất cả hội chúng tỳ khưu có thể đi đến Uttarakuru để khất thực.”
– “Này Moggallāna, thôi đi. Ngươi chớ thích thú đến việc đi đến Uttarakuru để khất thực của toàn bộ hội chúng tỳ khưu nữa.”
22. Khi ấy, đại đức Sāriputta trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã khởi lên: “Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đã không tồn tại lâu dài? Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đã tồn tại lâu dài?”
23. Sau đó vào lúc chiều tối, đại đức Sāriputta khi xuất khỏi thiền tịnh đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Sāriputta đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch Ngài, trường hợp con trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã khởi lên: ‘Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đã không tồn tại lâu dài? Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đã tồn tại lâu dài?’
24. Bạch Ngài, vậy thì Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đã không tồn tại lâu dài? Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đã tồn tại lâu dài?”
– “Này Sāriputta, Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Vipassī, thời đức Thế Tôn Sikhī, và thời đức Thế Tôn Vessabhū đã không tồn tại lâu dài. Này Sāriputta, Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Kakusandha, thời đức Thế Tôn Konāgamana, và thời đức Thế Tôn Kassapa đã tồn tại lâu dài.”
25. – “Bạch Ngài, vậy do nhân gì, do duyên gì khiến Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Vipassī, thời đức Thế Tôn Sikhī, và thời đức Thế Tôn Vessabhū đã không tồn tại lâu dài?”
26. – “Này Sāriputta, đức Thế Tôn Vipassī, đức Thế Tôn Sikhī, và đức Thế Tôn Vessabhū đã không ra sức để thuyết giảng Giáo Pháp một cách chi tiết đến các đệ tử và các vị ấy đã có ít suttaṃ, geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthā, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhutadhammaṃ, vedallaṃ.[7] Điều học cho các đệ tử đã không được quy định và giới bổn Pātimokkha đã không được công bố.
27. Với sự tịch diệt của chư Phật Thế Tôn ấy, với sự tịch diệt của các Thinh Văn đã được giác ngộ theo chư Phật (ấy), các vị đệ tử về sau này có tên khác nhau, có dòng họ khác nhau, có giai cấp khác nhau, từ gia tộc khác nhau đã xuất gia, các vị ấy đã khiến cho Phạm hạnh ấy biến mất thật nhanh chóng. Này Sāriputta, cũng giống như nhiều bông hoa khác nhau được đặt xuống ở trên tấm ván sàn và không được kết lại với nhau bằng sợi chỉ, cơn gió (sẽ) làm phân tán, làm tung toé, và hủy hoại chúng. Điều ấy có nguyên nhân thế nào? Này Sāriputta, giống như việc (các bông hoa) không được kết lại với nhau bằng sợi chỉ, này Sāriputta tương tợ y như thế với sự tịch diệt của chư Phật Thế Tôn ấy, với sự tịch diệt của các Thinh Văn đã được giác ngộ theo chư Phật (ấy), các vị đệ tử về sau này có tên khác nhau, có dòng họ khác nhau, có giai cấp khác nhau, từ gia tộc khác nhau đã xuất gia, các vị ấy đã khiến cho Phạm hạnh ấy biến mất thật nhanh chóng.
28. Và chư Phật Thế Tôn ấy (chỉ) ra sức dùng tâm biết được tâm để giáo huấn các đệ tử. Này Sāriputta, trong thời quá khứ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác Vessabhū, ở trong khu rừng ghê rợn nọ, dùng tâm biết được tâm rồi giáo huấn và chỉ dạy hội chúng tỳ khưu một ngàn vị rằng: ‘Hãy suy tầm như vầy.[8] Chớ suy tầm như thế.[9] Hãy tác ý như vầy.[10] Chớ tác ý như thế.[11] Hãy từ bỏ điều này.[12] Hãy thành tựu rồi an trú điều này.’[13] Này Sāriputta, khi ấy trong lúc được đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác Vessabhū giáo huấn như thế chỉ dạy như thế, các tâm của một ngàn vị tỳ khưu ấy đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Này Sāriputta, vào trường hợp ấy trong khi đã bị kinh sợ đối với khu rừng ghê rợn, người nào chưa dứt bỏ ái dục đi vào khu rừng ấy thì hầu hết các sợi lông sẽ dựng đứng lên.
29. Này Sāriputta, đây là nhân đây là duyên khiến Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Vipassī, thời đức Thế Tôn Sikhī, và thời đức Thế Tôn Vessabhū đã không tồn tại lâu dài.”
30. – “Bạch Ngài, vậy do nhân gì, do duyên gì khiến Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Kakusandha, thời đức Thế Tôn Konāgamana, và thời đức Thế Tôn Kassapa đã tồn tại lâu dài?”
31. – “Này Sāriputta, đức Thế Tôn Kakusandha, đức Thế Tôn Konāgamana, và đức Thế Tôn Kassapa đã ra sức để thuyết giảng Giáo Pháp một cách chi tiết đến các đệ tử và các vị ấy đã có nhiều suttaṃ, geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthā, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhūtadhammaṃ, vedallaṃ. Điều học cho các Thinh Văn đã được quy định và giới bổn Pātimokkha đã được công bố.
32. Với sự tịch diệt của chư Phật Thế Tôn ấy, với sự tịch diệt của các Thinh Văn đã được giác ngộ theo chư Phật (ấy), các vị đệ tử về sau này có tên khác nhau, có dòng họ khác nhau, có giai cấp khác nhau, từ gia tộc khác nhau đã xuất gia, các vị ấy đã duy trì Phạm hạnh ấy lâu dài và trường cửu. Này Sāriputta, cũng giống như nhiều bông hoa khác nhau được đặt xuống ở trên tấm ván sàn và được kết lại với nhau bằng sợi chỉ, cơn gió (sẽ) không làm tản mác, không làm tung toé, và không hủy hoại chúng. Điều ấy có nguyên nhân thế nào? Này Sāriputta, giống như việc (các bông hoa) được kết lại với nhau bằng sợi chỉ; này Sāriputta tương tợ như thế với sự tịch diệt của chư Phật Thế Tôn ấy, với sự tịch diệt của các Thinh Văn đã được giác ngộ theo chư Phật (ấy), các vị đệ tử về sau này có tên khác nhau, có dòng họ khác nhau, có giai cấp khác nhau, từ gia tộc khác nhau đã xuất gia, các vị ấy đã duy trì Phạm hạnh ấy lâu dài và trường cửu.
33. Này Sāriputta, đây là nhân, đây là duyên khiến Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Kakusandha, thời đức Thế Tôn Konāgamana, và thời đức Thế Tôn Kassapa đã tồn tại lâu dài.”
34. Sau đó, đại đức Sāriputta đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, và đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch đức Thế Tôn, nay là thời điểm của việc ấy. Bạch đấng Thiện Thệ, nay là thời điểm của việc ấy, (tức là thời điểm) đức Thế Tôn nên quy định điều học cho các đệ tử, nên công bố giới bổn Pātimokkha; như thế Phạm hạnh này có thể được tiếp tục và tồn tại lâu dài.”
35. – “Này Sāriputta, ngươi hãy chờ đợi! Này Sāriputta, ngươi hãy chờ đợi! Trong trường hợp ấy, chỉ có Như Lai mới biết thời điểm. Này Sāriputta, cho đến khi nào ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện ở hội chúng thì cho đến khi ấy bậc Đạo Sư chưa quy định điều học cho các đệ tử và chưa công bố giới bổn Pātimokkha. Này Sāriputta, chính bởi vì ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện ở hội chúng nên bậc Đạo Sư quy định điều học cho các đệ tử và công bố giới bổn Pātimokkha nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy.
36. Này Sāriputta, cho đến khi nào hội chúng chưa đạt đến sự lớn mạnh về số lượng thì cho đến khi ấy ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện ở hội chúng. Này Sāriputta, chính bởi vì hội chúng đạt đến sự đông đảo về số lượng nên ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện ở hội chúng, nên bậc Đạo Sư quy định điều học cho các đệ tử và công bố giới bổn Pātimokkha nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy.
37. Này Sāriputta, cho đến khi nào hội chúng chưa đạt đến sự lớn mạnh về việc phát triển thì cho đến khi ấy ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện ở hội chúng. Này Sāriputta, chính bởi vì hội chúng đạt đến sự lớn mạnh về việc phát triển nên ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện ở hội chúng, nên bậc Đạo Sư quy định điều học cho các đệ tử và công bố giới bổn Pātimokkha nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy.
38. Này Sāriputta, cho đến khi nào hội chúng chưa đạt đến sự dồi dào về lợi lộc thì cho đến khi ấy ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện ở hội chúng. Này Sāriputta, chính bởi vì hội chúng đạt đến sự dồi dào về lợi lộc nên ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện ở hội chúng, nên bậc Đạo Sư quy định điều học cho các đệ tử và công bố giới bổnPātimokkha nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy.
39. Này Sāriputta, cho đến khi nào hội chúng chưa đạt đến sự lớn mạnh về việc học nhiều thì cho đến khi ấy ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện ở hội chúng. Này Sāriputta, chính bởi vì hội chúng đạt đến sự lớn mạnh về việc học nhiều nên ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện ở hội chúng, nên bậc Đạo Sư quy định điều học cho các đệ tử và công bố giới bổn Pātimokkha nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy.
40. Này Sāriputta, bởi vì hội chúng tỳ khưu không có ô nhiễm, không có tội lỗi, có ác pháp đã lìa, được trong sạch, đã an trú vào mục đích.[14] Này Sāriputta, bởi vì trong số năm trăm tỳ khưu này, vị tỳ khưu thấp nhất (đã) là vị Nhập Lưu, không còn pháp bị đọa, được bền vững, và hướng đến sự giác ngộ.”
41. Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng: – “Này Ānanda, điều này quả nhiên đã trở thành thông lệ của các đấng Như Lai là khi các vị cư trú mùa mưa do những ai đã thỉnh mời thì các vị không ra đi du hành trong xứ sở khi chưa thông báo cho những người ấy. Này Ānanda, chúng ta sẽ thông báo cho Bà-la-môn Verañja này.” – “Bạch Ngài, xin vâng.” Đại đức Ānanda đã đáp lời đức Thế Tôn.
42. Sau đó, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát cùng với đại đức Ānanda là Sa-môn thị giả đi đến tư gia của Bà-la-môn Verañja, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn.
43. Khi ấy, Bà-la-môn Verañja đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã nói với Bà-la-môn Verañja đang ngồi một bên điều này: – “Này Bà-la-môn, được ông thỉnh mời chúng tôi đã trú qua mùa mưa. Giờ chúng tôi thông báo ông rằng chúng tôi muốn ra đi du hành trong xứ sở.”
44. – “Bạch Ngài Gotama, sự thật là các vị đã được tôi thỉnh mời và đã trú qua mùa mưa. Tuy nhiên, việc cúng dường là chưa được dâng cúng. Và điều ấy quả không phải là không có vật bố thí, cũng không phải là không có lòng bố thí. Trong trường hợp này làm sao có thể đạt được điều ấy? Bởi vì cuộc sống tại gia có nhiều phận sự và có nhiều việc cần phải làm. Xin Ngài Gotama nhận lời buổi trai phạn của tôi vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.” Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng.
45. Sau đó, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Bà-la-môn Verañja bằng bài Pháp thoại, rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy, và ra đi.
46. Sau đó, khi trải qua đêm ấy Bà-la-môn Verañja đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm tại tư gia của mình rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn rằng: – “Bạch Ngài Gotama, đã đến giờ. Thức ăn đã chuẩn bị xong.”
47. Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y cầm y bát đi đến tư gia của Bà-la-môn Verañja, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, Bà-la-môn Verañja đã tự tay làm hài lòng và toại ý hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời bình bát, Bà-la-môn Verañja đã choàng lên đức Thế Tôn với ba y và đã choàng lên mỗi một vị tỳ khưu với một xấp vải đôi. Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Bà-la-môn Verañja bằng bài Pháp thoại, rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy, và ra đi.
48. Sau đó, khi đã ngụ tại Verañjā theo như ý thích, đức Thế Tôn đã đi dọc theo Soreyya, Saṅkassa, Kaṇṇakujja, và đến được bến đò Payāga.[15] Sau khi đến nơi, Ngài đã vượt qua sông Gaṅgā tại bến đò Payāga và đã ngự đến thành Bārāṇasī. Sau đó, khi đã ngụ tại thành Bārāṇasī theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành đến thành Vesālī. Trong khi tuần tự du hành, Ngài đã ngự đến thành Vesālī. Tại nơi ấy, trong thành Vesālī, đức Thế Tôn ngụ tại Mahāvana, nơi giảng đường Kūṭāgāra.
Dứt tụng phẩm Verañjā.
–ooOoo–
[1] Theo ngài Buddhaghosa, Verañjā là tên của một thành phố, Pucimanda là cây Nimba (Từ điển Pāli-English của Pali Text Society cho biết đó là một loại cây có lá đắng và gỗ cứng), Naḷeru là tên của một Dạ-xoa, và đức Thế Tôn đã đi đến và ngự ở khu vực lân cận của cây ấy (Vin.A. i, 108-109).
[2] Ông Bà-la-môn dùng từ arasarūpo để chỉ trích đức Phật sống không thuận theo tập quán là người trẻ nên cung kính, hoặc đứng dậy, hoặc mời chỗ ngồi đối với các vị già cả, uy tín, v.v… (VinA. i, 131-132). Còn đức Thế Tôn cũng sử dụng lại từ arasarūpo nhưng giải thích là Ngài sống không còn bị vướng bận bởi sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc lạc, là năm đối tượng thích ý đã được tầm cầu bởi năm giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân. Ở các phần kế tiếp, khi chỉ trích đức Phật là “không biết thưởng thức,” “thuyết về không hành động,” “có sự ghê tởm,” “là người từ bỏ,” là người thiêu đốt,” vị Bà-la-môn cũng nhằm mục đích ám chỉ việc đức Phật sống không theo tập quán, nghĩa là không cung kính, hoặc không đứng dậy, hoặc không mời chỗ ngồi đến các vị già cả, uy tín, v.v…
[3] Vị bà-la-môn chỉ trích rằng đức Phật thuyết về đoạn kiến (ucchedavāda) chủ trương sau đời này không có đời khác (VinA. i, 134).
[4] Chú Giải ghi rằng: “Có nhiều xương trắng nằm rải rác vì có quá nhiều người chết đói hoặc là tên của một loại bệnh mốc trắng ở cây lúa” (VinA. i, 174-175).
[5] Theo ngài Buddhaghosa, lúa mạch (pukakaṃ) này đã được tách vỏ trấu và hấp chín. Các người buôn ngựa đem theo lúa mạch để cho ngựa ăn ở những vùng không kiếm ra cỏ và họ đã xén phần ăn sáng của ngựa để dâng đến các vị tỳ khưu (VinA. i, 176). Mỗi phần lúa mạch như vậy là 1 pattha (đơn vị đo thể tích). Pattha là phần vật thực có khả năng nuôi sống một người trong ngày, bằng lượng chứa của một nālī. (VinA. i, 176). Ngài Mahāsamaṇa Chao giải thích ở tác phẩm Vinayamukha thì pattha có thể tích bằng hai bàn tay bụm lại (tập I, 236).
[6] pappoṭakojaṃ = patṭhavimaṇḍaṃ, dịch chất tiết ra từ trái đất (VinA. i, 182).
[7] Ở tài liệu Saddhammasaṅgaha – Diệu Pháp Yếu Lược có lời giải thích chi tiết về chín thể loại này như sau: “Thế nào là có chín phần khi nói về Thể (aṅga)? Bởi vì toàn bộ gồm có chín hình thức khác biệt, đó là sutta, geyya, veyyākaraṇa, gāthā, udāna, itivuttaka, jātaka, abbhūtadhamma, vedalla. Trong trường hợp này, Ubhatovibhaṅga, Niddesa, Khandhaka, Parivāra, các bài kinh Maṅgalasutta, Ratanasutta, Nalakasutta, Tuvaṭakasutta trong Suttanipāta – Kinh Tập, và các lời dạy của đấng Như Lai có tựa đề là Kinh (suttaṃ) thì được xếp vào thể SUTTA. Các bài Kinh có xen các bài kệ vào được biết là thể GEYYA; đặc biệt toàn bộ Thiên Có Kệ (Sagāthāvagga) trong Kinh Tương Ưng Bộ là thể GEYYA. Toàn bộ Tạng Vi Diệu Pháp, các bài kinh không có xen các bài kệ, và các lời dạy khác của đức Phật không thuộc tám loại trên được xếp vào thể VEYYĀKARAṆA. Kinh Pháp Cú, Trưởng Lão Tăng Kệ, Trưởng Lão Ni Kệ, các bài có tên là kinh nhưng chỉ là kệ trong Suttanipāta – Kinh Tập thì được xếp vào thể GĀTHĀ. Tám mươi hai bài kinh liên quan đến các bài kệ do tuệ giác hoan hỷ được xếp vào thể UDĀNA. Một trăm mười hai bài kinh được giới thiệu bằng: “Vuttaṃ h’ etaṃ Bhagavatā ti” (Đức Thế Tôn thuyết về điều ấy như vầy) thì được xếp vào thể ITIVUTTAKA. Năm trăm năm mươi bài kinh Bổn Sanh bắt đầu bằng Bổn Sanh Apannaka được xếp vào thể JĀTAKA. Tất cả các bài kinh liên quan đến pháp kỳ diệu phi thường và được giới thiệu như sau: “Này các tỳ khưu, có bốn pháp kỳ diệu phi thường ở Ānanda,” được xếp vào thểABBHŪTADHAMMA. Tất cả các bài kinh được hỏi và được liên tục ghi nhận trong sự hiểu biết và hoan hỷ như các bài kinh Cullavedalla, Mahāvedalla, Sammādiṭṭhi, Sakkapañhā, Saṅkhāra-bhājaniya, Mahāpuṇṇama, v.v…được xếp vào thể VEDALLA. Như thế khi đề cập đến Thể thì có chín phần” (Saddhammasaṅgaha – Diệu Pháp Yếu Lược, Chương I, câu 28).
[8] Suy tầm về ly dục, suy tầm về vô sân, và suy tầm vô hại (VinA. i, 188).
[9] Chớ suy tầm về ngũ dục, chớ suy tầm về sân hận, chớ suy tầm về hãm hại (Sđd.).
[10] Tác ý đến vô thường, tác ý đến khổ não, tác ý đến vô ngã, tác ý đến bất tịnh (Sđd.).
[11] Chớ tác ý đến bốn điều đối nghịch trên là: thường, lạc, ngã, tịnh (Sđd.).
[12] Hãy từ bỏ bất thiện pháp (Sđd.).
[13] Hãy thành tựu và an trú vào thiện pháp (Sđd.).
[14] Đã an trú vào mục đích (sāre patiṭṭhito): được giải thích là: Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, và Tri kiến về sự giải thoát (VinA. i, 195).
[15] Payāga là một thị trấn ở bên bờ sông Gaṅgā, nay là thành phố Allahabad (ND).
TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)