NHỮNG ĐOẠN VĂN TIẾNG PALI

Được Trích Dẫn Trong Các Bài Giảng

 

NGÀY THỨ HAI

Tumhe hi kiccam atappam,

akkhataro tathagata.

Patipanna pamokkhanti

jhayino mara-bandhana.

—Dhammapada, XX. 4(276)

 

Sabba-papassa akaranam,

kusalassa upasampada,

sa-citta pariyodapanam—

etam Buddhana-sasanam.

—Dammapada, XIV. 5(183)

 

NGÀY THỨ BA

Sabbo adipito loko,

sabbo loko padhupito;

sabbo pajjalito loko,

sabbo loko pakampito.

Akampitam apajjalitam,

aputhujjana-sevitam,

agati yatha marassa,

tatha me nirato mano.

—Upacala Sutta, Samyutta Nikaya, V.7

 

Ta phải tự tu tập;

Bậc Giác Ngộ chỉ dẫn đường thôi.

Những ai thực hành thiền

sẽ thoát vòng sinh tử.

“Tránh làm mọi điều ác,

thực hiện các việc lành,

gạn lọc tâm ý sạch” —

là lời chư Phật dạy.

 

Thế gian chìm trong lửa,

thế gian ngập trong khói;

thế gian đang bùng cháy,

thế gian đang rung động.

 

Không rung động, cũng chẳng cháy,

Chỉ bậc thánh chứng nghiệm,

Nơi không còn sinh tử,

Là nơi tâm hoan hỉ.

 

NGÀY THỨ TƯ

Mano-pubbangama dhamma,

mano-settha, mano-maya.

Manasa ce padutthena

bhasati va karoti va,

tato nam dukkhamanveti

cakkam’va vahato padam.

 

Mano-pubbangama dhamma,

mano-settha, mano-maya.

Manasa ce pasannena

bhasati va karoti va,

tato nam sukhamanveti

chaya’va anapayini.

—Dhammapada, I. 1 & 2.

 

Idha tappati, pecca tappati,

papakari ubhayattha tappati.

Papam me katan’ti tappati,

bhiyyo tappati duggatim gato.

 

Idha nandati, pecca nandati,

katapunno ubhayattha nandati.

Punnam me katan’ti nandati,

bhiyyo nandati suggatim gato.

—Dammapada, I. 17 &18.

 

NGÀY THỨ NĂM

 

Jati’pi dukkha; jara’pi dukkha;

vyadhi’pi dukkha; maranam’pi dukkham;

appiyehi sampayogo dukkho;

piyehi vippayogo dukkho;

yam’p’iccham na labhati tam’pi dukkham;

sankhittena panc’upadanakkhandha dukkha.

 

Tâm đi trước mọi điều,

tâm làm chủ, tâm tạo.

Nếu với tâm bất tịnh

nói năng và hành động,

đau khổ sẽ theo sau

như xe theo vật kéo.

 

Tâm đi trước mọi điều,

tâm làm chủ, tâm tạo.

Nếu với tâm thanh tịnh

nói năng và hành động,

hạnh phúc sẽ theo sau

như bóng chẳng rời hình.

 

Khổ nay khổ về sau,

làm ác hai đời khổ.

Khổ vì thấy mình ác,

thêm buồn, đọa cảnh khổ.

 

Vui nay vui về sau,

làm thiện hai đời sướng.

Vui vì thấy mình lành,

thêm vui, hưởng cảnh vui.

 

Sinh là khổ, già khổ;

bệnh là khổ, chết khổ;

gặp điều không như ý;

xa rời điều ưa thích;

không được điều mong muốn;

ràng buộc năm tập hợp (ngũ uẩn);

tất cả đều là khổ.

 

Paticca-sumappada

Anuloma:

Avijja-paccaya sankhara;

sankhara-paccaya vinnanam;

vinnana-paccaya nama-rupam;

nama-rupa-paccaya salayatanam;

salayatana-paccaya phasso;

phassa-paccaya vedana;

vedana-paccaya tanha;

tanha-paccaya upadanam;

upadana-paccaya bhavo;

bhava-paccaya jati;

jati-paccaya jara-maranam-

soka-parideva-

dukkha-domanassupayasa sambhavanti.

Evame-tassa kevalassa

dukkhakkhandhassa samudayo hoti.

 

Chuỗi Nhân Duyên Sinh

Theo chiều thuận:

Với nền tảng của vô minh,

phản ứng (hành) nảy sinh;

với nền tảng của phản ứng,

hay biết (thức) nảy sinh;

với nền tảng của hay biết,

tâm và thân (danh, sắc) nảy sinh;

với nền tảng của tâm và thân,

lục giác (lục nhập) nảy sinh;

với nền tảng của lục giác,

xúc chạm (xúc) nảy sinh;

với nền tảng của xúc chạm,

cảm giác (thọ) nảy sinh;

với nền tảng của cảm giác,

ham muốn và ghét bỏ (ái) nảy sinh;

với nền tảng của ham muốn và ghét bỏ,

bám víu (thủ) nảy sinh;

với nền tảng của bám víu,

tiến trình thành hình (hữu) nảy sinh;

với nền tảng của tiến trình thành hình,

sinh ra đời (sinh) nảy sinh;

với nền tảng của sinh ra đời,

già và chết (lão và tử) nảy sinh;

cùng với buồn rầu, phiền muộn,

đau khổ về tinh thần, thể xác và hệ lụy.

Cứ như thế biển khổ này nảy sinh.

 

Patiloma:

Avijjaya tv’eva asesa viraga-nirodha,

sankhara-nirodho;

sankhara-nirodha

vinnana-nirodho;

vinnana-nirodha

nama-rupa-nirodho;

nama-rupa-nirodha

salayatana-nirodho;

salayatana-nirodha

phassa-nirodho;

phassa-nirodha

vedana-nirodho;

vedana-nirodha

tnaha-nirodho;

tanaha-nirodha

upadana-nirodho;

upadana-nirodha

bhava-nirodho;

bhava-nirodha

jati-nirodho;

jati-nirodha

jara-maranam-

soka-parideva-

dukkha-domanassupayasa nirujjhanti.

Evame-tassa kevalassa

dukkhakkhandassa nirodho hoti.

—Paticca-samuppada Sutta,

Samyutta Nikaya, XII (I). 1.

 

Aneka-jati samsaram

sandhavissam anibbisam

gahakarakam gavesanto

dukkha jati punappunam

Gahakaraka! Ditthosi.

 

Puna geham na kahasi.

Sabba te phasuka bhagga,

gahakutam visankhitam.

Visankhara-gatam cittam.

tanhanam khayamajjhaga.

—Dhammapada, XI. 8 & 9 (153 & 154)

Theo chiều nghịch:

 

Xóa bỏ hết vô minh,

phản ứng liền chấm dứt;

khi phản ứng chấm dứt,

hay biết cũng không còn;

hay biết nếu không còn,

thì tâm thân cũng mất;

khi tâm thân đều mất,

thì còn đâu lục nhập;

giác quan nếu không còn,

xúc chạm cũng chấm dứt;

xúc chạm nếu không còn,

mọi cảm giác chấm dứt;

cảm giác nếu chấm dứt,

muốn, ghét không nảy sinh;

muốn, ghét không nảy sinh,

thì ràng buộc chấm dứt;

ràng buộc nếu không còn,

sự thành hình chấm dứt;

tiến trình thành hình diệt,

sự ra đời chấm dứt;

sự ra đời không còn,

già và chết chấm dứt;

buồn rầu cùng sầu muộn,

khổ tinh thần, thể xác, cùng với bao hệ lụy.

Toàn biển khổ chấm dứt.

 

Qua bao lần sinh tử

Ta tìm hoài chẳng thấy

người xây dựng nhà này;

khổ thay phải tái sinh.

Hỡi người thợ xây nhà!

Nay ta đã thấy ngươi.

Ngươi không xây được nữa.

Đòn tay ngươi đã gãy,

cột kèo bị phá hủy.

Tâm ta đã sạch nghiệp;

ham muốn thảy tiêu tan.

 

Khinam puranam navam natthi sambhavam,

viratta citta ayatike bhavasmim.

Te khina-bija avirulhi chanda.

Nibbanti dhira yathayam padipo.

—Ratana Sutta, Sutta Nipata, II. 1.

 

NGÀY THỨ SÁU

Sabbe sankhara anicca’ti;

yada pannaya passati,

atha nibbindati dukkhe—

esa maggo visuddhiya.

—Dhammapada, XX. 5(277)

 

Sabba-danam Dhamma-danam jinati,

sabbam rasam Dhamma-raso jinati,

sabbam ratim Dhamma-rati jinati,

tanhakkhayo sabba-dukkham jinati.

—Dammapada, XXIV. 21(354)

 

NGÀY THỨ BẢY

Vedana samosarana sabbe dhamma.

—Mulaka Sutta, Anguttara Nikaya, VIII. ix. 3 (83)

 

Nghiệp cũ đã diệt trừ,

nghiệp mới không sinh khởi,

không còn mong tái sinh.

Hạt giống bị phá hủy,

ham muốn không phát sinh.

Với tâm ý như thế

Bậc có trí chấm dứt

như tắt lửa ngọn đèn.

 

Phản ứng vốn vô thường;

hiểu vậy với tuệ giác,

ta xa lìa đau khổ;

ấy cách thanh lọc tâm.

 

Ban tặng người Dhamma

quý hơn mọi thứ quà;

hương vị của Dhamma

quý hơn mọi hương vị;

niềm vui từ Dhamma

quý hơn mọi khoái lạc;

diệt trừ tâm ham muốn

vượt thắng mọi khổ đau.

 

Mọi thứ sinh trong tâm

đều kèm theo cảm giác.

 

—Kimarammana purisassa sankappa-vitakka uppajjanti’ti?

—Nama-ruparammana bhante’ti.

—Samiddhi Sutta,

Anguttara Nikaya, IX. ii. 4 (14)

 

Yatha’pi vata akase vayanti vividha puthu,

puratthima pacchima ca’pi, uttara atha dakkhina,

saraja araja ca’pi, sita unha ca ekada,

adhimatta paritta ca, puthu vayanti maluta;

tathevimasmim kayasmim samuppajjanti vedana,

sukha-dukkha-samuppatti, adukkhamasukha ca ya.

Yato ca bhikkhu atapi sampajannam na rincati,

tato so vedana sabba parijanati pandito;

So vedana parinnaya ditthe dhamme anasavo,

kayassa bheda Dhammattho, sankhayam

nopeti vedagu.

—Pathama Akasa Sutta, Samyutta Nikaya, XXXVI (II). ii. 12 (2)

 

“Dựa vào cơ sở nào

ý nghĩ, suy tư sinh?”.

“Kính bạch Đức Thế Tôn,

trên cơ sở thân-tâm”.

Giống như giữa bầu trời

ào ào bao gió thổi,

gió từ đông từ tây,

gió từ nam từ bắc,

gió có bụi, không bụi,

gió có lạnh, có nóng,

có gió lớn, gió nhẹ,

gió đủ loại thổi hoài.

Trong thân cũng như thế,

cảm giác luôn nảy sinh,

có cảm giác dễ chịu

có cảm giác khó chịu

và cảm giác trung tính.

 

Khi một vị tu sĩ,

nhiệt thành cần mẫn tu,

không xao lãng ý thức,

một người trí như thế,

hiểu rõ mọi cảm giác.

Nhờ hiểu rõ cảm giác,

rũ bỏ mọi bất tịnh,

ngay trong kiếp sống này.

Và một người như thế,

vào lúc cuối cuộc đời,

vững vàng trong Dhamma,

hoàn toàn hiểu cảm giác,

đạt giai đoạn khó bàn.

 

Yato-yato sammasati

khandhanam udayabbayam,

labhati piti-pamojjam,

amatam tam vijanatam.

—Dhammapada, XX. 15 (374)

 

Namo tassa bhagavato, arahato, samma-sambuddhassa.

 

Ye ca Buddha atita ca,

ye ca Buddha anagata,

paccuppanna ca ye Buddha

aham vandami sabbada.

 

Ye ca Dhamma atita ca,

ye ca Dhamma anagata,

paccuppanna ca ye Dhamma

aham vandami sabbada.

 

Ye ca Sangha atita ca,

ye ca Sangha anagata,

paccuppanna ca ye Sangha

aham vandami sabbada.

 

Imaya Dhammanudhamma

patipattiya.

 

Buddham pujemi,

Dhammam pujemi,

Sangham pujemi.

 

Khi nào và nơi nào

tự ta chứng nghiệm được

sự sinh thành, hoại diệt

của cấu trúc thân-tâm,

sẽ hưởng vui và lạc,

đến giai đoạn không chết

mà bậc thánh chứng ngộ.

 

Xin thành tâm cung kính

Bậc Giải Thoát, Chiến Thắng,

Bậc Giác Ngộ hoàn toàn.

 

Các vị Phật quá khứ,

các vị Phật tương lai,

các vị Phật hiện đời

con luôn luôn cung kính.

 

Dhamma đời quá khứ,

Dhamma ở tương lai,

Dhamma trong hiện tại

con luôn luôn cung kính

 

Sangha đời quá khứ,

Sangha ở tương lai,

Sangha trong hiện tại

con luôn luôn cung kính

 

Dhamma là con đường

con nguyện đi từng bước,

từ đầu đến đích cuối,

nên con tôn thờ Phật,

con ngưỡng mộ Dhamma,

con tôn kính Sangha.

 

Buddha-vandana:

Iti’pi so bhagava,

araham,

samma-sambuddho,

vijja-carana-sampanno,

sugato,

lokavidu,

anuttaro purisa-damma-sarathi,

sattha deva -manussanam,

Buddho Bhagava’ti.

 

Dhamma – vandana:

Svakkhato Bhagavata Dhammo,

sanditthiko,

akaliko,

ehi -passiko,

opanayiko,

paccatam veditabbo vinnuhi’ti.

 

Cung kính Đức Phật:

Ngài là bậc đích thực

tẩy sạch mọi bất tịnh

diệt trừ mọi phiền não,

bằng nỗ lực tự thân

đạt giác ngộ hoàn toàn,

hoàn hảo trong giáo lý ,

hoàn hảo hạnh thực hành,

đến được đích cuối cùng,

hiểu biết toàn vũ trụ,

Thầy dạy cả loài người,

thật không ai sánh bằng,

Thầy dạy cả chư thiên,

Đức Phật, đấng Thế Tôn.

 

Cung kính Dhamma:

Lời dạy của Thế Tôn

được giảng giải rõ ràng,

tự mình có thể thấy,

kết quả được chứng nghiệm

bây giờ và ở đây,

mời gọi người đến thấy,

đưa thẳng đến mục tiêu,

ai cũng chứng nghiệm được

nếu là người có trí.

 

Sangha – vandana:

Supatipanno

Bhagavato savaka -sangho.

Ujupatipanno

Bhagavato savaka -sangho.

Nayapatipanno

Bhagavato savaka -sangho.

Samicipatipanno

Bhagavato savaka -sangho.

Yadidam cattari purisa -yugani,

attha -purisa -puggala,

esa Bhagavato savaka -sangho;

ahuneyyo, pahuneyyo,

dakkhineyyo, anjali -karaniyo,

anuttaram punnakkhettam lokassa’ti. 

—Dhajagga Sutta, Samytta Nikaya, XI (I). 3.

 

NGÀY THỨ TÁM

Anicca vata sankhara,

uppadavaya -dhammino.

Uppajjitva nirujjhanti,

tesam vupasamo sukho.

—Maha-Parinibbana Sutta, Digha Nikaya, II.3..

 

Cung kính Sangha:

Những người tu tập tốt hợp thành một đoàn thể

đệ tử đấng Thế Tôn.

Những người thực hành chuyên

hợp thành một đoàn thể

đệ tử đấng Thế Tôn.

Tu tập với trí tuệ

là người thuộc đoàn thể

đệ tử đấng Thế Tôn.

Tu tập thật đúng đắn

là người thuộc đoàn thể

đệ tử đấng Thế Tôn.

Có thể chia thành bốn,

hoặc chia thành tám loại ,

những người thuộc đoàn thể

đệ tử đấng Thế Tôn;

xứng đáng được cúng dường,

xứng đáng được cung phụng,

xứng đáng được dâng tặng,

xứng đáng được kính lễ,

ruộng phước của thế gian

không ai so sánh được.

 

Những vật do duyên hợp

bản tính vốn vô thường,

sinh ra rồi diệt mất.

Nếu chúng nảy sinh ra

rồi bị trừ diệt mất,

diệt trừ mang phúc lạc.

 

Phutthassa loka-dhammehi,

cittam yassa na kampati,

asokam, virajam, khemam,

etam mangalamuttamam

—Maha-Mangala Sutta, Sutta Nipata, II. 4.

 

Katvana katthamudaram iva gabbhiniya

Cincaya dutthavacanam janakaya majjhe,

santena soma vidhina jitava munindo.

Tam tejasa bhavatu te jayamangalani!

—Buddha-Jayamangala Attagatha.

 

Atta hi attano natho,

atta hi attano gati.

Tasma sannamay’attanam

assam bhadram va vanijo.

—Dhammapada, XXV. 21 (380)

 

NGÀY THỨ CHÍN

Pakarena janati’ti panna.

—Patisambhidamagga, Atthakatha I.1.1, Nanakatha.

 

Đối mặt với thăng trầm,

tâm ta không xáo động,

không phiền muộn, nhiễm ô,

vẫn yên ổn vững vàng,

đấy phúc lạc lớn nhất.

 

Buộc miếng gỗ vào bụng

giả dạng người có thai,

Cinca rắp tâm hại

làm nhục đấng Thế Tôn

giữa hội chúng đông người.

Bằng phương tiện nhẹ nhàng,

hiền hòa bậc thánh trí

chúa tể của người trí

đã chiến thắng vẻ vang.

Với lực của phẩm hạnh

như thế thì ai ai

cũng thắng lợi vẻ vang.

 

Ta là chủ chính mình,

chính ta xây tương lai.

Do vậy hãy rèn luyện

như người buôn ngựa giỏi

huấn luyện ngựa thuần chủng.

 

Trí tuệ là hiểu biết sự việc qua nhiều khía cạnh khác nhau.

 

Danam dadantu saddhaya,

silam rakkhantu sabbada,

bhavana abhirata honto,

gacchantu devatagata.

—Dukkhappattadigathha.

 

NGÀY THỨ MƯỜI

Atta-dipa viharatha,

atta-sarana

ananna-sarana.

Dhamma-dipa viharatha,

Dhamma-sarana,

ananna-sarana.

—Maha-Parinibbana Sutta, Digha Nikaya, II.3.

 

Caratha bhikkhave carikam

bahujana-hitaya, bahujana-sukhaya,

lokanukampaya,

atthaya hitaya sukhaya

devamanussanam.

Ma ekena dve agamittha.

Desetha bhikkhave Dhammam

adikalyanam,

majjhekalyanam, pariyosanakalyanam

sattham sabyanjanam.

Kevalaparipunnam parisuddham

brahmacariyam pakasetha.

Santi satta apparajakkhajatika

assavanata Dhammassa parihayanti.

Bhavissanti Dhammassa annataro.

 

Hết lòng hiến tặng vật,

giới luật giữ gìn nghiêm,

an vui trong thiền tập,

ấy cuộc đời thánh thiện.

 

Hãy tự mình thành đảo,

nơi nương tựa của mình;

không nương tựa nơi khác.

Lấy sự thật làm đảo,

nơi nương tựa của mình;

không nương tựa nơi khác.

 

Tu sĩ hãy lên đường,

vì lợi ích, hạnh phúc

của muôn người thế gian,

vì lòng từ dâng đời,

vì lợi ích, hạnh phúc,

cho cả trời lẫn người.

Hai người đừng đi chung,

mỗi người theo một hướng.

Hãy giảng dạy Dhamma,

lợi ích thật vô vàn,

lợi lạc từ đoạn đầu,

đoạn giữa, cả đoạn sau,

cả lời văn lẫn nghĩa.

Hãy cho mọi người biết,

sống thánh thiện là thế,

đầy đủ và thuần khiết,

không hề thêm hay bớt.

Có nhiều người ít bụi

trong mắt sẽ lạc đường

nếu không biết Dhamma.

Những người mà như thế

nghe sẽ hiểu sự thật.

 

Ye dhamma hetuppabhava

tesam hetum tathagato aha

tesam ca yo nirodho;

evam vadi mahasamano.

—Vinaya, Mahavagga, I. 23 (40)

 

Pannatti thapetva visesena passati’ti vipassana.

—Ledi Sayadaw, Paramattha Dipani.

 

Ditthe ditthamattam bhavissati,

sute suttamattam bhavissati,

mute muttamattam bhavissati,

vinnate vinnatamattam bhavissati.

—Udana, I. x.

 

Sabba kaya patisamvedi

assasissami’ti sikkhati

Sabba kaya patisamvedi

passasissami’ti sikkhati

—Maha-Satipattha Sutta, Digha Nikaya, 22.

 

Mọi sự vật đều sinh

từ nguyên nhân nào đó,

Bậc Giác Ngộ đã giảng

nguyên nhân các sự vật

và cũng dạy cách thức

làm cho chúng diệt đi;

đây chính là “giáo lý”

của bậc Đại Ẩn Sĩ.

 

Vipassana có nghĩa là quan sát sự thật theo một

cách đặc biệt, bằng cách vượt qua sự thật bề ngoài.

 

Trong những gì được thấy

chỉ có cái được thấy;

trong những gì được nghe

chỉ có cái được nghe;

trong những gì được ngửi,

và những gì nếm, chạm

chỉ có cái được ngửi,

và những gì nếm, chạm;

trong những gì hay biết

chỉ có cái được biết.

 

“Cảm nhận khắp thân thể

tôi sẽ thở vào”; thiền giả tập như thế.

“Cảm nhận khắp thân thể

tôi sẽ thở ra”; thiền giả tập như thế.

 

So kaya-pariyantikam vedanam

vedayamano,

kaya-pariyantikam vedanam

vedayami’ti pajanati.

Jivita-pariyantikam vedanam

vedayamano,

jivita-pariyantikam vedanam

vedayami’ti pajanati.

Paathama Gelanna Sutta,

Samyutta Nikaya, XXXVI (II). i. 7.

 

Iti ajjhattam va kaye kayanupassi

viharati,

bahiddha va kaye kayanupassi

viharati,

ajjhatta-bahiddha va kaye

kayanupassi viharati.

Samudaya-dhammanupassi va

kayasmim viharati,

vaya-dhammanupassi va kayasmim

viharati,

samudaya-vaya-dhammanupassi va

kayasmim viharati.

Atthi kayo’ti va pan’assa sati

paccupatthita hoti,

yavadeva nana-mattaya patissati-mattaya

annissito ca viharati

na ca kinci loke upadiyati.

 

Cảm thấy cảm giác khắp mọi nơi

trong phạm vi cơ thể,

thiền giả hiểu, “Tôi đang cảm thấy cảm giác

mọi nơi trong phạm vi cơ thể”.

Cảm thấy cảm giác nơi nào có sự sống

trong phạm vi cơ thể,

thiền giả hiểu, “Tôi đang cảm nhận cảm giác

ở nơi nào có sự sống trong phạm vi cơ thể”.

 

Và cứ thế thiền sinh

liên tục quan sát thân

trong thân từ bên trong;

liên tục quan sát thân

trong thân từ bên ngoài;

liên tục quan sát thân

trong thân từ bên trong

và cả từ bên ngoài.

Và thiền sinh liên tục

quan sát mọi hiện tượng

nảy sinh ở trong thân;

Thiền sinh cũng liên tục

quan sát mọi hiện tượng

diệt mất ở trong thân;

Thiền sinh cứ liên tục

quan sát mọi hiện tượng

Sinh diệt ở trong thân.

Giờ đây thì ý thức

đã được tạo lập rồi

“Đây chính thật là thân”.

Ý thức này phát triển

tới mức độ chỉ còn

đơn thuần chỉ hiểu biết

và đơn thuần quan sát,

và thiền sinh liên tục

tách rời khỏi mọi vật

không còn bám víu nữa

vật gì trên thế gian.

Này hỡi các tu sĩ,

đây là cách các vị

 

Evam’pi kho bhikkheave bhikkhu

kaye kayanupassi viharati.

—Maha-Satipattha Sutta, Digha Nikaya, 22.

 

Ti-ratana sarana:

Buddham saranam gacchami.

Dhammam saranam gacchami.

Sangham saranam gacchami.

 

Panca-sila:

Panatipata veramani sikkhapadam

samadiyami.

Adinnadana veramani sikkhapadam

samadiyami.

Kamesu micchacara veramani sikkhapadam

samadiyami.

Musa-vada veramani sikkhapadam

samadiyami.

Sura-meraya-majja-pamadatthana

veramani sikkhapadam samadiyami.

thật sự và liên tục

quan sát thân trong thân.

 

Quay về nương tựa Tam bảo:

Con quay về nương tựa đức Phật.

Con quay về nương tựa Dhamma.

Con quay về nương tựa Sangha.

 

Năm giới:

Con xin nguyện giữ giới,

không giết hại sinh vật.

Con xin nguyện giữ giới,

không lấy của không cho.

Con xin nguyện giữ giới,

không phạm điều tà dâm.

Con xin nguyện giữ giới,

không nói lời sai trái.

Con xin nguyện giữ giới,

tránh những chất gây say.

Đó là những nguyên nhân

của hành vi bất thiện.

 

Atthanga-sila:

Panatipata veramani sikkhapadam

samadiyami.

Adinnadana veramani sikkhapadam

samadiyami.

Kamesu micchacara veramani sikkhapadam

samadiyami.

Musa-vada veramani sikkhapadam

samadiyami.

Sura-meraya-majja-pamadatthana

veramani sikkhapadam samadiyami.

 

Vikala bhojana veramani sikkhapadam

samadiyami.

Nacca-gita-vadita-visuka-dassana-

mala-gandha-vilepana-dharana-

mandana-vibhusanatthana veramani

sikkhapadam samadiyami.

 

Ucca-sayana maha-sayana veramani

sikkhapadam samadiyami.

 

Tám giới:

Con xin nguyện giữ giới,

không giết hại sinh vật.

Con xin nguyện giữ giới,

không lấy của không cho.

Con xin nguyện giữ giới,

không phạm điều tà dâm.

Con xin nguyện giữ giới,

không nói lời sai trái.

Con xin nguyện giữ giới,

tránh những chất gây say.

Đó là những nguyên nhân

của hành vi bất thiện.

Con xin nguyện giữ giới,

không ăn trái giờ giấc.

Con xin nguyện giữ giới,

không nhảy múa, ca hát,

không chơi các nhạc cụ,

mọi hình thức tiêu khiển,

trang sức bằng những thứ

tràng hoa và hương thơm,

phấn son và nữ trang.

Con xin nguyện giữ giới,

Không nằm những giường cao

Sang trọng và xa xỉ.

 

Bài viết trích từ cuốn Tóm Lược Pháp Thoại Trong Khoá Thiền Vipassana 10 Ngày do Thiền Sư S.N. Goenka giảng dạy. Tải cuốn sách file PDF tại đây.

 

AUDIOS CUỐN TÓM LƯỢC PHÁP THOẠI

Các bài viết trong sách

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *