BÀI TỤNG BUỔI SÁNG – NGÀY THỨ 2 KHOÁ THIỀN VIPASSANA 10 NGÀY
Buổi sáng ngày thứ 2 trong khoá thiền Vipassana 10 ngày, Ngài S.N. Goenka tụng bài kinh Ratana Sutta – Kinh Châu Báu
NỘI DUNG BÀI TỤNG BUỔI SÁNG – NGÀY THỨ 2 – TIẾNG PALI, TIẾNG ẤN ĐỘ, TIẾNG ANH, TIẾNG VIỆT NAM
Bài tụng ngày thứ 2 khoá thiền Vipassana 10 ngày – Pali Chanting – S.N. Goenka.pdf
AUDIO CÁC BÀI TỤNG BUỔI SÁNG:
VIDEO BÀI TỤNG BUỔI SÁNG NGÀY 2:
NỘI DUNG BÀI TỤNG NGÀY THỨ 2 (TIẾNG HINDI – PALI – ENGLISH – VIETNAM)
TIẾNG PALI & HINDI | TIẾNG VIỆT | TIẾNG ANH |
MORNING CHANTING _ DAY 2 – BÀI TỤNG BUỔI SÁNG _ NGÀY THỨ 2 (Pali)
1.a) Jāgo logo jagata ke, bītī kālī rāta; huā ujālā dharama kā maṅgala huā prabhāta. Āo prāṇī viśva ke, suno Dharama kā jñāna; isa meṅ sukha hai, śānti hai, mukti mokṣa nirvāṇa. Yaha to vāṇi buddha kī, śuddha dharama kī jyota; akṣara akṣara meṅ bharā, maṅgala otaparota. Buddha-vāṇī mīṭhī ghaṇī, misarī ke se bola; kalyāṇī maṅgalamayī, bharā amṛtarasa ghola. 2.b) Deva-āhvānasuttaṃ Ye santā santa-cittā, tisaraṇa- saraṇā, ettha lokantare vā;
bhummābhummā ca devā, guṇa-gaṇa-gahaṇā, byāvaṭā sabbakālaṃ;
ete āyantu devā, (3x) vara-kanaka-maye, Merurāje vasanto; santo santosa-hetuṃ, munivara-vacanaṃ, sotumaggaṃ samaggaṃ. (3x) 3.) namo tassa bhagavato arahato sammā-sambuddhassa. (3x)
4.) Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi; dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi; saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi. 5.) Imāya dhammānudhammapaṭipattiyā, buddhaṃ pūjemi; dhammaṃ pūjemi; saṅghaṃ pūjemi. 6.) Ye ca Buddhā atītā ca, ye ca Buddhā anāgatā; paccuppannā ca ye Buddhā, ahaṃ vandāmi sabbadā. Ye ca Dhammā atītā ca, ye ca Dhammā anāgatā; paccuppannā ca ye Dhammā, ahaṃ vandāmi sabbadā.
Ye ca Saṅghā atītā ca, ye ca Saṅghā anāgatā; paccuppannā ca ye Saṅghā, ahaṃ vandāmi sabbadā.
7.) natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Buddho me saraṇaṃ varaṃ; etena sacca-vajjena, jayassu jaya- maṅgalaṃ.
natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Dhammo me saraṇaṃ varaṃ; etena sacca-vajjena, bhavatu te jaya-maṅgalaṃ.
natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Saṅgho me saraṇaṃ varaṃ; etena sacca- vajjena, bhavatu sabba-maṅgalaṃ. Tiratana Vandanā 8.) Iti’pi so bhagavā arahaṃ, sammā-sambuddho, vijjācaraṇa- sampanno, sugato, lokavidū, anuttaro purisa-damma-sārathī, satthā deva-manussānaṃ, Buddho Bhagavā ‘ti.
9.) Svākkhāto Bhagavatā Dhammo,
sandiṭṭhiko,
akāliko,
ehi-passiko, opaneyyiko, paccattaṃ veditabbo viññūhī’ ti.
10.) Suppaṭipanno Bhagavato sāvaka-saṅgho; ujuppaṭipanno Bhagavato sāvaka-saṅgho; ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvaka saṅgho; sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvaka-saṅgho; yadidaṃ cattāri purisa-yugāni, aṭṭha-purisa-puggalā, esa Bhagavato sāvaka-saṅgho; āhuneyyo, pāhuneyyo, dakkhiṇeyyo, añjali-karaṇīyo, anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā’ti. Ratana Suttaṃ
Koṭisatasahassesu, cakkavālesu devatā; yassāṇaṃ paṭigaṇhanti, yañca vesāliyā pure; rogāmanussa-dubbhikkhaṃ, sambhūtaṃ tividhaṃ bhayaṃ; khippamantaradhāpesi, parittaṃ taṃ bhaṇāmahe. Yānīdha bhūtāni samāgatāni, bhummāni vā yāni’va antalikkhe; sabbeva bhūtā sumanā bhavantu, athopi sakkacca suṇantu bhāsitaṃ. Tasmā hi bhūtā nisāmetha sabbe, mettaṃ karotha mānusiyā pajāya; divā ca ratto ca haranti ye baliṃ, tasmā hi ne rakkhatha appamattā. Yaṃ kiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā, saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ; na no samaṃ atthi tathāgatena, idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ; etena saccena suvatthi hotu. Khayaṃ virāgaṃ amataṃ paṇītaṃ, yadajjhagā sakyamunī samāhito; na tena dhammena samatthi kiñci, idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ; etena saccena suvatthi hotu.
Yaṃ buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ, samādhimānantarikaññamāhu; samādhinā tena samo na vijjati, idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ; etena saccena suvatthi hotu. Ye puggalā aṭṭha sataṃ pasatthā, cattāri etāni yugāni honti; te dakkhiṇeyyā Sugatassa sāvakā, etesu dinnāni mahapphalāni; idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu.
Ye suppayuttā manasā daḷhena, nikkāmino Gotamasāsanamhi; te pattipattā amataṃ vigayha, laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā; idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu.
Yathindakhīlo paṭhaviṃ sito siyā, catubbhi vātehi asampakampiyo; tathūpamaṃ sappurisaṃ vadāmi, yo ariyasaccāni avecca passati;
idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu. Ye ariyasaccāni vibhāvayanti, gambhīrapaññena sudesitāni; kiñcāpi te honti bhusappamattā, na te bhavaṃ aṭṭhamamādiyanti; idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu.
Sahāvassa dassana-sampadāya, tayassu dhammā jahitā bhavanti; sakkāyadiṭṭhi vicikicchitaṃ ca, sīlabbataṃ vā pi yadatthi kiñci Catūhapāyehi ca vippamutto, chaccābhiṭhānāni abhabbo kātuṃ; idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu.
Kiñcāpi so kammaṃ karoti pāpakaṃ, kāyena vācā uda cetasā vā;abhabbo so tassa paṭicchādāya, abhabbatā diṭṭhapadassa vuttā; idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu.
Vanappagumbe yathā phussitagge, gimhānamāse paṭhamasmiṃ gimhe; tathūpamaṃ dhammavaraṃ adesayi, nibbānagāmiṃ paramaṃ hitāya; idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu. Varo varaññū varado varāharo, anuttaro dhammavaraṃ adesayi; idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu.
Khīṇaṃ purāṇaṃ navaṃ natthi sambhavaṃ, virattacittāyatike bhavasmiṃ; te khīṇabījā avirūḷhichandā, nibbanti dhīrā yathāyaṃ padīpo; idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu. Post-Pāli Sutta Yānīdha bhūtāni samāgatāni, bhummāni vā yāni’va antalikkhe; tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ, buddhaṃ namassāma suvatthi hotu;
dhammaṃ namassāma suvatthi hotu; saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu.
namana karūṅ gurudeva ko, caraṇana śīśa navāya; dharama ratana aisā diyā, pāpa ukhaḍatā jāya. Aisā cakhāyā dharama rasa, biṣayana rasa na lubhāya; dharama sāra aisā diyā, chilake diye chuḍāya.
roma roma kirataga huā, ṛṇa na cukāyā jāya; jīūṅ jīvana dharama kā, dukhiyana kī sevā karūṅ, yahī ucita upāya. Isa sevā ke puṇya se, bhalā sabhī kā hoya; sabake mana jāge dharama, sabakā maṅgala hoya. Bhavatu sabba maṅgalaṃ(3x)
Sabakā maṅgala, sabakā maṅgala, sabakā maṅgala hoya re. Terā maṅgala, terā maṅgala, terā maṅgala hoya re. Isa dharatī ke jitane prāṇī, (2x) sabake dukhaḍe dūra hoṅ. (2x) Janama janama ke bandhana ṭūṭeṅ,
antaratama kī gānṭheṅ ṭūṭeṅ; mānasa niramala hoya re. Sabakā maṅgala, sabakā maṅgala, sabakā maṅgala hoya re. Terā maṅgala, terā maṅgala, terā maṅgala hoya re. Jana jana maṅgala, jana jana maṅgala, jana jana sukhiyā hoya re.
|
MORNING CHANTING _ DAY 2 – BÀI TỤNG BUỔI SÁNG _ NGÀY THỨ 2 (Tiếng Việt)
Mọi người trên thế gian, hãy thức tỉnh! Đêm tối đã qua. Ánh sáng của Dhamma đã đến , bình minh của hạnh phúc. Hãy đến, chúng sanh trong vũ trụ, lắng nghe trí tuệ về Dhamma Nơi có hạnh phúc và an lạc, Tự do, giải thoát, niết bàn Đây là những lời của Đức Phật sáng chói trong Dhamma tinh khiết Mỗi từ tràn đầy và thấm nhuần hạnh phúc Ngọt ngào là những lời của Đức Phật mỗi câu như mật ngọt, đem lại an lạc và hạnh phúc, tràn đầy hương vị bất tử. Tới các vị Chư Thiên Những người an lạc với tâm an lạc, là những người nương tựa Tam bảo trong thế giới này hay thế giới khác; Devas ngự trên trái đất hay nơi khác, là những vị không ngừng gặt hái vô lượng phước lành;
Nguyện cho những Devas tới là những vị ngự ở Meru vương giả, ngọn núi vàng huy hoàng rực rỡ; [Nguyện các vị tới] vì an lạc và mãn nguyện, và sẽ cùng lắng nghe những lời cao quý của Đức Phật. Thành tâm cung kính Ngài, Đấng Thế Tôn, Bậc Chiến Thắng, Giải Thoát, Bậc Tự Giác Ngộ Hoàn Toàn. (3x) Con quay về nương tựa Đức Phật, Con quay về nương tựa Dhamma, Con quay về nương tựa Sangha. Dhamma là con đường con nguyện đi từng bước từ đầu đến đích cuối. Con cung kính Đức Phật; Con cung kính Dhamma; Con cung kính Sangha. Chư Phật trong quá khứ, Chư Phật trong tương lai, Chư Đức Phật hiện tiền, con luôn luôn cung kính. Dhammas trong quá khứ, Dhammas trong tương lai, Dhammas trong hiện tại, con luôn luôn cung kính.
Sanghas trong quá khứ, Sanghas trong tương lai, Sanghas trong hiện tại, con luôn luôn cung kính. Con không nương tựa vào nơi nào khác, Đức Phật là nơi nương tựa tuyệt đỉnh của con. Với lời chân thật này nguyện được chiến thắng và hạnh phúc. Con không nương tựa vào nơi nào khác, Dhamma là nơi nương tựa tuyệt đỉnh của con. Với lời chân thật này nguyện quý vị được chiến thắng và hạnh phúc.
Con không nương tựa vào nơi nào khác, Sangha là nơi nương tựa tuyệt đỉnh của con. Với lời chân thật này nguyện mọi chúng sinh được hạnh phúc.
Ngài là bậc đích thực : đã thanh lọc mọi bất tịnh, diệt trừ mọi phiền não bằng nỗ lực bản thân được giác ngộ hoàn toàn, hoàn hảo trong lý thuyết hoàn hảo trong thực hành, đạt được đích cuối cùng, hiểu biết toàn thể vũ trụ, Thầy dạy cả loài người, thật không ai sánh bằng .Thầy dạy cả chư thiên Đức Phật, Đấng Thế Tôn. Lời dạy của Đấng Thế Tôn,
được giảng giải rõ ràng
tự mình có thể thấy, kết quả được chứng nghiệm bây giờ và tại đây, mời gọi người đến chứng nghiệm, đưa thẳng tới mục tiêu, ai cũng chứng nghiệm được nếu là người có trí. Những người tu tập tốt hợp thành một đoàn thể đệ tử Đấng Thế Tôn. Những người thực hành cần mẫn hợp thành một đoàn thể đệ tử Đấng Thế Tôn. Tu tập với trí tuệ là người thuộc đoàn thể đệ tử Đấng Thế Tôn. Tu tập thật đúng đắn là người thuộc đoàn thể đệ tử Đấng Thế Tôn. Có thể chia thành bốn hoặc chia thành tám loại những người thuộc đoàn thể đệ tử Đấng Thế Tôn. xứng đáng được cúng dường , xứng đáng được cung phụng, xứng đáng được dâng hiến, xứng đáng được cung kính, ruộng phước của thế gian không ai sánh bằng.
Bài Kinh Châu Báu
(The paritta) mà uy quyền được chấp nhận bởi chư thiên trong vô lượng cõi trên trần gian; mà tại thành phố Vesali, ba thứ sợ hãi sợ vì: bệnh tật, ma quỷ và nạn đói, khiến bị biến mất nhanh chóng; chúng ta hãy tụng paritta đó.
Bất cứ chúng sinh nào tề tựu nơi đây, dù là người hay chư thiên, nguyện cho mọi chúng sinh này được hạnh phúc; hơn nữa, nguyện cho họ lắng nghe những lời này. Thế nên hãy để mọi chúng sinh lắng nghe! Hãy có metta cho loài người. Suốt ngày đêm họ cúng dường quý vị, bởi vậy hãy bảo vệ họ nhiệt tình. Những châu báu nào trên thế gian này và nơi khác, bất cứ chây báu quý giá nào tại cõi trời; không gì sánh bằng Đức Tathagata. Trong Đức Phật có châu báu quý giá này. Bằng cách nói ra sự thật này, nguyện hạnh phúc hiện diện. Không còn bất tịnh, hết đam mê, và trạng thái bất tử, Thánh nhân giòng giõi Sakaya ngộ được điều này; không gì sánh bằng Dhamma này. Hiện hữu trong Dhamma là châu báu quý giá này. Bằng cách nói ra sự thật này, nguyện cho hạnh phúc hiện diện.
Sự thanh tịnh do bậc Vô Thượng Phật tán dương, gọi là định không gián đoạn, không gì sánh bằng định đó. Châu báu quý giá này hiện diện trong Dhamma, Bằng tuyên ngôn sự thật này, nguyện cho hạnh phúc hiện diện. Tám hạng người được thánh nhân ca ngợi, gồm có bốn cặp, những đệ tử này của Đức Phật đáng được cúng dường; quà cúng dường cho họ đem lại nhiều quả lành. Châu báu quý giá này hiện diện trong Sangha. Bằng tuyên ngôn sự thật này, nguyện cho hạnh phúc hiện diện. Người điềm tĩnh, với tâm kiên định, sống theo giáo huấn của ngài Gotama, đã đạt được mục tiêu, nhập vào cõi bất tử, hưởng thụ hạnh phúc đạt được không bị khó khăn, Châu báu vô giá này hiện diện trong Sangha, Bằng tuyên ngôn về sự thật này, nguyện cho hạnh phúc hiện diện.
Như cột chôn chặt trong đất, không bị lay động bởi gió từ bốn phương, do đó, Ta tuyên bố, người với tâm thanh tịnh, hoàn toàn chứng ngộ Sự Thật Thánh Thiện. Châu báu vô giá này hiện diện trong Sangha.
Bằng tuyên ngôn về sự thật này, nguyện cho hạnh phúc hiện diện. Những người thấu hiểu Sự Thật Thánh Thiện, tự mình học được tuệ giác sâu sắc, cho dù sơ sót đến đâu đi nữa, cũng không tái sinh lần thứ tám. Châu báu vô giá này hiện diện trong Sangha. Bằng tuyên ngôn về sự thật này, nguyện cho hạnh phúc hiện diện.
Đạt được giai đoạn thứ nhất, (1) thoát khỏi ba điều: ảo tưởng về ngã, nghi ngờ, và (ràng buộc) nghi thức, nghi lễ và những thứ tương tự. Người đó thoát khỏi bốn cảnh giới tồi tệ (2) không thể phạm sáu điều cực ác. (3) Châu báu vô giá này hiện diện trong Sangha. Bằng tuyên ngôn về sự thật này, nguyện cho hạnh phúc hiện diện
Nếu người làm việc ác, dù là bằng việc làm, lời nói hay ý nghĩ, cũng không thể dấu được bởi vì người đã thấy trạng thái Nibbana không thể che dấu Châu báu vô giá này hiện diện trong Sangha. Bằng tuyên ngôn về sự thật này, nguyện cho hạnh phúc hiện diện.
Như khu rừng đầy bông hoa vào đầu hè, nên giáo huấn siêu phàm do Ngài giảng dạy đưa đến nibbana, tuyệt vời cho chúng sinh. Châu báu vô giá này hiện diện trong Đức Phật. Bằng tuyên ngôn về sự thật này, nguyện cho hạnh phúc hiện diện.
Bậc Siêu Phàm, người biết về siêu phàm, người trao truyền siêu phàm, người mang lại siêu phàm, đấng vô thượng đã giảng dạy về Dhamma siêu phàm Châu báu vô giá này hiện diện trong Đức Phật. Bằng tuyên ngôn về sự thật này, nguyện cho hạnh phúc hiện diện Với kamma (nghiệp) cũ tiêu trừ và không nghiệp mới nào nảy sinh, tâm không bám víu vào sự tái sinh trong tương lai. Nhân bị tiêu trừ, ham muốn (trở thành) không tăng trưởng: những thánh nhân này ra đi như ngọn lửa này bị dập tắt. Châu báu vô giá này hiện diện trong Sangha. Bằng tuyên ngôn về sự thật này, nguyện cho hạnh phúc hiện diện. Bất cứ chúng sinh nào tề tựu nơi đây, dù là người hay chư thiên, Đấng Tathagata được người và trời cung kính, chúng con cung kính Đức Phật; (bằng tuyên ngôn về sự thật này) nguyện cho hạnh phúc hiện diện. Chúng con cung kính Dhamma;
(bằng tuyên ngôn về sự thật này) nguyện cho hạnh phúc hiện diện; Chúng con cung kính Sangha; (bằng tuyên ngôn về sự thật này) nguyện cho hạnh phúc hiện diện.
Tôi cung kính vị Thầy kính mến của tôi, Tôi cúi đầu lạy dưới chân Ngài; Ngài đã cho tôi châu báu Dhamma, nên ma vương không thể tới gần. Ngài cho tôi nếm hương vị Dhamma, giờ không khoái cảm nào có thể sánh bằng. Với Dhamma chân thật Ngài trao truyền vỏ của vô minh được đập vỡ.
Lòng biết ơn tuôn trào từ mỗi lỗ chân lông Tôi không thể trả được món nợ này. Tôi sẽ sống cuộc đời Dhamma và phục vụ những người đau khổ [trên thế gian], đây là cách [để trả nợ] duy nhất. Với phước lành của sự phục vụ này, nguyện tất cả được hạnh phúc! Nguyện cho Dhamma khởi sinh trong tâm tất cả, nguyện cho tất cả được hạnh phúc Nguyện tất cả chúng sinh được hạnh phúc.
Nguyện cho tất cả được hạnh phúc, nguyện cho tất cả được hạnh phúc, nguyện cho tất cả được hạnh phúc! Nguyện cho quý vị được hạnh phúc, nguyện cho quý vị được hạnh phúc, nguyện cho quý vị được hạnh phúc! Tất cả chúng sinh trên trái đất này nguyện cho họ thoát khỏi mọi khổ đau. Nguyện cho họ giải thoát khỏi ràng buộc của vòng sinh tử, nguyện cho những nút thắt sâu nhất của họ được tháo gỡ, nguyện cho tâm họ được thanh lọc. Nguyện cho tất cả được hạnh phúc, nguyện cho tất cả được hạnh phúc, nguyện cho tất cả được hạnh phúc! Nguyện cho quý vị được hạnh phúc, nguyện cho quý vị được hạnh phúc, nguyện cho quý vị được hạnh phúc! Nguyện mọi chúng sinh được hạnh phúc, nguyện mọi chúng sinh được hạnh phúc, nguyện mọi chúng sinh được hạnh phúc!
|
MORNING CHANTING _ DAY 2 – BÀI TỤNG BUỔI SÁNG _ NGÀY THỨ 2 (English)
People of the world, awake! The dark night is over. The light has come of Dhamma, the dawn of happiness. Come, beings of the universe, listen to the wisdom of the Dhamma. In this lie happiness and peace, freedom, liberation, nibbana. These are the words of the Buddha, the radiance of pure Dhamma, each syllable of them filled and permeated with happiness. Sweet are the words of the Buddha, each phrase like honey, yielding welfare and happiness, suffused with the taste of the deathless. Address to the Devas Those peaceful ones of peaceful mind, whose refuge is the Triple Gem in this world or beyond; devas dwelling on earth or elsewhere, who are unceasingly acquiring numerous merits;
may those devas come who dwell on royal Meru, the glorious golden mountain;
[may they come] for peace and contentment, and together may they listen to the excellent words of the Buddha. Homage to him, the blessed one, the worthy conqueror, the fully self-enlightened Buddha. (3x) I take refuge in the Buddha, I take refuge in the Dhamma, I take refuge in the Sangha. By walking on the path of Dhamma from the first step to the final goal, I pay respects to the Buddha; I pay respects to the Dhamma; I pay respects to the Sangha. To the Buddhas of the past, to the Buddhas yet to come, to the Buddhas of the present, always I pay respects. To the Dhammas of the past, to the Dhammas yet to come, to the Dhammas of the present, always I pay respects.
To the Sanghas of the past, to the Sanghas yet to come, to the Sanghas of the present, always I pay respects.
No other refuge have I, the Buddha is my supreme refuge. By this true utterance may there be victory and happiness.
No other refuge have I, the Dhamma is my supreme refuge. By this true utterance may you have victory and happiness.
No other refuge have I, the Sangha is my supreme refuge. By this true utterance may all beings be happy. Such truly is he: freed from impurities, having destroyed all mental defilements, fully enlightened by his own efforts, perfect in theory and in practice, having reached the final goal, knower of the entire universe, incomparable trainer of men, teacher of gods and humans, the Buddha, the Blessed One. Clearly expounded is the teaching of the Blessed One, to be seen for oneself,
giving results here and now,
inviting one to come and see, leading straight to the goal, capable of being realized by any intelligent person. Those who have practiced well form the order of disciples of the Blessed One; those who have practiced uprightly form the order of disciples of the Blessed One; those who have practiced wisely form the order of disciples of the Blessed One; those who have practiced properly form the order of disciples of the Blessed One; that is, the four pairs of persons, the eight kinds of individuals – these form the order of disciples of the Blessed One: worthy of gifts, of hospitality, of offerings, of reverent salutation, an incomparable field of merit for the world. Jewel Ratana Sutta
[The paritta] whose authority is accepted by the devas in the myriad world systems; which, in the city of Vesali, the three fears resulting from: disease, non- human beings and famine, it quickly caused to disappear; let us recite that paritta.
Whatever beings are here assembled, whether terrestrial or celestial, may these beings be happy; moreover, may they carefully listen to these words. Therefore let all beings listen! Have mettā for human beings. Day and night they bring offerings to you, therefore guard them diligently. Whatever treasure there is in this world or beyond, whatever precious jewel is in the heavens; there is none equal to the Tathāgata. In the Buddha is this precious jewel. By the utterance of this truth, may there be happiness. Cessation of defilements, freedom from passion, and the deathless state, the serene Sage of the Sakyas realized these; there is nothing equal to this Dhamma. In the Dhamma is this precious jewel. By the utterance of this truth,
may there be happiness. That purity praised by the supreme Buddha, called concentration without interruption; there is nothing equal to that concentration. In the Dhamma is this precious jewel. By the utterance of this truth, may there be happiness. The eight individuals praised by the virtuous, constituting four pairs, these disciples of the Buddha are worthy of offerings; gifts made to them yield abundant fruit. In the Sangha is this precious jewel. By the utterance of this truth, may there be happiness. Those passionless ones, with a steadfast mind, who apply themselves to the teachings of Gotama, having attained that which should be attained, plunging into the deathless, enjoy the peace they have gained without expense. In the Sangha is this precious jewel. By the utterance of this truth, may there be happiness. Just as a firm post sunk in the earth cannot be shaken by the winds from the four directions, so, I declare, is a pure- minded person who thoroughly realizes the Noble truths. In the Sangha is this
precious jewel. By the utterance of this truth, may there be happiness. Those who have clearly understood the Noble truths, well-taught by him of deep wisdom, however heedless they may be, do not take an eighth rebirth. In the Sangha is this precious jewel.By the utterance of this truth, may there be happiness. With the attainment of the first Path,1 three things are abandoned in him: illusion of self, doubt, and [clinging to] rites and rituals and such things. He is free from the four woeful realms 2 and is incapable of committing the six heinous crimes.3 In the Sangha is this precious jewel. By the utterance of this truth, may there be happiness. If he does an unwholesome deed, whether by body, speech, or thought, he is incapable of hiding it, for it is said That such concealment is not possible for one who has seen the state of nibbāna. In the Sangha is this precious jewel. By the utterance of this truth, may there be happiness.
As the woodland grove is crowned with blossoms in the first heat of summer, so the sublime doctrine that he expounded leads to nibbāna, highest good of beings. In the Buddha is this precious jewel. By the utterance of this truth, may there be happiness. The Sublime One, the knower of the sublime, the bestower of the sublime, the bringer of the sublime, has taught the unsurpassed Dhamma. In the Buddha is this precious jewel. By the utterance of this truth, may there be happiness. With the old [kamma] destroyed and no new arising, the mind is unattached to a future birth. The seeds destroyed, the desire [for becoming] does not grow: these wise ones go out even as this lamp is extinguished. In the Sangha is this precious jewel. By the utterance of this truth, may there be happiness. Whatever beings are here assembled, whether terrestrial or celestial, the Tathāgata is revered by gods and men; we pay respects to the Buddha; [by the utterance of this truth] may there be happiness;
we pay respects to the Dhamma; [by the utterance of this truth] may there be happiness; we pay respects to the Sangha; [by the utterance of this truth] may there be happiness. I pay homage to my revered teacher, bowing my head at his feet. he gave me such a jewel of Dhamma that evil within me gets uprooted. He let me taste Dhamma’s nectar, now no sensual pleasure can allure. Such an essence of Dhamma he gave, that the shell [of ignorance] dropped away. From every pore such gratitude is pouring I cannot repay the debt I will live the Dhamma life and serve the suffering people [of the world], this is the only way [to repay the debt]. By the merits of this service, may all be happy! May Dhamma arise in the minds of all, May all be happy! May all beings be happy
May all be happy, may all be happy, may all be happy! May you be happy, may you be happy, may you be happy! All the beings on this earth, may they be free from suffering. May they be liberated from the bondage of [the cycle of] existence, May their innermost mental knots be untied. May their minds be purified. May all be happy, may all be happy, may all be happy! May you be happy, may you be happy, may you be happy! May all beings be happy, may all beings be happy, may all beings be peaceful!
|