BÀI TỤNG NGÀY THỨ 3 KHOÁ THIỀN VIPASSANA 10 NGÀY – THIỀN SƯ S.N. GOENKA

BÀI TỤNG BUỔI SÁNG – NGÀY THỨ 3 KHOÁ THIỀN VIPASSANA 10 NGÀY

Buổi sáng ngày thứ 3 trong khoá thiền Vipassana 10 ngày, Ngài S.N. Goenka tụng bài kinh Karaniyametta Sutta – Bài Kinh Sự Thực Hành Metta (Kinh Tâm Từ)

NỘI DUNG BÀI TỤNG BUỔI SÁNG – NGÀY THỨ 3 – TIẾNG PALI, TIẾNG ẤN ĐỘ, TIẾNG ANH, TIẾNG VIỆT NAM

Bài tụng ngày thứ 3 khoá thiền Vipassana 10 ngày – Pali Chanting – S.N. Goenka.pdf

 

AUDIO CÁC BÀI TỤNG BUỔI SÁNG:

 

VIDEO BÀI TỤNG BUỔI SÁNG NGÀY 3:

 

NỘI DUNG BÀI TỤNG (TIẾNG HINDI – PALI – ENGLISH – VIETNAM)

 

TIẾNG PALI & HINDI TIẾNG VIỆT TIẾNG ANH
MORNING CHANTING _ DAY 3 – BÀI TỤNG BUỔI SÁNG _ NGÀY THỨ 3 (Pali)


1.a) Jāgo logo jagata ke,

 bītī kālī rāta;

 huā ujālā dharama kā

 maṅgala huā prabhāta.

 Āo prāṇī viśva ke,

 suno Dharama kā jñāna;

 isa meṅ sukha hai, śānti hai,

 mukti mokṣa nirvāṇa.

 Yaha to vāṇi buddha kī,

 śuddha dharama kī jyota;

 akṣara akṣara meṅ bharā,

 maṅgala otaparota.

 Buddha-vāṇī mīṭhī ghaṇī,

 misarī ke se bola;

 kalyāṇī maṅgalamayī,

 bharā amṛtarasa ghola.

2.a) Deva-āhvānasuttaṃ

 Samantā cakkavāḷesu,

 atrāgacchantu devatā; (3x)

 saddhammaṃ munirājassa,

 suṇantu sagga-mokkhadaṃ.

 Dhammassavaṇakālo ayaṃ,

 bhadantā’ (3x)

3.) namo tassa bhagavato arahato

 sammā-sambuddhassa. (3x)

4.) Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi;

 dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi;

 saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

5.) Imāya

 dhammānudhammapaṭipattiyā,

 buddhaṃ pūjemi;

 dhammaṃ pūjemi;

 saṅghaṃ pūjemi.

6.) Ye ca Buddhā atītā ca,

 ye ca Buddhā anāgatā;

 paccuppannā ca ye Buddhā,

 ahaṃ vandāmi sabbadā.

 Ye ca Dhammā atītā ca,

 ye ca Dhammā anāgatā;

 paccuppannā ca ye Dhammā,

 ahaṃ vandāmi sabbadā.

 Ye ca Saṅghā atītā ca,

 ye ca Saṅghā anāgatā;

 paccuppannā ca ye Saṅghā,

 ahaṃ vandāmi sabbadā.

7.) natthi me saraṇaṃ aññaṃ,

 Buddho me saraṇaṃ varaṃ;

 etena sacca-vajjena, jayassu

 jaya-maṅgalaṃ.

 natthi me saraṇaṃ aññaṃ,

 Dhammo me saraṇaṃ varaṃ;

 etena sacca-vajjena,

 bhavatu te jaya-maṅgalaṃ.

 natthi me saraṇaṃ aññaṃ,

 Saṅgho me saraṇaṃ varaṃ;

 etena sacca-vajjena, bhavatu

 sabba-maṅgalaṃ.

 Tiratana Vandanā

8.) Iti’pi so bhagavā arahaṃ,

 sammā-sambuddho, vijjācaraṇa-

 sampanno, sugato,

 lokavidū,

 anuttaro purisa-damma-sārathī,

 satthā deva-manussānaṃ,

 Buddho Bhagavā ‘ti.

9.) Svākkhāto Bhagavatā Dhammo,

 sandiṭṭhiko,

 akāliko,

 ehi-passiko,

 opaneyyiko,

 paccattaṃ veditabbo viññūhī’ ti.

10.) Suppaṭipanno

 Bhagavato sāvaka-saṅgho;

 ujuppaṭipanno

 Bhagavato sāvaka-saṅgho;

 ñāyappaṭipanno

 Bhagavato sāvaka saṅgho;

 sāmīcippaṭipanno

 Bhagavato sāvaka-saṅgho;

 yadidaṃ cattāri purisa-yugāni,

 aṭṭha-purisa-puggalā,

 esa Bhagavato sāvaka-saṅgho;

 āhuneyyo,

 pāhuneyyo,

 dakkhiṇeyyo,

 añjali-karaṇīyo,

 anuttaraṃ puññakkhettaṃ

 lokassā’ti.

 Karaṇīyametta Suttaṃ

 Yassānubhāvato yakkhā,

 neva dassenti bhīsanaṃ;

 yañhi cevānuyuñjanto

 rattindivamatandito.

 Sukhaṃ supati sutto ca,

 pāpaṃ kiñci na passati;

 evamādi guṇūpetaṃ,

 parittaṃ taṃ bhaṇāmahe.

 Karaṇīyamatthakusalena,

 yantaṃ santaṃ padaṃ abhisa-

 mecca; sakko ujū ca suhujū ca,

 suvaco cassa mudu anatimānī.

 Santussako ca subharo ca,

 appakicco ca sallahukavutti;

 santindriyo ca nipako ca,

 appagabbho kulesu

 ananugiddho.

 Na ca khuddaṃ samācare kiñci,

 yena viññū pare upavadeyyuṃ;

 sukhino vā khemino hontu,

 sabbe sattā bhavantu sukhitattā.

 Ye keci pāṇabhūtatthi,

 tasā vā thāvarā vanavasesā;

 dīghā vā ye mahantā vā,

 majjhimā rassakā aṇukathūlā.

 Diṭṭhā vā ye va adiṭṭhā,

 ye va dūre vasanti avidūre;

 bhūtā vā sambhavesī vā,

 sabbe sattā bhavantu sukhitattā.

 Na paro paraṃ nikubbetha,

 nātimaññetha katthaci na kañci;

 byārosanā paṭighasaññā,

 nāññamaññassa

 dukkhamiccheyya.

 Mātā yathā niyaṃ puttaṃ,

 āyusā ekaputtamanurakkhe;

 evampi sabbabhūtesu

 mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ.

 Mettañca sabbalokasmiṃ,

 mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ;

 uddhaṃ adho ca tiriyañca,

 asambādhaṃ averamasapattaṃ.

 Tiṭṭhaṃ caraṃ nisinno vā,

 sayāno yāvatassa vigatamiddho;

 etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya,

 brahmametaṃ

 vihāramidhamāhu.

 Diṭṭhiñca anupaggamma,

 sīlavā dassanena sampanno,

 kāmesu vineyya gedhaṃ,

 na hi jātu gabbhaseyyaṃ

 punaretī ti.

 Post-Pāli Sutta

 Yānīdha bhūtāni samāgatāni,

 bhummāni vā yāni’va

 antalikkhe;

 tathāgataṃ

 devamanussapūjitaṃ,

 buddhaṃ namassāma

 suvatthi hotu;

 dhammaṃ namassāma

 suvatthi hotu;

 saṅghaṃ namassāma

 suvatthi hotu.

 namana karūṅ gurudeva ko,

 caraṇana śīśa navāya;

 dharama ratana aisā diyā,

 pāpa ukhaḍatā jāya.

 Aisā cakhāyā dharama rasa,

 biṣayana rasa na lubhāya;

 dharama sāra aisā diyā,

 chilake diye chuḍāya.

 roma roma kirataga huā,

 ṛṇa na cukāyā jāya;

 jīūṅ jīvana dharama kā,

 dukhiyana kī sevā karūṅ,

 yahī ucita upāya.

 Isa sevā ke puṇya se,

 bhalā sabhī kā hoya;

 Sabake mana jāge dharama,

 mukti dukhoṅ se hoya,

 sabakā maṅgala hoya.

 Bhavatu sabba maṅgalaṃ(3x)

 Sabakā maṅgala,

 sabakā maṅgala,

 sabakā maṅgala hoya re.

 Terā maṅgala,

 terā maṅgala,

 terā maṅgala hoya re.

 Dṛśya aura adṛśya,

 sabhī jīvoṅ kā maṅgala hoya re.

 (2x) nirabhaya hoṅ nirabaira

 bane saba,(2x) nirabhaya hoṅ

 nirabaira bane saba, sabhī

 nirāmaya hoṅya re.

 Sabakā maṅgala,

 sabakā maṅgala,

 sabakā maṅgala hoya re.

 Terā maṅgala,

 terā maṅgala,

 terā maṅgala hoya re.

 Jana jana maṅgala,

 jana jana maṅgala,

 jana jana sukhiyā hoya re.

MORNING CHANTING _ DAY 3 – BÀI TỤNG BUỔI SÁNG _ NGÀY THỨ 3 (Tiếng Việt)


Mọi người trên thế gian, hãy thức tỉnh!

Đêm tối đã qua.

Ánh sáng của Dhamma đã đến ,

bình minh của hạnh phúc.

Hãy đến, chúng sanh trong vũ trụ,

lắng nghe trí tuệ về Dhamma

Nơi có hạnh phúc và an lạc,

Tự do, giải thoát, niết bàn

Đây là những lời của Đức Phật

sáng chói trong Dhamma tinh khiết

Mỗi từ tràn đầy

và thấm nhuần hạnh phúc

Ngọt ngào là những lời của Đức Phật

mỗi câu như mật ngọt,

đem lại an lạc và hạnh phúc,

tràn đầy hương vị bất tử.

Tới các vị Chư Thiên

Chư Thiên từ khắp trong các hệ thế giới,

xin hãy tụ họp nơi đây, (3x)

để lắng nghe Giáo pháp thuần khiết sẽ dẫn

tới cõi trời và giãi thoát,

Xin những vị đáng kính, bây giờ là lúc nên

lắng nghe Dhamma, (3x)

Thành tâm cung kính Ngài, Đấng Thế Tôn,

Bậc Chiến Thắng, Giải Thoát, Bậc Tự Giác

Ngộ Hoàn Toàn. (3x)

Con quay về nương tựa Đức Phật,

Con quay về nương tựa Dhamma,

Con quay về nương tựa Sangha.

Dhamma là con đường con nguyện

đi từng bước từ đầu đến đích cuối.

Con cung kính Đức Phật;

Con cung kính Dhamma;

Con cung kính Sangha.

Chư Phật trong quá khứ,

Chư Phật trong tương lai,

Chư Đức Phật hiện tiền,

con luôn luôn cung kính.

Dhammas trong quá khứ,

Dhammas trong tương lai,

Dhammas trong hiện tại,

con luôn luôn cung kính.

Sanghas trong quá khứ,

Sanghas trong tương lai,

Sanghas trong hiện tại,

con luôn luôn cung kính.

Con không nương tựa vào nơi nào khác,

Đức Phật là nơi nương tựa tuyệt đỉnh của

con. Với lời chân thật này

nguyện được chiến thắng và hạnh phúc.

Con không nương tựa vào nơi nào khác,

Dhamma là nơi nương tựa tuyệt đỉnh của

con. Với lời chân thật này nguyện quý vị

được chiến thắng và hạnh phúc.

Con không nương tựa vào nơi nào khác,

Sangha là nơi nương tựa tuyệt đỉnh của con.

Với lời chân thật này nguyện mọi chúng

sinh được hạnh phúc.

Ngài là bậc đích thực : đã thanh lọc mọi bất

tịnh, diệt trừ mọi phiền não bằng nỗ lực

bản thân được giác ngộ hoàn toàn, hoàn hảo

trong lý thuyết hoàn hảo trong thực hành,

đạt được đích cuối cùng, hiểu biết toàn thể

vũ trụ, Thầy dạy cả loài người, thật không ai

sánh bằng .Thầy dạy cả chư thiên Đức Phật,

Đấng Thế Tôn.

Lời dạy của Đấng Thế Tôn,

được giảng giải rõ ràng tự mình có thể thấy,

kết quả được chứng nghiệm bây giờ và tại

đây,

mời gọi người đến chứng nghiệm,

đưa thẳng tới mục tiêu,

ai cũng chứng nghiệm được nếu là người có

trí.

Những người tu tập tốt hợp thành một đoàn

thể đệ tử Đấng Thế Tôn.

Những người thực hành cần mẫn hợp thành

một đoàn thể đệ tử Đấng Thế Tôn.

Tu tập với trí tuệ là người thuộc đoàn thể đệ

tử Đấng Thế Tôn.

Tu tập thật đúng đắn là người thuộc đoàn

thể đệ tử Đấng Thế Tôn.

Có thể chia thành bốn hoặc chia thành tám

loại những người thuộc đoàn thể đệ tử

Đấng Thế Tôn.

xứng đáng được cúng dường ,

xứng đáng được cung phụng,

xứng đáng được dâng hiến,

xứng đáng được cung kính,

ruộng phước của thế gian không ai sánh

bằng.

Bài kinh sự thực hành Metta

Với sức mạnh (của sutta này)

Yakkhas không lộ vẻ sợ hãi.

Một người sống và thực hành (metta)

ngày và đêm ngủ bình an,

trong lúc ngủ không có ác mộng.

Được ban cho những phẩm chất như thế,

chúng ta hãy tụng paritta này.

Người giỏi giang trong hạnh phúc và người

muốn đạt được sự bình an tối hậu, phải có

khả năng, ngay thẳng, rất ngay thẳng, nói

năng nhẹ nhàng, dịu dàng và khiêm tốn.

Ta phải mãn nguyện, ít nhu cầu, ít bận rộn, ít

mong muốn, với tâm an tĩnh, thận trọng, kín

đáo, không vô liêm sỉ, và không quá ràng

buộc vào gia đình.

Ta không làm điều sai quấy nhỏ để bị người

có trí khiển trách. Nguyện cho mọi chúng

sinh được hạnh phúc và an toàn, nguyện cho

họ được hạnh phúc trong lòng.

Bất cứ chúng sinh nào hiện diện, không

ngoại lệ, đứng yên hay di động, dài hay lớn,

trung bình hay bé, nhỏ hay to

vô hình hay hữu hình, những người ở gần

hay xa, những người đã sinh hay sắp ra đời,

nguyện cho mọi chúng sinh trong lòng được

hạnh phúc.

Hãy để không ai lừa gạt người khác hay

khinh khi ai ở bất cứ nơi đâu; đầy giận dữ

hay ác ý, hãy để không một ai muốn hãm hại

người khác.

Như người mẹ xả thân bảo vệ đứa con duy

nhất, dù vậy hãy để ta trau dồi tình thương

vô bờ đối với mọi chúng sinh.

Hãy để metta bao la của ta lan tỏa khắp thế

gian, bên trên, bên dưới, ngang dọc, không

bị cản trở, không oán ghét và thù hận.

Cho dù ta đang đứng, đang đi, đang ngồi hay

đang nằm, khi còn tỉnh thức, ta phải phát

triển ý thức này (về metta bao la)

Họ nói, đây là cách sống siêu phàm.

Không rơi vào tà kiến,

được ban cho sila và tuệ giác,

trút bỏ dục lạc,

ta không tái sinh.

Bất kỳ chúng sinh nào tụ họp nơi đây,

dù trên mặt đất hay chư thiên,

Đấng Thế Tôn (Tathagata) được cung kính

bởi trời và người;

Chúng ta cung kính Đức Phật;

[bằng cách thốt ra sự thật này]

nguyện được hạnh phúc;

Chúng ta cung kính Dhamma;

[bằng cách thốt ra sự thật này]

nguyện được hạnh phúc;

Chúng ta cung kính Sangha;

[bằng cách thốt ra sự thật này]

nguyện được hạnh phúc.

Tôi cung kính vị Thầy kính mến của tôi,

Tôi cúi đầu lạy dưới chân Ngài;

Ngài đã cho tôi châu báu Dhamma,

nên ma vương không thể tới gần.

Ngài cho tôi nếm hương vị Dhamma,

giờ không khoái cảm nào có thể sánh bằng.

Với Dhamma chân thật Ngài trao truyền

vỏ của vô minh được đập vỡ.

Lòng biết ơn tuôn trào từ mỗi lỗ chân lông

Tôi không thể trả được món nợ này.

Tôi sẽ sống cuộc đời Dhamma và phục vụ

những người đau khổ [trên thế gian],

đây là cách [để trả nợ] duy nhất.

Với phước lành của sự phục vụ này,

nguyện tất cả chúng sanh được hạnh phúc!

Nguyện cho Dhamma khởi sinh trong tâm

của tất cả, nguyện cho họ thoát khỏi khổ

đau. Nguyện cho tất cả được hạnh phúc

Nguyện tất cả chúng sinh được hạnh phúc.

Nguyện cho tất cả được hạnh phúc,

nguyện cho tất cả được hạnh phúc,

nguyện cho tất cả được hạnh phúc!

Nguyện cho quý vị được hạnh phúc,

nguyện cho quý vị được hạnh phúc,

nguyện cho quý vị được hạnh phúc!

Hữu hình hay vô hình

Nguyện cho tất cả được hạnh phúc

Nguyện cho tất cả thoát khỏi sợ hãi và thù

hận, nguyện cho tất cả thoát khỏi sợ hãi và

thù hận, nguyện cho tất cả thoát khỏi bệnh

tật

Nguyện cho tất cả được hạnh phúc,

nguyện cho tất cả được hạnh phúc,

nguyện cho tất cả được hạnh phúc!

Nguyện cho quý vị được hạnh phúc,

nguyện cho quý vị được hạnh phúc,

nguyện cho quý vị được hạnh phúc!

Nguyện mọi chúng sinh được hạnh phúc,

nguyện mọi chúng sinh được hạnh phúc,

nguyện mọi chúng sinh được hạnh phúc!

MORNING CHANTING _ DAY 3 – BÀI TỤNG BUỔI SÁNG _ NGÀY THỨ 3 (English)


People of the world, awake!

The dark night is over.

The light has come of Dhamma,

the dawn of happiness.

Come, beings of the universe,

listen to the wisdom of the Dhamma.

In this lie happiness and peace,

freedom, liberation, nibbana.

These are the words of the Buddha,

the radiance of pure Dhamma,

each syllable of them filled

and permeated with happiness.

Sweet are the words of the Buddha,

each phrase like honey,

yielding welfare and happiness,

suffused with the taste of the deathless.

Address to the Devas

From throughout the world systems

assemble here, oh devas, (3x)

to listen to the pure Dhamma of the

king of sages, leading to heaven and

liberation. It is now time for listening to

the Dhamma , respected ones. (3x)

Homage to him, the blessed one,

the worthy conqueror,

the fully self-enlightened Buddha. (3x)

I take refuge in the Buddha,

I take refuge in the Dhamma,

I take refuge in the Sangha.

By walking on the path of Dhamma

from the first step to the final goal,

I pay respects to the Buddha;

I pay respects to the Dhamma;

I pay respects to the Sangha.

To the Buddhas of the past,

to the Buddhas yet to come,

to the Buddhas of the present,

always I pay respects.

To the Dhammas of the past,

to the Dhammas yet to come,

to the Dhammas of the present, always

I pay respects.

To the Sanghas of the past,

to the Sanghas yet to come,

to the Sanghas of the present,

always I pay respects.

No other refuge have I,

the Buddha is my supreme refuge.

By this true utterance

may there be victory and happiness.

No other refuge have I,

the Dhamma is my supreme refuge.

By this true utterance

may you have victory and happiness.

No other refuge have I,

the Sangha is my supreme refuge.

By this true utterance

may all beings be happy.

Such truly is he: freed from impurities,

having destroyed all mental

defilements, fully enlightened by his

own efforts, perfect in theory and in

practice, having reached the final goal,

knower of the entire universe,

incomparable trainer of men, teacher of

gods and humans, the Buddha, the

Blessed One.

Clearly expounded is the teaching of the

Blessed One,

to be seen for oneself,

giving results here and now,

inviting one to come and see,

leading straight to the goal,

capable of being realized by any

intelligent person.

Those who have practiced well form the

order of disciples of the Blessed One;

those who have practiced uprightly

form the order of disciples of the

Blessed One;

those who have practiced wisely form

the order of disciples of the Blessed

One;

those who have practiced properly form

the order of disciples of the Blessed

One;

that is, the four pairs of persons, the

eight kinds of individuals – these form

the order of disciples of the Blessed

One:

worthy of gifts,

of hospitality,

of offerings,

of reverent salutation,

an incomparable field of merit

for the world.

Discourse on Practicing Mettā

By the power [of this sutta]

the Yakkhas do not show fearful visions.

A person who is engaged in and

practicing [mettā] day and night

sleeps peacefully, and while sleeping,

does not have bad dreams.

Endowed with these qualities,

let us recite this paritta.

One who is skilled in welfare

and who wishes to attain the ultimate

peace, should be able, upright, very

upright, soft-spoken, gentle, and

humble.

One should be contented, easily

supported, with few involvements and

few wants, with senses calmed, discreet,

not impudent, and not be greedily

attached to families.

One should not commit the slightest

wrong for which one might be censured

by the wise. May all beings be happy

and secure, may they be happy within

themselves.

Whatever living beings there may be,

without exception, movable or

stationary, long or large, medium or

small, fine or coarse.

Seen or unseen, those dwelling far or

near, those who are born and those

coming to birth, may all beings be

happy within themselves.

Let none deceive another

or despise anyone anywhere; filled with

anger or ill will,

let one not wish any harm for another.

Just as a mother would protect her only

child with her own life,

even so let one cultivate boundless love

towards all beings.

Let one’s thoughts of boundless mettā

pervade the whole world, above,

below and across, unhindered, free of

hate and of enmity.

Whether one is standing, walking,

sitting or lying down, as long as one is

awake, one should develop this

mindfulness [of boundless mettā].

This, they say, is a sublime way of living.

Not falling into wrong views,

endowed with sīla and insight,

discarding sensual desire,

one does not come into a womb again.

Whatever beings are here assembled,

whether terrestrial or celestial,

the Tathāgata is revered

by gods and men;

we pay respects to the Buddha;

[by the utterance of this truth]

may there be happiness;

we pay respects to the Dhamma

[by the utterance of this truth]

may there be happiness;

we pay respects to the Sangha;

[by the utter- ance of this truth]

may there be happiness.

I pay homage to my revered teacher,

bowing my head at his feet.

he gave me such a jewel of Dhamma

that evil within me gets uprooted.

He let me taste Dhamma’s nectar,

now no sensual pleasure can allure.

Such an essence of Dhamma he gave,

that the shell [of ignorance] dropped

away.

From every pore such gratitude

is pouring I cannot repay the debt

I will live the Dhamma life and serve the

suffering people [of the world],

this is the only way [to repay the debt].

By the merits of this service,

may all beings be happy!

May Dhamma arise in the minds of all,

may they be free from suffering!

May all be happy!

May all beings be happy

May all be happy,

may all be happy,

may all be happy!

May you be happy,

may you be happy,

may you be happy!

Visible or invisible,

may all beings be happy.

May all be free from fear and animosity,

may all be free from fear and animosity,

may all be free from illness.

May all be happy,

may all be happy,

may all be happy!

May you be happy,

may you be happy,

may you be happy!

May all beings be happy,

may all beings be happy,

may all beings be peaceful!

Các bài viết trong sách

Dhamma Nanda

Tổng hợp và chia sẻ các bài viết về Dhamma, đặc biệt là những lợi ích phương pháp thiền Vipassana, phương pháp thiền cổ xưa được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2600 năm, và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung của nhân loại. Phương pháp không tông phái này nhằm tới việc diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của việc hoàn toàn giải thoát..

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *